Tải bản đầy đủ (.doc) (274 trang)

nghiên cứu phương pháp suy nghĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 274 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP SUY NGHĨ
- Nghiên cứu : Phương pháp suy nghĩ
- Các ứng dụng của nghiên cứu.
- Các định nghĩa về nghiên cứu.
- Các đặc điểm của công tác nghiên cứu.
- Các kiểu nghiên cứu.
Nghiên cứu ứng dụng.
Nghiên cứu theo mục tiêu.
Nghiên cứu theo loại thông tin tìm kiếm.
- Các cơ chế của nghiên cứu.
- Tóm tắt chương.
Nghiên cứu: phương pháp suy nghĩ
Nghiên cứu được thực hiện trong hầu hết các chuyên ngành. Không chỉ là tập
hợp các kỹ năng, nghiên cứu còn là một cách, một phương pháp suy nghĩ: khảo xét
nghiêm túc các khía cạnh khác nhau của chuyên ngành; tìm hiểu và xây dựng các
nguyên lý hướng dẫn để các nguyên lý hướng dẫn để vận hành những thủ tục nhất
định; phát triển và kiểm thử các lý thuyết mới nhằm mở rộng chuyên ngành. Để tạo
ra các thay đổi hướng dẫn việc nâng cao, mở rộng chuyên ngành, cách ứng xử
thường gặp là chất vấn, điều tra những gì đã được thực hiện và tìm câu trả lời ở
những xem xét thực nghiệm. Có thể lấy thí dụ ở vài chuyên ngành.
Giả thuyết chúng ta làm việc ở lĩnh vực y tế. Dù làm việc ở đâu và với vị trí
và cương vị gì, ta vẫn phải nghĩ đến các câu hỏi sau đây – và danh sách các câu
hỏi còn có thể dài hơn nữa:
- Mỗi ngày, ta tiếp xúc với bao nhiêu bệnh nhân?
- Điều kiện hoàn cảnh chung nhất của các bệnh nhân là gì?
- Nguồn gốc của các điều kiện hoàn cảnh nêu trên là những gì?
- Tại sao có một số người có những điều kiện rất đặc thù trong khi những
người khác lại không có?
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1


VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Nhu cầu y tế của cộng đồng là những gì?
- Tại sao một số người dùng đến dịch vụ y tế còn những người khác lại
không?
- Người ta nghĩ gì về dịch vụ y tế?
- Bệnh nhân được thoả mãn ra sao về các dịch vụ y tế?
- Dịch vụ có đáp ứng được mục tiêu hay không?
- Dịch vụ có thể được cải tiến ra sao?
Tuỳ vào vị trí công việc, có những lúc ta có thể bỏ qua những câu hỏi đó,
hoặc có những lúc tự ta nỗ lực đi tìm các câu trả lời hoặc có khi ta được yêu cầu -
buộc phải tìm ra các câu trả lời - nhằm phục vụ công tác hoạch định và quản lý
công việc tốt hơn.
Lấy thí dụ ở ngành khác - nghiên cứu kinh doanh – và ta đang làm việc ở bộ
phận tiếp thị với các vị trí công tác khác nhau. Các câu hỏi có thể ta sẽ gặp phải là:
- Khối lượng cao nhất một sản phẩm bán được hàng tháng là bao nhiêu?
- Kế hoạch chiến lược về nghiên cứu và phát triển ra sao để giành được thị
phần sản phẩm lớn hơn?
- Chiến lược tốt nhất để nâng cao khối lượng bán sản phẩm?
- Cần bao nhiêu nhân viên bán hàng?
- Hiệu ứng của bán sản phẩm theo kết quả của chiến dịch tiếp thị tương ứng?
- Người tiêu thụ thoả mãn ra sao với sản phẩm?
- Người tiêu thụ dự trù bỏ ra bao nhiêu tiền để tiêu dùng món hàng?
- Người tiêu dùng có thích sản phẩm hay không?
- Khách hàng thích loại bao bì đóng gói nào hơn?
- Để bán được nhiều hơn, nhân viên cần được huấn luyện những gì?
- Nhân viên bán hàng tốt cần có những tổ chức gì?
Thí dụ khác là về lĩnh vực tâm lý hay xã hội học. Trong các tình huống tư
vấn, có thể có các câu hỏi sau:
- Những vấn đề thường xuyên gặp nhất của khách hàng là những gì?
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Những vấn đề cốt lõi/nền tảng thông dụng nhất của khách hàng là những gì?
- Cơ sở kinh tế - xã hội của khách hàng?
- Tại sao có thể thành công trong một số trường hợp và thất bại trong một số
trường hợp khác?
- Để hỗ trợ khách hàng về một nhu cầu nhất định nào đó, có những nguồn
lực nào sẵn có trong cộng đồng?
- Những chiến lược can thiệp nào là thích hợp cho vấn đề này?
- Khách hàng thoả mãn ra sao với dịch vụ do mình cung ứng?
Còn trong các bối cảnh quản lý, lại là các câu hỏi sau:
- Bao nhiêu người đã đến đơn vị của mình?
- Những đặc điểm về nhân khẩu – kinh tế - xã hội của các khách hàng?
- Mỗi ngày, một nhân viên có thể xử lý bao nhiêu trường hợp?
- Tại sao một số người dùng dịch vụ tư vấn còn số khác thì không?
- Dịch vụ đạt được kết quả ra sao?
- Nhu cầu thông dụng nhất của khách hàng của đơn vị mình là những gì?
- Điểm mạnh và điểm yếu của dịch vụ?
- Khách hàng thoả mãn với dịch vụ ra sao?
- Có thể cải tiến dịch vụ như thế nào?
Còn ở vai trò một chuyên gia, các câu hỏi mang tính lý thuyết sau đây lại
được nêu ra:
- Can thiệp hiệu dụng nhất của một bài toán cụ thể là gì?
- X có nguyên nhân là gì hay Y có kết quả là gì?
- Quan hệ giữa hai hiện tượng là gì?
- Có thể đo lường sự tự đánh giá của khách hàng ra sao?
- Có thể khẳng định tính xác thực của các bảng câu hỏi?
- Mẫu lựa chọn chương trình của cộng dồng có dạng gì?
- Cách tốt nhất để tìm ra thái độ của cộng đồng trước một vấn đề là gì?
- Cách tốt nhất để tìm ra tính kiến hiệu của một giải pháp cụ thể là gì?

CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Có thể chọn được một mẫu thống kê không thiên lệch ra sao?
Còn với vị trí của người tiêu thụ, có thể có các câu hỏi dưới đây. Lưu ý –
trong kỷ niệm của người tiêu thụ, ta không thể bỏ qua yếu tố khách hàng - người
tiêu thụ của dịch vụ cung ứng. Khách hàng có quyền chất vấn về chất lượng và
kết quả của dịch vụ còn người cung cấp dịch vụ phải có trách nhiệm trả lời tương
ứng:
- Dịch vụ yêu cầu có kết quả là gì?
- Người mua có được lợi (về tiền bạc) hay không khi mua dịch vụ?
- Các nhà cung cấp được huấn luyện chuyên nghiệp đến mức nào?
Hầu hết các lĩnh vực xã hội – nhân văn đều gặp phải các câu hỏi nêu trên.
Các ứng dụng của nghiên cứu
Như chúng ta vừa lướt qua, các câu hỏi đặt ra cho mọi chuyên ngành đều có
thể được xem xét từ các góc độ sau:
- Người cung ứng dịch vụ
- Người tiêu thụ dịch vụ
- Người quản lý dịch vụ
- Chuyên gia của ngành.
Các quan điểm đó được tổng kết trên hình 1.1. Mặc dù không thể liệt kê hết
các vấn đề của mọi lĩnh vực nhưng khung cơ sở trên hình 1.1 có thể dùng được
cho hầu hết các ngành và cho hầu hết tình huống của khoa học xã hội và nhân văn
để nhận diện các vấn đề có thể có trong lĩnh vực chuyên biệt của người đọc, theo
cả bốn góc nhìn nêu trên.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Hình 1.1. Các ứng dụng của nghiên cứu
Các định nghĩa về nghiên cứu

