PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ.
Tên đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi
với trường với lớp”
I. Lý do chọn đề tài:
1. Cơ sở lý luận:
Trẻ em là mầm sống, là vận mệnh tươi sáng của dân tộc. Giáo dục trẻ em
là một trọng trách cao cả đối vơi Đảng và nhà nước ta. Mang trên mình xứ mệnh
cao cả của một người giáo viên là mang trọng trách cao cả của dân tộc. Đặc biệt
là đối với những người giáo viên mầm non chúng ta, những người có nhiệm vụ
gieo hạt, uốn nắn những mầm xanh ngay từ những ngày đầu đến lớp. Để thực
hiện được nhiệm vụ cao cả ấy người giáo viên ln phải tìm tịi học hỏi, tự học
tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, tận tâm tận lực cho cơng tác chăm
sóc và giáo dục thế hệ trẻ, và trên hết là người giáo viên phải có cả tâm lẫn đức.
Trẻ em rất nhạy cảm nên trẻ cần được quan tâm nhiều hơn về xúc cảm,
nhất là trong những ngày đầu đi học. Nếu không xử lý khéo léo, cơ giáo có thể
vơ tình khiến trẻ sợ hãi và sinh ra một vài tâm lý tiêu cực nhất định, từ đó dẫn
đến trẻ khóc đêm, biếng ăn, hay la hét. Vì thế, nghệ thuật giao tiếp với trẻ trong
những thời gian đầu là hết sức cần thiết và quan trọng.
Đối với trẻ mầm non, việc chăm sóc giáo trẻ ngay từ những ngày đầu đến
trường phải thật nhẹ nhàng , phải mang đến cho trẻ một tâm thế thoải mái học
mà chơi, chơi mà học, trẻ phải thật u thích trường lớp, từ đó tạo tiền đề cho trẻ
phát triển ở những bậc học tiếp theo. Khi đã mang lại những kết quả mong đợi
thì việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt được những thành cơng nhất định.
2. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay khi thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới điều khó khăn
nhất đối với trẻ chưa có thói quen nề nếp, đặc biệt là trẻ mới đến trường, đến
lớp còn thụ động, có những trẻ đi học rồi cịn non tháng, dễ bị tổn thương về tâm
lý vì trẻ chưa tách dời bố, mẹ, gia đình nên khi mới đến trường đến lớp thường
có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né và có những trẻ khơng chấp nhận
sự giúp đỡ của cơ thậm chí cịn la khóc khơng ăn, không ngủ, không tham gia
vào các hoạt động. Để trẻ thích nghi với mơi trường ở trường mầm non là một
vấn đề khó. Bản thân tơi là giáo viên dạy lứa tuổi 24-36 tháng lâu năm. Tôi luôn
trăn trở suy nghĩ làm thế nào để trẻ thích nghi thật sớm với trường với lớp mặc
dù đã được bồi dưỡng lý thuyết và các biện pháp giúp trẻ sớm thích nghi với
trường với lớp.
Bản thân tôi là một giáo viên dạy lứa tuổi 24-36 tháng lâu năm. Tôi luôn
trăn trở suy nghĩ làm thế nào để trẻ thích nghi thật sớm với trường mầm non.
Trải qua nhiều năm đón cháu mới nhưng đây vẫn là điều trăn trở của tôi khi
nhận cháu mới. Lần đầu tiên trẻ phải rời xa vịng tay gia đình đến với một mơi
trường mới khơng quen thuộc với biết bao điều xa lạ nên không tránh khỏi
những bỡ ngỡ cho trẻ, khiến đa số trẻ nhõng nhẽo khi phụ huynh đưa đến lớp,
do trẻ lần đầu tiên đến trường rất sợ hãi và khóc nhiều điều đó làm ảnh hưởng
đến tâm lý và sức khỏe của trẻ khi phải rời xa bố mẹ đến môi trường mới.
