Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾVÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế tới ngành dịch vụ du lịch của Việt Nam

Sinh viên thực hiện Trần Thị hà Vân
Lớp : Pháp 2
Khoá : K 43
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS Nguyễn Thị Mơ


Hà Nội, tháng 05/2008

i
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 0
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3
I. KHÁI NIỆM VỀ DỊCH VỤ, DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT


NAM 3
1. KHÁI NIỆM VỀ DỊCH VỤ VÀ NGÀNH DỊCH VỤ 3
2. NGÀNH DU LỊCH VÀ DỊCH VỤ DU LỊCH 6
3. NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM 12
II. NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
17
1. KHÁI NIỆM. ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU CỦA HNKTQT ĐỐI VỚI NGÀNH
DỊCH VỤ DU LỊCH 17
2. YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI NGÀNH DỊCH VỤ
DU LỊCH VIỆT NAM 23
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM 28
I. CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH 28
1. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT
NAM- HOA KÌ VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH 28
2. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG WTO VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH 30
3. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG TRONG ASEAN VỀ DỊCH VỤ DU
LỊCH 33
II. TÁC ĐỘNG TỚI DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM DO VIỆC THỰC HIỆN
CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ 34
1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC 34
1.1. ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 34
1.2. ĐỐI VỚI NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM 39

ii
1.3. ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ DU LỊCH
CỦA VIỆT NAM 43
1.4. ĐỐI VỚI NGƢỜI DÂN 49
2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC 51
2.1. Ở PHẠM VI QUỐC GIA 52

2.2. ĐỐI VỚI NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM 54
2.3. ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ DU LỊCH
CỦA VIỆT NAM 57
2.4. CÁC ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC TỚI NGƢỜI DÂN 62
3. NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC 65
3.1. VỀ PHÍA NHÀ NƢỚC 65
3.2. VỀ PHÍA NGÀNH DU LỊCH 69
3.3. VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ DU LỊCH 71
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT
NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG
THỜI GIAN TỚI 74
I. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI 74
II. TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH 80
1. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC 80
2. KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE 85
III. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ 86
1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƢỚC 86
1.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, CHÍNH SÁCH VỀ DU LỊCH
NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN CHO DU LỊCH PHÁT TRIỂN 86
1.2. XÂY DỰNG CHIẾN LƢỢC CẠNH TRANH DU LỊCH QUỐC GIA
NHẰM TẠO THƢƠNG HIỆU CHO DU LỊCH 91
1.3. HOÀN THIỆN VIỆC PHÂN CẤP QUẢN LÍ NHÀ NƢỚC VỀ DU LỊCH
Ở TRUNG ƢƠNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG 92

iii
2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH 93
2.1. TỔ CHỨC CÔNG TÁC LỮ HÀNH, COI TRỌNG DU LỊCH TRONG
NƢỚC 93

2.2. TĂNG CƢỜNG XÚC TIẾN, QUẢNG BÁ DU LỊCH 94
2.3. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 95
3. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VỚI CÁC CÔNG TY CUNG CẤP DỊCH VỤ DU
LỊCH 97
3.1. ĐA DẠNG HÓA SẢN PHẨM, LOẠI HÌNH DU LỊCH 97
3.2. TĂNG CƢỜNG PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VỚI CÁC
NGÀNH KINH TẾ KHÁC 100
3.3. GẮN KẾT DU LỊCH VỚI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 103
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TỪ
TÊN TIẾNG ANH
TÊN TIẾNG VIỆT
ASEAN
Association of South-East
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam á
ASEANTA
ASEAN Tourism Association
Hiệp hội Du lịch ASEAN
ATM
Automatic Teller Machine
Máy rút tiền tự động

GATS
General Agreement on Trade
of Service

Hiệp định chung về thƣơng
mại dịch vụ
GNP
National
Tổng sản phẩm quốc gia
HNKTQT

Hội nhập kinh tế quốc tế
MICE
Meeting, Incentive,
Convention, Exhibition
Hội họp, Khen thƣởng, Hội
nghị và Triển lãm
PATA

Pacific Asia Travel
Association
Hiệp hội Du lịch Châu á -
Thái Bình Dƣơng
UNWTO
World Tourism Organisation
Tổ chức Du lịch thế giới
USD
USD Dollar
Đôla Mĩ
WTO

World Trade Organisation
Tổ chức Thƣơng mại thế
giới




LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng sâu sắc tới GS.TS Nguyễn Thị Mơ đã dành thời gian và
tâm huyết hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi nhiệt tình chu đáo trong suốt quá trình học tập, triển
khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc
tế trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp của mình.
Ngoài ra, sự giúp đỡ, động viên của bạn bè, gia đình là nguồn sức mạnh tinh
thần to lớn đã giúp tôi đi đến đích cuối. Tôi xin ghi nhận và chân thành cảm ơn!

0
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng khoa học kĩ thuật đem lại thành tựu kì diệu cho nhân loại. Việc
cơ giới hoá và tự động hoá ngày càng phát triển đem lại năng suất lao động cao,
mức sống tốt hơn và thời gian rỗi của ngƣời lao động nhiều hơn. Do đó, các chuyến
du lịch phát triển nhanh cả về số lƣợng lẫn độ dài của các chuyến du lịch cùng dịch
vụ du lịch ngày càng phát triển hơn.
Trong những năm qua, cùng với nhiều đƣờng lối và chủ trƣơng đƣợc đƣa ra
trong công cuộc Đổi mới ở đất nƣớc ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng xác định
du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Quả thật, Du lịch Việt Nam sẽ
phát triển bùng nổ nhờ vẫn giữ đƣợc hƣơng vị và sắc màu Á Đông đặc trƣng mà
nhiều nƣớc châu Á khác đang mai một dần, cùng với phong cảnh núi non hấp dẫn,
những bãi cát dài còn nguyên sơ…bên cạnh một cục diện chính trị ổn định, kinh tế