Có một vài cách trả lời các câu hỏi vừa nêu trên. Các phương pháp trả lời
thay đổi từ tính tương đối phi hình thức dựa vào các kết quả “lâm sàng” trực tiếp
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5
ỨNG DỤNG CỦA NGHI ÊN CỨU
theo các quan điểm của
Nhà cung cấp
dịch vụ
Nhà hoạch
định/quản lý
Người tiêu
thụ/khách hàng
Chuyên gia
ngành
- Bao nhiêu
người đang dùng
dịch vụ/sản
phẩm?
- Tại sao một số
người dùng dịch
vụ/sản phẩm
trong khi những
người khác
không dùng?
- Dịch vụ sản
phẩm có ích ra
sao?
- Dịch vụ sản
phẩm có thể
được cải tiến ra

sao?
- Loại người nào
dùng không
dùng dịch vụ/sản
phẩm?
- Người dùng
thoả mãn ra sao
với dịch vụ/sản
phẩm?
- Các vấn đề về
dịch vụ/ sản
phẩm?
- Nhu cầu của
cộng đồng là gì?
- Các kiểu dịch
vụ/sản phẩm mà
cộng đồng cần?
- Cần bao nhiêu
nhà cung cấp
dịch vụ?
- Nhu cầu huấn
luyện nhân viên
gồm những gì?
- Trong 1 ngày 1
nhânviên có thể
xử lý bao nhiêu
trường hợp?
- Kết quả của
nhân viên dược
đánh giá ra sao?

- Bằng cách nào
để dịch vụ/sản
phẩm có thể phổ
dung hơn?
- Có lợi kinh tế
nào không?
- Các nhà cung
cấp dịch vụ tốt ra
sao?
- Hiệu ứng dài
hạn của sản
phẩm đang
dùng? Bằng
chứng ở đâu?
- Can thiệp kiến
hiệu nhất cho
vấn đề là gì?
- Quan hệ giữa X
và Y là gì?
- Lý thuyết nhất
định trong điều
kiện hiện tại hợp
lệ như thế nào?
- Cách tốt nhất
để đo lường
được thái độ.
- Quá trình qua
đó người ta
quyết định chọn
chương trình là

gì?
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
đến tính khoa học chặt chẽ gắn với các diễn đạt quy ước của các thủ tục khoa học.
Nghiên cứu là một trong những phương pháp đó.
Khi nói – đang tiến hành một nghiên cứu để tìm ra trả lời cho một bài toán
nào đó, thì ta đang hàm ý quá trình có các đặc điểm sau:
1. Diễn ra trong khuôn khổ của tập hợp các triết niệm.
2. Dùng đến các phương pháp, thủ tục và kỹ thuật đã được kiểm nhận về tính
xác thực và độ tin cậy.
3. Được thiết kế một cách khách quan và không thiên lệch.
Ở đây, định hướng mang tính triết lý xuất phát từ một trong hai cơ chế của
nghiên cứu - chủ thuyết tích cực và chủ thuyết tự nhiên – và xuất phát từ chuyên
ngành đang xét.
Khái niệm về tính xác thực được áp dụng vào bất kỳ khía cạnh nào của quá
trình nghiên cứu - điều này đảm bảo rằng trong việc nghiên cứu ta đã áp dụng các
thủ tục đúng đắn. Còn tính tin cậy nói lên chất lượng của thủ tục đo lường. Tính
khách quan và không thiên lệch nghĩa là ta đã tiến hành các bước nghiên cứu và
rút ra các kết luận theo khả năng cao nhất của mình mà không có các lợi ích cá
nhân. Cần phân biệt giữa tính thiên lệch và tính chủ quan. Chủ quan là một cấu
thành trong cách suy nghĩ của một người - xuất phát từ căn bản học vấn, ngành
nghề, quan niệm, kinh nghiệm và kỹ năng của người đó. Trái lại, thiên lệch là
một cố gắng rõ rệt để che giấu hay nhấn mạnh môt việc gì. Thí dụ, nhà tâm lý
xem xét thông tin theo cách hoàn toàn khác với nhà nhân chủng hay nhà sử học.
Sở hữu ba đặc tính trên sẽ cho phép quá trình được mang tên là quá trình
nghiên cứu. Do vậy, khi nói rằng ta đang thực hiện một công việc nghiên cứu,
hàm ý rằng phương pháp mà ta chọn phải hội đủ các đặc tính mong đợi vừa nêu.
Tuy nhiên, mức độ thoả mãn các đặc tính tiêu chuẩn đó thay đổi theo từng
ngành và vì vậy, ý nghĩa của từ “nghiên cứu” cũng thay đổi theo ngành. Thí dụ,
quá trình nghiên cứu trong khoa học xã hội và khoa học tự nhiên sẽ khác biệt
đáng kể. Trong khoa học tự nhiên, nỗ lực nghiên cứu được chờ đón là sẽ bị điều

CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
khiển chặt chẽ ở mỗi bước tiến hành, trong khi đó ở khoa học xã hội, sự kiểm soát
nghiêm ngặt không thể áp đặt được và đôi khi, cũng không yêu cầu.
Ngay cả trong khoa học xã hội, mức độ yêu cầu kiểm soát cũng thay đổi
đáng kể theo từng lĩnh vực vì các nhà khoa học xã hội có yêu cầu khác nhau về
quá trình nghiên cứu sở hữu ba đặc tính mong đợi nêu trên. Nhưng dù có khác
biệt giữa các ngành, tiếp cận chung về công cuộc tìm hiểu vẫn là giống nhau. Mô
hình nghiên cứu trong sách này sẽ được đặt cơ sở trên quan điểm đó.
Người mới làm quen trong lĩnh vực nghiên cứu cần hiểu rằng nghiên cứu
không phải là những gì về kỹ thuật, có tính phức tạp, thống kê hay máy tính. Một
mặt, nghiên cứu có thể chỉ là hoạt động đơn giản để trả lời được các câu hỏi liên
đới đến những công việc hàng ngày. Mặt khác, nghiên cứu có thể liên quan đến
việc xây dựng các lý thuyết hay các quy luật phức tạp - chẳng hạn điều khiển sự
sống. Như đã nói trên, khác biệt giữa hoạt dộng nghiên cứu và hoạt động không
có tính nghiên cứu là ở cách thức tìm ra câu trả lời – quá trình tương ứng phải đáp
ứng được một số yêu cầu nhất định mới được gọi là quá trình nghiên cứu. Để
nhận diện các yêu cầu này, xin khảo xét vài định nghĩa về nghiên cứu sau đây.
Nghiên cứu là một hoạt động điều tra và tìm hiểu lâu dài, có tính hệ thống và
kỹ lưỡng trong một lĩnh vực kiến thức nào đó nhằm thiết lập các sự kiện hay
nguyên lý (Grinnell – 1993).
Cách khác, cũng theo Grinnell (1993):
Nghiên cứu là việc chất vấn có cấu trúc dùng phương pháp (luận) khoa học
chấp nhận được để giải quyết vấn đề và tạo sinh kiến thức mới có thể áp dụng
được một cách tổng quát.
Con Lundberg (1942) chỉ ra sự khác biệt giữa quá trình nghiên cứu xã hội -
được coi là có tính khoa học - với quá trình ta dùng trong cuộc sống hàng ngày.
Các phương pháp khoa học gồm việc quan sát, phân loại và diễn giải dữ liệu
một cách có hệ thống. Rõ ràng là, giờ đây, quá trình này đã được hầu hết mọi