Làm sao để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao đứa con bé bỏng cho các
cô? Qủa thật lúc đầu tơi cũng chán nản khi trẻ khóc nhiều, tơi thật sự khó khăn
2
khi hướng trẻ hịa nhập vào mơi trường mới, nhưng vì u nghề mến trẻ tơi đã
cố gắng tìm mọi cách đưa trẻ của tơi hịa nhập thật nhanh vào mơi trường hồn
tồn mới.
II. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Là một cô giáo mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tơi ln có những
suy nghĩ trăn trở làm sao để giúp trẻ sớm thích nghi với trường, lớp với các bạn
các cơ đó là một vấn đề vơ cùng quan trọng, mỗi năm thì đối tượng trẻ khác
nhau, phụ huynh thường hay so sánh giữa lớp nhỏ với lớp lớn, giữa cháu cũ với
cháu mới và lo lắng không biết cơ đối xử với các con có tốt khơng? Làm sao để
trẻ sớm thích nghi với trường với lớp. Vấn đề giúp trẻ thích nghi với trường với
lớp ln làm tơi trăn trở và ln tìm mọi cách giúp các bé thích nghi thật sớm
với trường vì lẽ đó mà tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ
nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp”
III. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi
với trường, lớp”
IV. Đối tượng khảo sát và thực hiện.
- Tại lớp nhà trẻ khu mẫu giáo thôn 3 nơi tôi đang công tác.
- Tổng số trẻ là 19 trẻ trong đó: Trẻ nam là: 8 trẻ. Trẻ nữ là: 11 trẻ.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp thực hành
Nhóm phương pháp quan sát
Nhóm phương pháp dùng lời nói.
Nhóm phương pháp đàm thoại.
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu :
Một năm học từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022. Tại lớp nhà
trẻ D3 thôn 6 nơi tôi đang công tác.
B. PHẦN THỨ II:
NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những nội dung lý luận liên quan đến nghiên cứu.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm
đến đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này trẻ
vừa sống trong mơi trường gia đình, bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với
nhiều người trong xã hội, trẻ 24-36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi cịn non nớt,
khóc nhiều vì xa cha mẹ chưa quen với cơ và các bạn, chưa thích nghi với điều
kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu khơng cùng tháng tuổi mỗi cháu
đều có sở thích và tính cách khác nhau. Đa số phụ huynh làm nghề nông, buôn
bán tự do chiếm nhiều thời gian, một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm
sống nên chưa thực sự quan tâm đến con em mình vì vậy phụ huynh nhờ cậy
việc dạy dỗ con cái cho cô giáo ở trường và có một số phụ huynh lại thương con
thấy con khóc nhiều, con nơn trớ lại đưa con về khơng cho con đi học nữa.
Vì vậy tơi và các bạn đồng nghiệp luôn trăn trở: Không biết làm sao làm
cách nào để trẻ sớm thích nghi với trường với lớp. Đó cũng chính là lý do vì sao
tôi quyết định lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
sớm thích nghi với trường với lớp” để nghiên cứu và áp dụng thực nghiệp.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
3
II. Thực trạng.
1. Đặc điểm chung của nhà trường.
Trường mầm non Thuần Mỹ nằm ở khu vực nông thôn. Trường được xậy
dựng thành 4 khu để thuận tiện cho phụ huynh đưa đón trẻ đến trường. Cơ sở vật
chất trong và ngoài lớp học tương đối đầy đủ. Cảnh quan nhà trường thống
mát, sạch sẽ, sân trường có cây bóng mát, có đầy đủ trang thiết bị ngồi trời.
Bam giám hiệu tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và kiến thức cho giáo
viên, cụ thể hàng tháng nhà trường tổ chức họp 2 buổi chuyên môn để trao đổi
về phương pháp cũng như kinh nghiệm của chị em đồng nghiệp giúp tất cả giáo
viên nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ.
Giáo viên có trình độ đạt chuẩn 100%, giáo viên nhiệt tình ,u nghề,
mến trẻ có kinh nghiệm trong việc chăm sóc ni dưỡng trẻ, tâm huyết với
nghề ln quan tâm đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Luôn quan tâm
giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm.
Năm học 2021-2022 lớp tôi chủ nhiệm có 19 trẻ độ tuổi 24-36 tháng.