tăng trƣởng nhanh và con ngƣời nơi đây hiền hoà, hiếu khách.
Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của du lịch, sự vận động và phát
triển của các Tổ chức du lịch quốc tế và khu vực là một tất yếu khách quan. Xu
hƣớng này làm tăng khả năng liên kết của ngành du lịch trên toàn thế giới. Ngành
dịch vụ du lịch của Việt Nam cũng đang trên con đƣờng hội nhập với du lịch thế
giới. Sự phát triển thành công của ngành du lịch Việt Nam sẽ đóng góp quan trọng
vào tốc độ tăng trƣởng của Việt Nam. Tuy nhiên, những gì ngành du lịch đạt đƣợc
vẫn còn hết sức khiêm tốn, chƣa thực sự tƣơng xứng với tiềm năng du lịch của đất
nƣớc. Thực tế cho thấy tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tới
ngành dịch vụ du lịch Việt Nam rất phức tạp, có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực,
mang lại những cơ hội lớn, đồng thời đặt ra những thách thức lớn đối với ngành
dịch vụ du lịch Việt Nam.
Để có giải pháp vƣợt qua thách thức và tận dụng cơ hội cho ngành du lịch,
cần phải có sự nghiên cứu cụ thể về những tác động của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đối với ngành dịch vụ này. Đó là lí do để vấn đề “Tác động của quá trình

1
hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch của Việt Nam” đƣợc lựa chọn
làm đề tài cho khoá luận này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khoá luận là nghiên cứu tác động của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đến ngành dịch vụ du lịch để đề ra các giải pháp thúc đẩy ngành dịch vụ du
lịch phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận có nhiệm vụ tìm hiểu các cam kết quốc về dịch vụ du lịch mà Việt
Nam đã kí kết, nghiên cứu các tác động của mở cửa dịch vụ du lịch do việc thực
hiện các cam kết đó, dự báo xu hƣớng phát triển của ngành dịch vụ du lịch của Việt
Nam, đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm phát triển du lịch trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế của một số nƣớc. Cuối cùng, khoá luận đề ra một số giải pháp phát
triển ngành du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của khoá luận là các tác động tích cực và tiêu cực của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài giới hạn nghiên cứu tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới
ngành dịch vụ du lịch của Việt Nam trong tƣơng quan so sánh với các đối thủ cạnh
tranh trong khu vực Đông Nam Á. Khoá luận tập trung nghiên cứu chủ trƣơng,
chính sách về du lịch từ năm 2000 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong quá trình viết khoá luận tốt
nghiệp là phƣơng pháp thu nhập và xử lí tƣ liệu, phƣơng pháp phân tích tổng hợp,
phƣơng pháp phân tích hệ thống, phƣơng pháp phân tích xu thế, phƣơng pháp s29o
sánh pháp luật và phƣơng pháp tham khảo ý kiến chuyên gia.


2
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khoá luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về ngành dịch vụ du lịch Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Chƣơng 2: Đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du
lịch Việt Nam
Chƣơng 3: Giải pháp phát triển ngành du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu của
hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

I. KHÁI NIỆM VỀ DỊCH VỤ, DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ NGÀNH DỊCH VỤ
VIỆT NAM
1. Khái niệm về dịch vụ và ngành dịch vụ
1.1. Dịch vụ
Cho đến nay, chƣa có một định nghĩa thống nhất về địch vụ. Tính vô hình và
khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình địch vụ làm cho
việc nêu ra một một định nghĩa trở nên khó khăn.
Theo lí thuyết kinh tế học, dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là
vật phẩm, mà là công việc của con ngƣời dƣới hình thái lao động thể lực, kiến thức và
kĩ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thƣơng mại. Theo cách chung nhất có hai
cách hiểu về dịch vụ. Theo nghĩa rộng, dịch vụ đƣợc coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba
trong nền kinh tế quốc dân. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài 2
ngành công nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ
là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, bao gồm các hỗ trợ trƣớc, trong và
sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm đƣợc cung ứng cho khách hàng.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1, dịch vụ là “những hoạt động phục
vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt”
1
. Các hoạt
động phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh nhƣ nghiên cứu thị trƣờng, quảng
cáo tiếp thị sản phẩm, vận chuyển hàng hoá, thanh toán qua ngân hàng đều là các
dịch vụ. Các hoạt động phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt nhƣ vui chơi, giải trí, thể
thao, y tế, giáo dục, du lịch cũng là dịch vụ.
- Tính vô hình: Sản phẩm dịch vụ về cơ bản là sản phẩm phi vật chất, sản
phẩm vô hình, không nhìn thấy đƣợc, không thể nhận biết đƣợc bằng thị giác, khứu
giác, vị giác, xúc giác. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thƣờng




1
Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, tr.168, Hà Nội

4
chiếm 80-90% về mặt giá trị), hàng hoá chiếm tỉ trọng nhỏ. Do vậy việc đánh giá
chất lƣợng sản phẩm du lịch rất khó khăn. vì thƣờng mang tính chủ quan và phần
lớn không phụ thuộc vào ngƣời kinh doanh mà phụ thuộc vào khách du lịch.
- Tính không thể tách rời: Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản
phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian. Chúng không thể đƣợc tổ chức
sản phẩm trƣớc, không thể cất trữ trong kho cung ứng dần, hoặc dự trữ sử dụng dần
ở những thời gian cao điểm nhƣ các hàng hoá thông thƣờng khác nhau. Do vậy để
tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn.
- Tính không đồng nhất: Hiệu quả mà dịch vụ đem lại cho khách hàng cao
hay thấp không chỉ do bản thân sản phẩm mà còn do sự tham gia của khách hàng
vào quá trình tạo thành dịch vụ đó. Dịch vụ có tính phi tiêu chuẩn hoá cao, cho nên
muốn có dịch vụ tốt cần phải có sự thực hiện tốtt cả hai phía ngƣời cung cấp và
khách hàng.
Trong phƣơng thức cung cấp dịch vụ, GATS có 4 phƣơng thức. Thứ nhất là
phƣơng thức cung cấp qua biên giới, có nghĩa là các dịch vụ đƣợc cung cấp từ lãnh
thổ của một nƣớc thành viên này sang lãnh thổ của một nƣớc thành viên khác mà
không có sự di chuyển của cả ngƣời cung cấp và ngƣời tiêu thụ dịch vụ sang lãnh
thổ của nhau. Thứ hai là phƣơng thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ, cụ thể là ngƣời tiêu
dùng của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác để tiêu dùng
dịch vụ. Thứ ba là phƣơng thức hiện diện thƣơng mại, có nghĩa là nhà cung cấp dịch
vụ của một thành viên này thiết lập các hình thức hiện diện nhƣ doanh nghiệp 100%
vốn nƣớc ngoài, doanh nghiệp liên doanh, chi nhánh tại lãnh thổ của một thành viên
khác để cung cấp dịch vụ. Thứ tƣ là phƣơng thức hiện diện thể nhân, có nghĩa là thể
nhân cung cấp dịch vụ của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên

khác để cung cấp dịch vụ.
1.2. Ngành dịch vụ
Tổ chức thƣơng mại thế giới phân loại dịch vụ dựa trên CPC (Central
Products Classification - Phân loại các sản phẩm chủ yếu). WTO phân loại dịch vụ
dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Việc phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp
cho việc xúc tiến đàm phán về mở cửa thị trƣờng dịch vụ quốc tế. Theo phân loại

5
của WTO, dịch vụ đƣợc phân thành 12 ngành, trong mỗi ngành lại đƣợc phân thành
các phân ngành (hay còn gọi là các tiểu ngành), tổng cộng có 155 phân ngành.
Hệ thống phân loại của WTO phân chia dịch vụ thành 12 ngành bao gồm:
- Các dịch vụ kinh doanh: dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ liên quan đến máy
tính, dịch vụ nghiên cứu và triển khai (R&D), các dịch vụ bất động sản, các dịch vụ
cho thuê không qua môi giới, các dịch vụ kinh doanh khác.
- Các dịch vụ truyền thông: các dịch vụ bƣu điện, các dịch vụ đƣa thƣ, các
dịch vụ viễn thông, các dịch vụ nghe nhìn, các dịch vụ truyền thông khác.
- Các dịch vụ xây dựng và kĩ sƣ công trình: Tổng công trình xây dựng nhà cao
ốc, tổng công trình xây dựng cho các công trình dân sự, công việc lắp đặt và lắp ráp,
công việc hoàn thiện và kết thúc xây dựng, các dịch vụ xây dựng và kĩ sƣ công trình
khác.
- Các dịch vụ phân phối: các dịch vụ của đại lí ăn hoa hồng, các dịch vụ
thƣơng mại bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp quyền kinh doanh, các dịch vụ
phân phối khác.
- Các dịch vụ giáo dục: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trung học,
dịch vụ giáo dục đại học, dịch vụ giáo dục ngƣời lớn, các dịch vụ giáo dục khác.
- Các dịch vụ môi trƣờng: dịch vụ thoát nƣớc, dịch vụ thu gom rác, dịch vụ vệ
sinh, các dịch vụ môi trƣờng khác.
- Các dịch vụ tài chính: tất cả các dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo
hiểm, các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (không kể bảo hiểm), các
dịch vụ tài chính khác.

- Các dịch vụ xã hội và liên quan đến sức khoẻ: các dịch vụ bệnh viện, các
dịch vụ y tế khác, các dịch vụ xã hội, các dịch vụ khác.
- Các dịch vụ du lịch và lữ hành: khách sạn và nhà hàng, các đại lí lữ hành và
các dịch vụ hƣớng dẫn tour, các dịch vụ hƣớng dẫn du lịch, các dịch vụ du lịch và
lữ hành khác.
- Các dịch vụ văn hoá và giải trí: các dịch vụ giải trí, các dịch vụ đại lí bán
báo; thƣ viện, lƣu trữ, bảo tàng và các dịch vụ văn hoá khác; thể thao và các dịch vụ
giải trí khác; các dịch vụ văn hoá và giải trí khác.

6
- Các dịch vụ vận tải: các dịch vụ vận tải biển, vận tải đƣờng thuỷ nội địa, các
dịch vụ vận tải đƣờng hàng không, vận tải vũ trụ, các dịch vụ vận tải đƣờng bộ, vận
tải theo đƣờng ống dẫn, các dịch vụ phụ trợ cho tất cả các loại vận tải, các dịch vụ
vận tải khác.
- Các dịch vụ không có tên ở trên.
2. Ngành du lịch và dịch vụ du lịch
2.1. Ngành dịch vụ du lịch
Trong phân loại của WTO, dịch vụ du lịch là ngành thứ 9 từ trên xuống trong
12 ngành. Điều này cho thấy du lịch cũng đƣợc coi là ngành kinh tế quan trọng của
các nƣớc và do đó, WTO yêu cầu các nƣớc phải mở cửa cho dịch vụ du lịch.
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ. Do vậy nó cũng mang những đặc tính
chung của dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch vụ, không tồn tại
dƣới dạng vật thể, không lƣu kho lƣu bãi, không chuyển quyền sở hữu khi sử dụng.
Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của hoạt động
du lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
quốc gia và kinh tế du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của kinh tế thế
giới. Du lịch đã trở thành hiện tƣợng quen thuộc trong đời sống con ngƣời và ngày
càng phát triển phong phú cả về chiều rộng và chiều sâu. Vậy dịch vụ du lịch là gì?
2.2. Dịch vụ du lịch
Về khái niệm dịch vụ du lịch, trên thế giới nhiều học giả đã đƣa ra các khái

niệm khác nhau đi từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, dịch vụ du lịch là việc cung cấp các
dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lƣu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hƣớng
dẫn và những dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch
2
.
Ngoài ra, “dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tƣơng tác
giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động