Trong đó: 8 trẻ nam và 11 trẻ nữ. Trong quá trình chăm sóc và dạy trẻ chúng tơi
đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau.
2. Thuận lợi và khó khăn.
a. Thuận lợi:
Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường.
Đồ dùng, đồ chơi cho trẻ đẹp, phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn
thu hút trẻ.
Trường, lớp được đầu tư đầy đủ trang bị điện tử như đầu đĩa, tivi, máy
chiếu, máy tính, loa….giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc thu nhận thông tin
và truyền tải kiến thức, thuận lợi cho việc nâng cao trình độ chun mơn cũng
như phương pháp giảng dạy, kỹ năng bản thân.
Giáo viên trong lớp có trình độ chuẩn và trên chuẩn. Các cô đều là giáo
viên trẻ chịu khó học hỏi, tìm tịi và đưa ra nhiều hình thức mới vào trong giảng
dạy.
Giáo viên trong lớp có tinh thần đồn kết, có sự phối hợp nhau trong
cơng tác giảng dạy đặc biệt là các cô đều sử dụng công nghệ thông tin thành
thạo nên cũng tạo điều kiện thuận lợi trong giảng dạy và tạo hứng thú cho trẻ.
Phụ huynh rất nhiệt tình ủng hộ trong các đợt tuyên truyền, vận động và
phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc giáo dục trẻ điều đó tạo điều kiện
thuận lợi trong việc các con đến trường sẽ sớm thích nghi với mơi trường mới.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên tôi cũng gặp phải một số khó khăn như
sau:
Một số trẻ mới cịn non tháng, trẻ chưa hịa nhập với trẻ cũ, cịn hay khóc,
chưa có nề nếp thói quen, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt
động ở lớp, trẻ chưa say mê, hào hứng đi học, mỗi cháu đều có sở thích và tính
cách khác nhau đặc biệt là đầu năm học, trẻ chưa tập trung chú ý nghe cô giảng bài
vì vậy hiệu quả cịn thấp.
Trẻ chưa tự phục vụ được việc ăn uống, vệ sinh. Các cô phải chăm sóc
các con mọi lúc mọi nơi rất vất vả.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
4
Vì là lứa tuổi nhà trẻ nên trẻ thường có hiện tượng “Khóc dây chuyền”.
Chỉ cần 1 trẻ khóc là các trẻ khác dù đã nín nhưng sẽ nhớ ra và khóc theo. Điều
này gây rất nhiều khó khăn cho giáo viên.
Đặc điểm tâm sinh lý nhà trẻ còn non sức đề kháng chưa cao, rất hay bị
ốm và nghỉ học.
Dựa vào những khảo sát trên tôi đã lựa chọn một số biện pháp như sau để
giúp trẻ sớm thích nghi ở trường lớp
3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm.
Tổng số trẻ là: 19 trẻ. Trong đó:Trẻ nam là: 8 trẻ. Trẻ nữ là: 11 trẻ.
Kết quả khảo sát đầu năm tại lớp.
Tháng 9/ 2020
Tổng
Số trẻ
Các kĩ năng khảo sát
Số trẻ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
số
chưa
đạt
%
%
đạt
Trẻ đi học khơng khóc
19
4
17,4 %
19
82,6 %
Trẻ thích trị chuyện với bạn
và cơ giáo
19
3
13 %
18
87 %
Trẻ thích nghi với hoạt động
ở lớp
19
4
17,4 %
19
82,6%
Trẻ tích cực, mạnh dạn, tự tin
19
3
13 %
20
87 %
Trẻ có nề nếp, hứng thú chơi
trong các hoạt động
19
3
13 %
20
87%
III. Những biện pháp chủ yếu của đề tài.
Biện pháp 1: Cô giáo phải là người bạn đầu tiên đáng tin cậy của trẻ .
Biện pháp 2: Chuẩn bị nhiều đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ chơi tạo
ra môi trường đẹ, thu hút sự chú ý của trẻ.
Biện pháp 3: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới, bắt đầu từ những thói
quen của trẻ.
Biện pháp 4: Tạo sự gần gũi thân thiện với trẻ.
Biện pháp 5: Chú trọng thay đổi hình thức trong các hoạt động.
Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh học sinh.
Biện pháp 7: Tích cực tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ trẻ được
tham gia.
IV. Biện pháp từng phần.
Biện pháp 1: Cô giáo phải là người bạn đầu tiên đáng tin cậy của trẻ.
Những ngày đầu tiên các con đến trường cô giáo phải là người đáng tin
cậy của trẻ, khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ thường ôm chặt
ba mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dị xét. Nếu lúc đó cơ
giáo đến ơm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tơi nghĩ trẻ sẽ rất sợ cơ, sợ đi
học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ hỏi và làm quen với các
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
5
con bằng những câu hỏi đơn giản như “Con tên gì, con mấy tuổi” “ Con có
muốn vào lớp chơi cùng cơ và bạn khơng nào”. Sau đó tơi trị chuyện với phụ
huynh từ từ vuốt ve trẻ, nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng đó là bước khởi đầu để trẻ
cảm thấy an lịng.
Hình ảnh 1: Cơ gần gũi động viên trẻ
Đầu năm trẻ của tơi khóc rất nhiều khi đón trẻ tơi thường an ủi phụ huynh
trước tiên vì họ rất thương con lo lắng cho con sợ con khóc nhiều làm ảnh
hưởng khơng tốt tới sức khỏe. Những lời động viên an ủi của tôi sẽ giúp phụ
huynh an tâm hơn và khi nhận trẻ từ bàn tay phụ huynh tôi nắm tay trẻ ở gần
bên trẻ và nói chuyện thật nhẹ nhàng.
Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn ngồi trong lịng ba mẹ mà khơng chịu chơi cùng
bạn tơi tiếp tục cùng phụ huynh trị chuyện về thói quen, tập qn, sở thích của
trẻ để dể dàng tìm kiếm biện pháp thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự
gần gủi giữa mẹ và cơ, từ đó trẻ sẽ chơi với cơ và các bạn trong lớp.
Ví dụ: Khi bé mới vào lớp tôi đã khoanh tay chào ba mẹ, chào bé: phụ
huynh cũng khoanh tay chào lại tơi, những hình ảnh này dễ làm cho các cháu bắt
chước cử chỉ đẹp của người lớn và cháu phải làm theo. Việc làm quen diễn ra
một cách tự nhiên, dần dần các cháu không cảm thấy đột ngột. Chính các cháu
này sẽ là những nhân tố tích cực lơi kéo, những cháu này sẽ là những nhân tố
tích cực lôi kéo những cháu khác hưởng ứng theo cô sau này.
Biện pháp 2: Chuẩn bị nhiều đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ chơi
tạo ra môi trường đẹp thu hút sự chú ý của trẻ.
Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ 24-36 tháng nói riêng, ở độ tuổi
này trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức học mà chơi, chơi mà học, học ở
mọi lúc mọi nơi. Vì vậy muốn trẻ u thích tới trường và nhanh chóng thích
nghi với trường mầm non. Bản thân tơi đã không ngừng học hỏi, đầu tư về thời
gian cũng như công sức cho việc sưu tầm, lầm đồ dùng đồ chơi sao cho đẹp,
sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý và phù hợp với
nội dung với độ tuổi của trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái
và tự tin nhất.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động góc ngồi những đồ chơi theo thơng tư, tơi có
thể bày những đồ dùng, đồ chơi tự tạo ở các góc chơi để các con thoải mái vui
chơi và lựa chọn đồ dùng đồ chơi mà trẻ u thích.
Hình ảnh 2: Cơ làm nhiều đồ dùng đồ chơi sáng tạo cho trẻ.
Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong
ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn,
đó là một trong những yếu tố giúp cho trẻ khơng khóc nữa và tích cực tham gia
hoạt động và là yếu tố góp phần quyết định chất lượng khả năng hoạt động của
trẻ.