2
Quốc Hội nƣớc Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch Việt Nam, Điều 4, khoản 11

7
tƣơng tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức
cung ứng du lịch”
3
.
Nhắc đến dịch vụ du lịch, chúng ta có thể nghĩ ngay đến một số khái niệm
nhƣ là: ngành du lịch, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và khách du lịch.
Ngành du lịch, đƣợc định nghĩa theo nghĩa rộng, là khu kinh tế bao gồm tất
cả các ngành phục vụ khách du lịch. Ngành du lịch đƣợc định nghĩa một cách đơn
giản là một bộ phận của nền kinh tế, có chung một chức năng, đó là phục vụ nhu
cầu của khách du lịch. Do đó, ngành công nghiệp này đƣợc định nghĩa gắng lion với
thị trƣờng riêng biệt của nó và bao gồm tất cả cá nhà cung cấp dịch vụ du lịch,
những ngƣời có nguồn thu từ khách du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó để định
nghĩa ngành du lịch chính xác là bao gồm những cái gì, những doanh nghiệp mà
nghiệp vụ kinh doanh của họ hoàn toàn, hay chủ yếu phụ thuộc vào khách du lịch,
chúng ta cũng có thể thấy còn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp du lịch gián tiếp (nhƣ

nhà cung cấp dịch vụ giải trí, văn hoá và thể thao; những ngƣời bán lẻ, những doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính, thậm chí cả những công ty xây dựng khách sạn
và các cơ sở hạ tầng du lịch khác), đó là những doanh nghiệp chỉ phụ thuộc một
phần vào du lịch, còn phần cơ bản trong tác nghiệp kinh doanh của họ là phục vụ
nhu cầu của dân cƣ địa phƣơng.
Công ty kinh doanh dịch vụ du lịch (Công ty lữ hành) là các công ty đặc biệt
kinh doanh chủ yếu trong việc tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chƣơng trình
trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra, các công ty lữ hành còn có thể tiến hành các
hoạt động trung gian bán sản phẩm dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch
hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo thực hiện các nhu
cầu của khách du lịch từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
Về khái niệm khách du lịch, Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa ba loại khách du
lịch khác nhau: khách nội địa, khách du lịch nƣớc ngoài và khách nƣớc ngoài đến Việt
Nam
4
. Mặc dù phát triển du lịch nội địa là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch,



3
GS.TS Nguyễn Văn Đính và TS Trần Thị Minh Hoà (2004), Giáo trình kinh tế Du lịch, Nxb Lao Động - Xã hội, Hà Nội
4
Quốc hội nƣớc Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch, Điều 34

8
còn khách du lịch từ trong nƣớc ra nƣớc ngoài thể hiện phần mất mát ngoại hối quan
trọng mà du lịch thụ động có thể mang lại, nghiên cứu về sức cạnh tranh này sẽ tập
trung vào khách nƣớc ngoài đến Việt Nam để so sánh năng lực cạnh tranh của Việt
Nam với các nƣớc khác trong khu vực trên cơ sở hấp dẫn khách du lịch nƣớc ngoài.
2.2. Phân loại dịch vụ du lịch

2.2.1. Xét theo hình thái vật chất
Dịch vụ du lịch đƣợc phân thành 2 loại: dịch vụ du lịch hàng hoá (thức ăn,
quà lƣu niệm, vận chuyển ) và dịch vụ du lịch phi hàng hoá (hƣớng dẫn tham
quan, tổ chức trò chơi, tƣ vấn tiêu dùng ). Trong dịch vụ phi hàng hoá, dịch vụ du
lịch đƣợc hiểu theo nghĩa thuần tuý, không có hình thái vật chất. Dịch vụ du lịch
thuần tuý thƣờng chiếm từ 2/3 đến 3/4 sản phẩm dịch vụ du lịch.
2.2.2. Xét theo cơ cấu tiêu dùng
Dịch vụ du lịch đƣợc chia thành 2 loại: dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung.
- Dịch vụ du lịch cơ bản bao gồm: ăn uống, lƣu trú và vận chuyển. đó là
những nhu cầu cơ bản, không thể thiếu đƣợc với khách hàng trong thời gian du lịch.
- Dịch vụ du lịch bổ sung bao gồm: tham quan, giải trí, mua sắm hàng hoá.
Đó là những nhu cầu phải có nhƣng không thật cần thiết lắm so với loại hình số
lƣợng trên và nó không định lƣợng đƣợc.
Quan hệ tỉ lệ giữa 2 loại này rất quan trọng để phân tích chi tiêu của khách,
chuẩn bị phục vụ của ngành du lịch, đặc biệt là để phân biệt hiệu quả tỷ trọng giữa
dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung. Tỷ trọng này càng nhỏ thì hiệu quả tổng hợp của
kinh doanh du lịch ngày càng cao. Tức là tỉ lệ nhu yếu phần ngày càng nhỏ, khách
du lịch ngày càng giàu, du lịch càng phát triển vag kinh doanh nhiều lãi.
2.2.3. Xét theo tính chất tham gia vào dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch chia làm dịch vụ trực tiếp và dịch vụ gián tiếp:
- Dịch vụ trực tiếp là dịch vụ du lịch do đơn vị kinh doanh du lịch trực tiếp
làm, ví dụ nhƣ dịch vụ tại các nhà hàng, khu nghỉ biển, bể tắm hơi,
- Dịch vụ gián tiếp là dịch vụ du lịch không do đơn vị kinh doanh du lịch
trực tiếp làm, mà chỉ thực hiện chức năng môi giới. đơn vị thực hiện dịch vụ gián
tiếp thƣờng là các đạo lí du lịch. Tuy không trực tiếp phục vụ khách hàng nhƣng đại