Biện pháp 3: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới bắt đầu từ những thói
quen của trẻ.
Có thể vài ngày đầu tơi vẫn sẽ chiều theo quen khơng tốt của trẻ như: Ơm cặp
bên mình khơng chịu bỏ cặp lên kệ, khơng ăn thịt, rau, hay ăn rất ít cơm…Tơi sẽ
từ từ tập dần thói quen nề nếp của lớp cho trẻ đến khi trẻ quen dần và biết tôi sẽ
đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
6
+ Ví dụ.
Đến giờ ăn tơi thường để các bé khóc nhiều ngồi gần khuyến khích trẻ ăn
hết suất, tạo bầu khơng khí, khơng có áp lực khi ăn, thay vào đó là những lời
khen con ăn giỏi quá, nếu trẻ không muốn ăn nữa tôi sẽ ngừng cho trẻ ăn khi đó
có thể uống sữa nhằm bù lại phần thức ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng
dần lên vài muỗng cơm trẻ sẽ dễ thích nghi thức ăn ở trường sau đó dần dần trẻ
ăn nhanh, gọn và ăn hết suất của mình. Tơi thường trao đổi xem cách phụ huynh
cho bé ăn, ngủ, ngồi bô… như thế nào để biết cách chăm sóc bé sau này. Đồng
thời cũng trao đổi để cùng tìm biện pháp tốt nhất chăm sóc cho bé.
Hình ảnh 3: Cơ khuyến khích trẻ ăn cơm.
Biện pháp 4: Tạo sự gần gũi thân thiện với trẻ
Tôi luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu
hút trẻ vào những trò chơi nhỏ hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng
dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Giờ ngủ nếu trẻ chưa
chịu ngủ tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn tôi sẽ để trẻ tự do
ngồi đâu trẻ thích, sau đó tơi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cô chỉ cần
nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cơ sẽ cho con về. Hoặc tôi sẽ thuyết
phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó đưa trẻ vào gối nằm.
Hình ảnh 4: Cơ gần gũi động viên trẻ ngủ
Khi đón trẻ tơi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ sớm để trẻ tập quen
dần với mơi trường mới và sẽ khơng có cảm giác bị ba mẹ bỏ lại trường.Ngồi
những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp mầm non từ những kinh
nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi tôi dã áp dụng trong những năm học
qua, tơi cịn đến với trẻ bằng chính tình thương của mình, bằng lịng u nghề,
u trẻ , ln hịa mình vào thế giới của trẻ, ln đáp ứng kịp thời nhu cầu của
trẻ nhưng không vượt qua giới hạn, chăm sóc u thương trị chuyện để mỗi
ngày trẻ đến lớp càng có nhiều niềm vui, trẻ yêu thích đến lớp và ngày càng
ngoan ngỗn lễ phép hơn.
Biện pháp 5: Chú trọng thay đổi hình thức trong các hoạt động.
Giáo viên mầm non không chỉ là nhà giáo đơn thuần mà là ca sĩ, nghệ sĩ và là
người mẹ hiền thứ hai của trẻ, lứa tuổi mầm non cịn non nớt, chưa phát triển
hồn thiện về tâm sinh lý, dễ nhạy cảm với mọi hoạt động xung quanh. Trẻ sẽ dễ
bị thu hút bởi những điều mới lạ, sặc sỡ và đẹp mắt. Dựa vào đặc điểm tâm lí ấy,
tơi đã thường xun thay đổi các hình thức hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ,
giúp trẻ nhanh chóng quên đi sự lạ lẫm mà mau chóng bắt nhịp cùng các bạn.
Ví dụ: Đơn giản như hoạt động chuyển tiếp, tơi có thể cho trẻ chơi xâu lá,
xâu hạt hoặc tơi tổ chức chơi 1 trị chơi cùng trẻ. Trẻ ln thích thú khi được
tham gia cùng cơ những trị chơi ngắn, vui nhộn. Qua đó, tơi cũng có thể an ủi,
động viên nhiều hơn những trẻ còn chưa thực sự hòa đồng trong các hoạt động,
cũng như qua đó để nắm được phần nào tính cách từng trẻ. Những bài đồng dao,
bài vè và các trị chơi dân gian ln có sức cuốn hút với trẻ nhà trẻ. Nhịp, vần dễ
thuộc, trò chơi ngắn, luật chơi đơn giản. Trẻ rất hứng thú khi cùng cô tham gia các
trò chơi dân gian và thể hiện các bài vè cùng cơ.
Hình ảnh 5: Cơ hướng dẫn trẻ xâu vòng bằng những chiếc lá
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
7
Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh học sinh
Trẻ ở lớp tơi thì đa phần tồn là cháu mới đi học lần đầu. Đối với các cháu
đã đi học, ngay từ ngày đầu nhận danh sách lớp tôi thường trao đổi ngay bố mẹ
của trẻ để tơi có thể nắm được ngay thói quen, đặc điểm sinh lý, sức khỏe của trẻ
để có biện pháp tác động phù hợp. Những ngày đầu mới đi học thường có các
ơng bà hoặc bố mẹ đi theo, lúc đó trao đổi với phụ huynh về tính cách của trẻ
xong tơi tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi dân gian... Khi trẻ bắt đầu bị tơi thu
hút thì tơi sẽ làm quen, trị chuyện với trẻ trong vai trị “cơ giáo”.
Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, ngoài việc trao đổi với phụ huynh
về trẻ, tôi cũng đã trao đổi với các anh chị phụ huynh về nội quy của nhóm lớp
như: Phụ huynh nên cho bé đi học đều, đúng giờ, đồng thời đề nghị phụ huynh
kết hợp với cơ trong việc rèn nề nếp và thói quen lễ phép. Cô và bố mẹ phải là
tấm gương cho trẻ noi theo.
Hình ảnh 6: Cơ trao đổi với phụ huynh
Ví dụ: Khi trẻ đến lớp tơi khoanh tay và nói cơ chào con và nhắc trẻ chào
lại tơi, khi đó phụ huynh cũng nhắc con của mình khoanh tay và chào cơ đi nào
cứ như vậy trẻ sẽ nhìn và bắt chước theo.
Hay những lúc sinh hoạt tập thể ngồi vịng trịn. Trẻ ngồi cùng tơi chơi
trị “Đốn tên”. Tơi cùng giúp bé nói tên của mình. Khi trẻ chơi xong, tơi cùng
bé cất dọn đồ chơi vào các góc.
Ví dụ: Giờ tan lớp tôi thường chia cho mỗi cháu chiếc kẹo trẻ rất thích
thích, tơi thường nói: “Cơ cho con này” trẻ nhìn tơi với ánh mắt dị xét và được
mẹ tiếp thêm: “ Con cảm ơn cô đi, Cô yêu con mà!” những lời của mẹ và hành
động của cô đã làm cho bé hết sức an tâm và cảm thấy thoải mái tinh thần trong
những ngày đầu bé mới đến trường.
Tôi thường trao đổi với phụ huynh về cách rửa tay theo quy trình 6 bước
theo quy cách mà tơi coi đó là biện pháp tốt nhất chăm sóc cho bé.
Trong q trình trẻ rửa nhất là với cháu mới ở độ tuổi 24-36 tháng thì cơ
phải là người rửa tay cho trẻ, không nên dồn ép la mắng trẻ, trẻ dễ bị kích
động. Cần tạo khơng khí vui vẻ cho trẻ, đừng vơ tình để trẻ sợ.
Sau 1 thời gian áp dụng phương pháp này, kết quả mà tơi thu được đó
là cháu đã quen dần môi trường Mầm Non, cô ra hiệu lệnh “Gõ xắc xơ” là trẻ đã
biết cần làm những gì. Tơi khơng nóng vội mà ép cháu làm được ngay 1, 2 tuần
đầu làm cho bé sợ và thấy cô giáo là một điều sợ hãi, đây là điều dễ xảy ra
trong thời gian mới vào trường.
Biện pháp 7: Tích cực tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ trẻ
được tham gia.