9
lí du lịch đóng vai trò rất quan trọng nhƣ: nghiên cứu thị trƣờng du lịch, tổ chức
hình thành , xác định hiệu quả của tuyên truyền quảng cáo Trong các công ty du
lịch thì trung tâm điều hành hƣớng dẫn du lịch thực hiện nhiệm vụ dịch vụ gián tiếp

này.
2.2.4. Xét theo nội dung
Dịch vụ du lịch phải thoả mãn 4 yêu cầu của khách là đi lại, nghỉ ngơi, vui
chơi, ăn uống và nghiên cứu, tƣơng ứng với 4 yêu cầu này là 4 loại dịch vụ phcụ vụ
khách hàng. Và đây là cách phân loại quan trọng nhất, xuất phát từ bản chất của
hoạt động du lịch. Du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp sử dụng sản phẩm của
những ngành khác, nhằm đáp ứng nhu cầu tổng hợp của khách du lịch.
2.3. Đặc điểm của dịch vụ du lịch
Về mặt bản chất, dịch vụ là một loại hàng hóa phi vật chất, loại hàng hóa đặc
biệt có những nét đặc trƣng. Dịch vụ du lịch có những đặc điểm chung nhƣ các loại
dịch vụ khác. Bên cạnh đó, dịch vụ du lịch còn có các đặc điểm riêng. Đó là:
- Sản phẩm du lịch thƣờng đƣợc tạo ra gắn liền với các yếu tố tài nguyên du
lịch. Do vậy, sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển đƣợc. Trên thực tế, không thể
đƣa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến
với nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng
sản phẩm du lịch. Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên
nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm.
- Hoạt động kinh doanh du lịch thƣờng mang tính mùa vụ. Trong mùa du
lịch, nhu cầu về dịch vụ du lịch rất căng thẳng, song thời gian trƣớc và sau mùa du
lịch lại rất thấp, cơ sở vật chất, phục vụ khách du lịch đƣợc sử dụng với hệ số rất
thấp, thậm chí có thời điểm hoàn toàn trống vắng. Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch
thƣờng không diễn ta đều đặn mà có thể chỉ tập trung vào những thời gian nhất định
trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm
của các thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại
hình du lịch nhƣ: du lịch biển, du lịch nghỉ núi ). Sự dao động về thời gian trong
tiêu dùng sản phẩm số lƣợng gây ra khó khăn cho việc tổ chức hoạt động kinh
doanh và từ đó ảnh hƣởng đến kết quả kinh doanh của cá nhà kinh doanh du lịch.

10
- Dịch vụ du lịch liên quan, sử dụng sản phẩm của rất nhiều ngành khác liên

quan nhƣ giao thông vận tải, giải trí, kinh doanh khách sạn, nhà hàng Vì thế, vấn
đề hợp tác trong du lịch là rất cần thiết.
- Nhu cầu du lịch của du khách thuộc loại nhu cầu không cơ bản nên rất dễ bị
thay đổi do đó dịch vụ du lịch có đặc tính linh động cao.
- Khác với các loại dịch vụ khác, thông thƣờng mỗi loại dịch vụ du lịch đƣợc
sử dụng nhiều lần và kéo theo suốt hành trình của khách (hƣớng dẫn viên, dịch vụ
cung cấp thông tin, dịch vụ tƣ vấn ). Đối với các loại dịch vụ khác, thời gian tiếp
xúc giữa ngƣời mua và ngƣời bán chỉ một lần (khách hàng cắt tóc, gọi điện thoại, )
- Dịch vụ du lịch có khả năng cung cấp việc làm rất cao, có chuyên gia cho rằng
đó là công việc của cả xã hội. Theo tài liệu của hội đồng du lịch thế giới, lực lƣợng lao
động phục vụ du lịch chiếm 1/40 trong tổng số việc làm của thế giới. Nhiều thông tin
đáng tin cậy lại cho rằng tỉ lệ này là 1/16 mà không phải 1/40 việc làm.
- Điều kiện để tự động hóa các dịch vụ du lịch là không thể có.
2.4. Các ngành nghề kinh doanh chính trong lĩnh vực dịch vụ du lịch
Theo Điều 38 của Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 thì kinh doanh du lịch là
kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau:
2.4.1. Khách sạn và nhà hàng
Kinh doanh khách sạn là công đoạn phục vụ khách du lịch để họ hoàn tất
chƣơng trình du lịch đã lựa chọn.
Thuật ngữ “kinh doanh khách sạn” đƣợc hiểu là “làm nhiệm vụ đón tiếp,
phục vụ việc lƣu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, bán hàng cho khách du lịch ”
Hiện nay trên thế giới tất cả các quốc gia đều có khách sạn và kinh doanh
khách sạn, đặc biệt là ở những quốc gia có nền kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hoá
nghệ thuật, thể thao, du lịch phát triển
2.4.2. Kinh doanh lữ hành
Khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung, các chuyên gia về du
lịch muốn đề cập đến các hoạt động chính nhƣ “làm nhiệm vụ giao dịch, kí kết với
các tổ chức kinh doanh du lịch trong nƣớc, nƣớc ngoài để xây dựng và thực hiện
các chƣơng trình du lịch đã bán cho khách du lịch”. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nói


11
đến hoạt động kinh doanh lữ hành, chúng ta thấy tồn tại song song hai hoạt động
phổ biến sau:
- Kinh doanh lữ hành: là hoạt động sản xuất, bán và tổ chức các chƣơng trình
du lịch trọn gói hay từng phần; là hoạt động môi giới trung gian giữa các doanh
nghiệp lữ hành khác với khách du lịch, nhằm mục đích sinh lợi và thoả mãn nhu cầu
du lịch của khách.
- Kinh doanh đại lí lữ hành: là việc thực hiện các dịch vụ đƣa đón, nơi đăng
kí nơi lƣu trú, vận chuyển, hƣớng dẫn tham quan, bán các chƣơng trình du lịch của
các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tƣ vấn du lịch nhằm hƣởng
hoa hồng.
2.4.3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch
Đặc trƣng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con ngƣời từ
nơi này đến nơi khác ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của họ, thƣờng là cới một
khoảng cách xa. Do đó, khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động
kinh doanh du lịch nói riêng không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận
chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động kinh doanh nhằm giúp cho khách du
lịch dịch chuyển tại điểm du lịch.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phƣơng tiện vận chuyển
khác nhau nhƣ ôto, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay. Thực tế cho thấy, ít có doanh nghiệp
du lịch (trừ một số tập đoàn du lịch lớn trên thế giới) có thể đảm nhận đƣợc toàn bộ
việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cƣ trú của họ đến điểm du lịch và tại điểm du
lịch. Phần lớn trong các trƣờng hợp khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của
các phƣơng tiện giao thông đại chúng hoặc các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ
vận chuyển.
2.4.4. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch
Theo Điều 67 Luật Du lịch Việt Nam 2005, kinh doanh phát triển khu du
lịch, điểm du lịch bao gồm đầu tƣ bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đƣa
các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác; phát triển khu du lịch, điểm du lịch
mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất- kĩ thuật du lịch.

2.4.5. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác

12
Trƣớc đây, kinh doanh du lịch chỉ quan tâm khai thác lĩnh vực lƣu trú và ăn
uống, dịch vụ bổ sung chỉ là thứ yếu nhằm đáp ứng phần nào những yêu cầu phát
sinh của khách trong chuyến đi. Tuy nhiên hiện nay loại hình kinh doanh dịch vụ bổ
sung đã đƣợc coi nhƣ phần không thể thiếu trong hoạt động du lịch và góp phần
đáng kể trong doanh thu của các doanh nghiệp du lịch, không những thế nó còn tạo
ra sự hìa lòng và tin tƣởng của khách, vì những yêu cầu của họ đƣợc đáp ứng ở mức
cao nhất và chất lƣợng đảm bảo.
Ngoài những hoạt động kinh doanh đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động kinh
doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ, nhƣ kinh doanh các loại hình
dịch vụ vui chơi, giải trí, tuyên truyền, quảng cáo du lịch, tƣ vấn đầu tƣ du lịch.
Cùng với xu hƣớng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du
lịch, sự tiến bộ của khoa học- kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du
lịch, dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng ngày càng có xu hƣớng phát triển mạnh.
3. Ngành dịch vụ du lịch Việt Nam
3.1. Ngành dịch vụ du lịch Việt Nam trước thời kì đổi mới
Giai đoạn đất nƣớc còn tạm bị chia cắt, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc
liệt, từ năm 1960 đến 1975, Du lịch ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Nhà nƣớc, khách du lịch vào nƣớc ta theo các Nghị định thƣ. Để
thực hiện mục tiêu này, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/CP, ngày
09/07/1960, thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại Thƣơng.
Trong điều kiện rất khó khăn của chiến tranh và qua nhiều cơ quan quản lí, ngành
Du lịch đã nỗ lực phấn đấu, vƣợt qua thử thách, từng bƣớc mở rộng nhiều cơ sở ở
Hà Nội, Hải Phòng, Tam Đảo, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, ngành Du lịch đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, phục vụ an toàn có chất lƣợng một lƣợng lớn
khách của Đảng và Nhà nƣớc và đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ mát của cán bộ,
bộ đội và nhân dân.
Từ năm 1975 đến 1990, ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quản, bảo toàn

và phát triển của các cơ sở du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa đƣợc giải phóng, lần lƣợt
mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định đến Nha Trang,
Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, từng bƣớc thành lập các doanh

13
nghiệp Nhà nƣớc trực thuộc Tổng cục Du lịch và ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố và
đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam đƣợc thành lập trực thuộc
Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bƣớc phát triển mới của ngành du lịch.
3.2. Ngành dịch vụ du lịch Việt Nam từ thời kì đổi mới đến nay
Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nƣớc ngành Du
lịch đã khởi sắc, vƣơn lên đổi mới quản lí và phát triển, đạt đƣợc những thành quả
ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất lƣợng, dần khẳng định vai
trò của mình. Chỉ thị 46/CP của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng khóa VII tháng 10
năm 1994 đã khẳng định “Phát triển du lịch là một hƣớng chiến lƣợc quan trọng
trong đƣờng lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bƣớc đƣợc
hình thành, thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật, tạo môi trƣờng cho du
lịch phát triển, nâng cao hiệu lực quản lí.
Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hóa - Thông tin, rồi vào Bộ Thƣơng Mại,
tháng 11 năm 1992, Tổng cục Du lịch đƣợc thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ.
45 năm hình thành và phát triển, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, các
ngành, các cấp phối hợp giúp đỡ, nhân dân hƣởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng
với sự cố gắng của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có
những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bƣớc tiến vào
thế kỉ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của đất nƣớc.
Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam tăng trƣởng tƣơng đối ổn định với
tốc độ trung bình ở mức tƣơng đối cao (khoảng 20%), thị phần du lịch Việt Nam trong khu
vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm 2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên
nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần giúp du lịch trở thành một ngành có đóng

góp lớn vào GDP
5
.



5
Tổng Cục Du lịch Việt Nam (2005), Báo cáo tóm tắt thành tích 45 năm xây dựng và trƣởng thành của Ngành Du lịch
Việt Nam,