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non rất hứng thú và bị thu hút nhanh với
các hoạt động mang tính tập thể, nên đây là một trong những biện pháp tôi áp
dụng trong năm học vừa qua và tôi nhận thấy khi trẻ được tham gia trải nghiệm
trẻ rất vui, hào hứng và quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ mà trẻ thích thú tham gia
hoạt động. Vì vậy thông qua các hoạt động tổ chức lễ khai giảng, ngày tết trung
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
8
thu, trẻ làm bánh trơi... từ đó giúp trẻ lớp tơi thích tới lớp và tích cực mạnh dạn
tham gia các hoạt động trong trường mầm non.
Ví dụ: Vào ngày mùng 3/3 chúng tôi cho trẻ trải nghiệm làm bánh trơi tại
lớp, mặc dù các con cịn rất nhỏ, nhưng các con rất thích khi chính bàn nhỏ bé
của các con đã làm nên những đĩa bánh trôi trông rất ngon.
Hình ảnh 7: Trẻ trải nghiệm làm bánh trơi
V. Kết quả thực hiện .
Qua một năm áp dụng thử nghiệm đề tài và áp dụng những biện pháp mà
tôi đã nêu ở trên tôi đã thu được những kết quả như sau.
* Đối với trẻ
+ Trẻ mạnh dạn tự tin, vui vẻ khi đến lớp.
+ Đến lớp trẻ chào cô, chào bố mẹ, tự cất đồ dùng cá nhân vào nơi quy định.
+ Trẻ đi lớp khơng cịn khóc, khơng cịn bỡ ngỡ, chơi thân thiện với cơ và
các bạn, biết chia sẻ đồ chơi, gần gũi với cô giáo, thích ăn cơm với các bạn và
thích đi học hơn.
Bảng so sánh đối chứng giữa 2 giai đoạn: Số trẻ 23 trẻ.
Đầu năm
Các kỹ năng khảo sát
Tổng
số trẻ
Trẻ đi học khơng khóc
Cuối năm
Số
trẻ
đạt
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
chưa
đạt
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
đạt
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
chưa
đạt
Tỷ lệ
%
23
4
17,4
19
82,6
21
91.3
2
8,7
23
3
13
20
87
20
87
3
13
23
4
17,4
19
82,6
21
91.3
2
8,7
Trẻ tích cực, mạnh dạn,
tự tin
23
3
13
20
87
20
87
3
13
Trẻ có nề nếp, hứng thú
chơi trong các hoạt
động
23
3
13
20
87
21
91.3
2
8,7
Trẻ thích trị chuyện với
bạn và cơ giáo
Trẻ thích nghi với hoạt
động ở lớp
* Đối với phụ huynh.
+ Phụ huynh đã phối, kết hợp chặt chẽ với cô giáo và nhà trường thơng
qua giờ đón trả trẻ và các hoạt động của trẻ tại trường.
+ Phụ huynh đã hoàn toàn tin tưởng và yên tâm khi gửi con tới trường.
Phụ huynh ln tích cực tham gia các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường, nhiệt
tình ủng hộ những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương, tạo mơi trường học tập
thuận lợi cho nhà trường
+ Phụ huynh đến đón con rất vui khi con của mình đã ngoan và có nề nếp
tốt. Với những chia sẻ của phụ huynh tôi thấy rằng các bậc phụ huynh thực sự
yên tâm khi gửi gắm con của mình cho các cơ chăm sóc.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
9
* Đối với cơ.
Thật khơng có gì vui khi nhìn những nụ cười vô tư, hồn nhiên của trẻ tôi
cảm thấy mình đang đi đúng khi đến với trẻ bằng cả tấm lịng. Mặc dù cịn có
nhiều thiếu sót nhưng tơi cảm thấy được mình đã gặt hái được những thành cơng
như mong đợi, tơi tự hứa vời lịng mình sẽ luôn yêu thương đến với trẻ bằng con
tim chứa chan tình cảm, tâm huyết với nghề.