14
Giai đoạn 1990-2000 có thể khẳng định là giai đoạn bứt phá trong tăng
trƣởng kháchvà thu nhập. Khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250.000 lƣợt (năm
1990) lên 2,05 triệu lƣợt (năm 2000); khách nội địa tăng 11 lần, từ 1 triệu lƣợt lên
11 triệu lƣợt; thu nhập du lịch tăng gần 13 lần từ 1.350 tỷ đồng lên 17.400 tỷ đồng.
5 năm gần đây (2000-2005), tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhƣ chiến
tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhƣng do áp dụng các biện pháp táo
bạo tháo gỡ kịp thời, nên lƣợng khách và thu nhập du lịch hàng năm vẫn tiếp tục
tăng trƣởng 2 con số. Khách quốc tế năm 2001 đạt 2,33 triệu lƣợt, năm 2005 đạt gần
3,47 triệu lƣợt, khách nội địa năm 2001 đạt 11,7 triệu lƣợt, năm 2005 đạt 16,1 triệu;
ngƣời Việt Nam đi du lịch nƣớc ngoài năm 2005 khoảng 900.000 lƣợt. Du lịch phát
triển đã góp phần tăng tỷ trọng ngành dịch vụ (riêng GDP du lịch chiếm khoảng 4%
GDP cả nƣớc, theo cách tính của UNWTO thì con số này khoảng 10%). Du lịch là
một trong ít ngành kinh tế ở nƣớc ta mang lại nguồn thu trên 2 tỷ USD/năm. Hơn 10
năm trƣớc, du lịch Việt Nam đứng hàng thấp nhất khu vực, nhƣng đến nay khoảng
cách này đã đƣợc rút ngắn, đã đuổi kịp và vƣợt Philippin, chỉ còn đứng sau
Malaysia, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Theo UNWTO, hiện nay Việt Nam là
một trong những nƣớc có tốc độ tăng trƣởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới.
Năm 2006, du lịch Việt Nam đƣợc Hội đồng du lịch và Lữ hành thế giới xếp thứ 7
thế giới về tăng trƣởng khách trong số 174 nƣớc; Việt Nam đƣợc xếp vào nhóm 10

điểm đến hàng đầu thế giới
6
.
Hiệu quả chiều sâu về nhiều mặt của du lịch ngày càng rõ nét. Ở đâu du lịch
phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn đƣợc chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời
sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Hoạt động du lịch đã thúc đẩy các ngành khác
phát triển, tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ; mỗi năm, hàng
chục lễ hội truyền thống đƣợc khôi phục, tổ chức dần đi vào nề nếp và lành mạnh,
phát huy đƣợc thuần phong Hoa Kì tục. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống
đƣợc khôi phục và phát triển, tạo thêm các điểm tham quan du lịch, sản xuất hàng



6
Hoàng Hà, Du lịch Việt Nam, 3:05:47PM 9/29/2006,

15
lƣu niệm, thủ công Hoa Kì nghệ bán cho khách, nhân dân có thêm việc làm và thu
nhập; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, xóa đói giảm
nghèo và nhiều hộ dân ở không ít địa phƣơng đã giàu lên nhờ làm du lịch. Du lịch
phát triển đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích và nâng cao ý thức
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nƣớc, chính quyền địa phƣơng và cộng đồng dân
cƣ giữ gìn, phát triển di sản văn hóa. Tuyên truyền, quảng bá du lịch ở nƣớc ngoài
và tại chỗ trong nƣớc đã truyền tải đƣợc giá trị văn hóa nhân dân tộc đến bạn bè
quốc tế, khách du lịch và nhân dân.
Điều quan trọng hơn cả là du lịch đã góp phần phát triển yếu tố con ngƣời
trong công cuộc đổi mới. Hoạt động du lịch đã tạo ra trên 80 vạn việc làm trực tiếp
và gián tiếp cho các tầng lớp dân cƣ, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân; mở rộng giao lƣu giữa các vùng, miền trong nƣớc và với
nƣớc ngoài; đã thực hiện tốt vai trò ngoại giao nhân dân với chức năng “sứ giả” của

hòa bình, góp phần hình thành, củng cố môi trƣờng cho nền kinh tế mở, đẩy mạnh
phát triển kinh tế- xã hội và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Du lịch Việt Nam đã vƣơn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch
quốc tế; thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với các nƣớc làng
giềng, các nƣớc trong khu vực và thế giới; kí 29 Hiệp định hợp tác du lịch song
phƣơng với những nƣớc là thị trƣờng du lịch trọng điểm và đầu mối giao lƣu quốc
tế và hợp tác du lịch đa phƣơng 10 nƣớc ASEAN; đã có quan hệ bạn hàng với trên
1.000 hãng, trong đó có nhiều hãng lớn, của hơn 60 nƣớc và vùng lãnh thổ
7
. Du lịch
nƣớc ta là thành viên của Tổ chức Du lịch thế giới, của Hiệp hội Du lịch Châu Á-
Thái Bình Dƣơng, của Hiệp hội du lịch Đông Nam Á và phát huy đƣợc vai trò, khai
thác tốt quyền lợi hội viên. tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch tiểu vùng,
khu vực, liên khu vực và thế giới. Nhờ thế đã tranh thủ đƣợc vốn, kinh nghiệm,
công nghệ, nguồn khách để phát triển, chủ động gắn kết với du lịch khu vực và trên



7
Võ Thị Thắng, Tổng Cục Trƣởng Tổng Cục Du lịch Việt Nam, APEC - Cơ hội vàng của du lịch Việt Nam, 4:24:01 PM 13/06/2006,


16
thế giới. Tính chủ động hội nhập cũng đƣợc thể hiện rõ trong việc thực hiện chủ
trƣơng dựa vào lợi thế so sánh (nhƣ văn hóa, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ )
đầu tƣ ra nƣớc ngoài, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nƣớc láng giềng, Nhật
Bản, Đức và Hoa Kì.
Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn
nhỏ. Tốc độ tăng trƣởng việc làm trong ngành vẫn tiếp tục ở mức thấp hơn so với