C. PHẦN THỨ BA. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
I. Kết luận.
Việc giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non là một cơ sở tốt
để giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người. Đối với trẻ thơ một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc giáo dục ở trẻ tình u thiên nhiên,
u cuộc sống con người qua đó trẻ biết thích nghi với mơi trường lớp học biết
thương yêu quan tâm tới cô giáo, bạn bè em nhỏ, ln có thái độ chăm sóc và
bảo vệ, vệ sinh cá nhân cũng như các hoạt dộng ở trường Mầm non.
Sau một thời gian thực nghiệm tôi nhận thấy trẻ có những chuyển biến rõ
nét. Trẻ tự tin đến lớp trẻ biết cảm thụ cái hay, cái đẹp biết yêu thương ông bà,
cha mẹ, biết yêu trường lớp, yêu quý thầy cơ giáo, bạn bè, thích đi học, có nề
nếp tốt. Từ đó tơi nhận thấy sáng kiến của mình đã phần nào góp phần vào việc
giúp trẻ sớm thích nghi môi trường ở trường Mầm Non, phù hợp với thực tế ở
địa phương với điều kiện lớp học và khả năng nhận thức của trẻ. Tơi cảm thấy
mình đã hồn thành tốt vai trị của một cơ giáo mầm non. Tôi đã tạo được niềm
tin vui, an tâm, tin tưởng của các bậc phụ huynh khi trao con trẻ cho tôi.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi nhằm giúp trẻ sớm thích nghi với
trường lớp trong năm học 2020– 2021 và đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên trong q trình thực hiện cũng khơng tránh khỏi những thiếu xót. Tơi
rất mong nhận được những ý kiến đón góp quý báu của các cấp lãnh đạo và các
chị em đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi đạt được những kết
quả tốt hơn.
II. Khuyến nghị:
Để thực hiện tốt một số biện giúp trẻ sớm thích nghi với trường, lớp. Bản
thân tơi có một số đề xuất như sau:
*Đối với trường:
- Nhà trường thường xuyên mở các buổi bồi dưỡng chuyên môn, sinh hoạt
chuyên môn, dự giờ, cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở các
đơn vị bạn trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
- Cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, đồ dùng dụng cụ trong lớp học cũng như
môi trường bên ngồi thu hút trẻ đến trường.
*Đối với phịng:
- Tổ chức các buổi bồi dưỡng chuyên môn, chuyên đề. Cung cấp thêm các tài
lệu có liên quan đến phương pháp, biện pháp thu hút trẻ vào trường
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi áp dụng trong việc giúp trẻ sớm
thích nghi với trường, lớp. Tơi rất mong được sự góp ý của ban giám hiệu và các
bạn đồng nghiệp để tơi ngày càng có kinh nghiệm dạy dỗ các cháu tốt hơn.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
10
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của ai.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
C. PHẦN THỨ TƯ: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cuốn trương trình giáo dục mầm non.
2. Tuyển tập trị chơi, bài hát, thơ ca, câu đố, truyện theo chủ đề 24-36
tháng tuổi. Lê Thị Thu Hương (chủ biên)- NXB Giáo Dục Việt Nam- 2011
3. Nguồn tư liệu trên mạng internet
4. Tạp chí mầm non
E. PHẦN THỨ NĂM: MINH CHỨNG
Hình ảnh 1: Cơ gần gũi động viên trẻ
Hình ảnh 2: Cô làm nhiều đồ dùng đồ chơi
sáng tạo cho trẻ
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
11
Hình ảnh 3: Cơ khuyến khích trẻ ăn cơm
Hình ảnh 4: Cơ gần gũi động viên trẻ ngủ
Hình ảnh 6: Cơ trao đổi với phụ huynh
Hình ảnh 5: Cơ hướng dẫn trẻ xâu vòng bằng
những chiếc lá.
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
12
Hình ảnh 7: Trẻ trải nghiệm làm bánh trơi
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................
.................................................................................................................................
……………, ngày
tháng
năm 2021
Chủ tịch hội đồng
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp
13
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.
……………, ngày
tháng
năm 2021
Chủ tịch hội đồng
Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với trường với lớp