mức tăng trung bình của khu vực. Năng lực của các công ty du lịch Việt Nam không
tƣơng xứng với tiềm năng.
Nhìn chung, các ngành hỗ trợ du lịch vẫn chƣa phát triển cùng nhịp với sự
phát triển của ngành du lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, phƣơng
tiện vận tải lạc hậu, đƣờng vận chuyển hàng không vẫn chƣa đƣợc phát triển đúgn
mức. Công nghệ thông tin chƣa đƣợc ứng dụng nhiều; ứng dụng thƣơng mại điện tử
trong điều hành các tour du lịch và giao dịch giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch
chƣa đƣợc nhiều, hoạt động xúc tiến du lịch ở nƣớc ngoài còn yếu về số lƣợng và
hiệu quả. Các dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao vẫn chƣa phát triển và các dịch vụ
ngân hàng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu.
Sản phẩm du lịch chƣa phong phú, đa dạng. ta có nhiều cảnh quan thiên
nhiên đẹp và có bãi biển đƣợc xếp hạng quốc tế, nhƣng trên phạm vi cả nƣớc chƣa
có đƣợc một khu du lịch tầm cỡ và có tên tuổi nhƣ Pataya, Phuket (Thái Lan),
Sentosa (Singapore), Bali (Indonesia), hay Genting, Langkawi (Malaysia). Đặc
điểm này ảnh hƣởng đến việc thu hút đƣợc sự chú ý của khách du lịch, không kéo
dài đƣợc thời gian nghỉ ngơi của khách tại Việt Nam, không tạo cơ hội để tăng chi
tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam.
Nguồn nhân lực cho du lịch chƣa đƣợc đào tạo một cách có hệ thống về
chuyên môn và lỹ năng nghề nghiệp. Năng lực ngoại ngữ, kĩ năng công nghệ thông
tin và khả năng giao tiếp còn hạn chế. Các cơ sở đào tạo du lịch phân bổ không
đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù có sự bùng nổ về số lƣợng
các công ty du lịch lữ hành trong nƣớc, song các công ty này cạnh tranh thiếu lành
mạnh về giá, giảm chất lƣợng dịch vụ, vi phạm các yêu cầu về giấy phép hành nghề.

17
Hiện nay sự liên kết, hợp tác giữa các Bộ ngành, địa phƣong, lãnh thổ tuy gần
đây có nhiều tiến bộ nhƣng vẫn còn yếu hoặc thiếu (Tổng Cục Du lịch, Bộ Tài nguyên
và môi trƣờng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Giao thông vận tải, Bộ Công
An), đặc biệt là việc quản lí các nguồn lực tự nhiên. Cũng chƣa có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các ngành (tài chính, ngân hàng, hàng không, biên phòng, hải quan, điện lực và

viễn thông ) trong hỗ trợ phát triển du lịch. Bên cạnh đó, hệ thống thống kê áp dụng
trong ngành du lịch Việt Nam cũng chƣa đƣợc cải tiến nhiều.
Vấn đề cảnh quan môi trƣờng du lịch chƣa đƣợc chú trọng đúng mức: Với
nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thế giới, truyền thông lịch
sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên
phong phú và sự đa dạng của các nền ch dân tộc, thời gian gần đây Việt Nam đã nổi
lên và trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn cho du khách quốc tế. Tuy nhiên sự
gia tăng lớn về khách du lịch, trong khu việc giữ gìn cảnh quan, môi trƣờng tại các
khu, điểm du lịch lại chƣa đƣợc chú trọng đúng mức đã và đang gây ra các tác động
không tốt tới môi trƣờng du lịch.
II. NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
1. Khái niệm. đặc điểm và yêu cầu của HNKTQT đối với ngành dịch vụ du lịch
1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các doanh
nghiệp tham gia vào môi trƣờng kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu vực với
các quy luật chung (luật chơi) mang và có yếu tố cạnh tranh.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ thực chất là quá trình gắn kết
ngành dịch vụ Việt Nam với dịch vụ thế giới với mục tiêu giành thị trƣờng, tranh
thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm của các nƣớc và các tổ chức quốc tế, tham gia
phân công lao động quốc tế để khai thác tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy
tối đa nội lực nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh và vị thế của nền kinh tế Việt
Nam.
Đây cũng là quá trình mở cửa ngành dịch vụ của Việt Nam, điều chỉnh các
chính sách, luật lệ của Việt Nam cho hợp với thông lệ quốc tế và các hiệp ƣớc, hiệp
định mà Việt Nam đã kí kết và cam kết với các nƣớc, các tổ chức quốc tế. Quá trình

18
hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, và hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ phải đảm bảo
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có
lựo, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà

Việt Nam kí kết hoạc tham gia, tăng cƣờng quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết
lẫn nhau giữa các dân tộc.
1.2. Đặc điểm
Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ là một quá trình mà
trọng tâm là đƣa ngành dịch vụ Việt Nam hội nhập vào ngành dịch vụ thế giới và
mở cửa ngành dịch vụ. Đó vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu nội tại của sự
phát triển ngành dịch vụ Việt Nam khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh
tế thế giới. Điều đó xuất pháp từ việc phải thực hiện các nội dung:
- Kí kết và tham gia các định chế và tổ chức quốc tế; cùng các thành viên
đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với
các thành viên của các định chế, tổ chức đó;
- Tiến hành các công việc cần thiết ở trong nƣớc bảo đảm đạt đƣợc mục tiêu
của quá trình hội nhập cũng nhƣ thực hiện các quy định, cam kết quốc tế về dịch vụ.
Cụ thể là cần điều chỉnh các chính sách trong nƣớc theo hƣớng tự do hóa, mở cửa,
giảm thiểu và tiến tới dỡ bỏ các rào cản làm cho việc di chuyển của khách du lịch
ngày càng thuận tiện, thông thoáng hơn.
- Thực hiện các cam kết của WTO về việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ. Đồng
thời quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới và tham gia vào các hoạt động xúc tiến
phát triển dịch vụ, hội nhập vào thị trƣờng dịch vụ thế giới một cách toàn diện.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ diễn ra ở nhiều cấp độ
khác nhau với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Tùy theo tình hình thời gian
và không gian cụ thể mà sự tham gia hội nhập dịch vụ quốc tế đƣợc thực hiện theo
các cấp độ sau: đơn phƣơng, song phƣơng hoặc đa phƣơng. Các cấp độ tham gia
này đƣợc biểu hiện dƣới nhiều vẻ khác nhau, có thể từ thấp đến cao, từ song
phƣơng đến đa phƣơng, cũng có khi tham gia cùng một lúc ở nhiều cấp độ. Hội
nhập kinh tế quốc tế trong ngành dịch vụ cũng có thể đƣợc tiến hành ở nhiều cấp độ

×