người dùng vào cuộc sống thường nhật. Sự khác biệt chính yếu giữa các tổng quát
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
hoá thường nhật với các kết luận thường được công nhận là có (phương pháp)
khoa học nằm ở mức độ hình thức, chặt chẽ, dễ kiểm chứng và xác thực tổng
quát.
Burns (1994) định nghĩa - nghiên cứu là cuộc điều tra có tính hệ thống để
giải quyết một vấn dề.
Theo Kerlinger (1986), nghiên cứu khoa học là việc điều tra nghiêm túc,
thực nghiệm có kiểm soát và mang tính hệ thống của các luận đề về các mối quan
hệ được giả định của các hiện tượng khác nhau.
Còn Bulmer (1977) cho rằng – nghiên cứu xã hội học, là một nghiên cứu, cơ
bản gắn với việc thiết lập những kiến thức hợp lệ, tin cậy và hệ thống về thế giới
xã hội.
Các đặc điểm của nghiên cứu
Từ các định nghĩa trên, rõ ràng nghiên cứu là một quá trình thu thập, phân
tích và diễn giải thông tin để trả lời các câu hỏi. Nhưng để trở nên có tính nghiên
cứu, quá trình đó phải có càng nhiều càng tốt một số thuộc tính sau đây; kiểm soát
được; chặt chẽ; có tính hệ thống; hợp lệ và dễ kiểm chứng; có tính thực nghiệm và
tính tới hạn.
Dưới đây ta sẽ khảo xét các đặc điểm này
- Kiểm soát được. Trong đời sống có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết cục
cuối cùng. Một sự kiện nhất định nào đó ít khi là kết quả của một quan hệ một –
(đối) - một. Một số quan hệ lại phức tạp hơn các quan hệ khác. Hầu hết các kết
cục đều là hệ quả của sự tương tác lẫn nhau của một số các quan hệ và các yếu tố
có ảnh hưởng khác. Trong một nghiên cứu về quan hệ nhân quả, việc có thể liên
kết (các) kết quả với (các) nguyên nhân và ngược lại là rất quan trọng. Tuy có tầm
quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế, đặc biệt trong các khoa học xã hội, rất
khó hay thậm chí không thể xác định các liên kết như vậy.

Khái niệm về sự kiểm soát hàm ý rằng, trong việc tìm hiểu tính nhân quả
trong quan hệ giữa hai biến, cần tiến hành nghiên cứu sao cho tối thiểu hoá các
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
8
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
ảnh hưởng của các yếu tố khác lên quan hệ đang xét. Đối với các khoa học tự
nhiên, do hầu hết nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm nên điều này
có thể đạt được ở một mức độ lớn. Còn ở các khoa học xã hội, vì các nghiên cứu
được thực hiện trên các vấn đề có liên quan đến các cá nhân sống trong xã hội,
không thể kiểm soát được – nên rất khó thiết lập được các liên kết như vậy. Vì
thế, ở các khoa học xã hội, do không kiểm soát được các yếu tố bên ngoài, ta cần
lượng hoá các tác động của chúng.
- Chặt chẽ. Phải cực kỳ kỹ lưỡng và toàn diện để đảm bảo rằng các thủ tục
được chọn là thích hợp và có thể thuyết minh được. Nhắc một lần nữa rằng, mức
độ chặt chẽ thay đổi đáng kể giữa các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và
ngay bên trong các khoa học xã hội.
- Tính hệ thống. Các thủ tục đã chọn phải đi theo một trình tự logic nhất
định. Không thể thực hiện các bước khác nhau một cách thiếu hoạch định hay
thiếu trật tự. Cũng vậy, một số thủ tục phải đi tiếp sau một số thủ tục khác.
- Hợp lệ và kiểm chứng được. Khái niệm này hàm ý rằng bất kỳ kết luận nào
rút ra được từ kết quả nghiên cứu đều đúng đắn và có thể được kiểm chứng được
do chính ta hay những người khác.
- Thực nghiệm. Điều này hàm ý rằng mọi kết luận đã rút ra đều đặt cơ sở
trên các chứng cứ rõ ràng tập hợp từ thông tin thu được do kinh nghiệm hay quan
sát từ đời sống thực.
- Tới hạn. Tính toàn diện và kỹ lưỡng ở mức độ cao của các thủ tục và kỹ
thuật đem dùng đóng vai trò chủ yếu đối với việc tìm hiểu nghiên cứu. Quá trình
điều tra phải tin cậy, dễ thực hiện và không có lỗi. Quá trình được chọn và các thủ
tục áp dụng phải có thể vượt qua được việc xem xét toàn diện và kỹ lưỡng ở mức
độ cao đó.

Các kiểu nghiên cứu
Nghiên cứu có thể được phân loại theo ba quan điểm (hình 1.2)
- Ứng dụng của công trình nghiên cứu.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
9
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Mục tiêu trong việc thực hiện nghiên cứu.
- Loại thông tin tìm kiếm
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
10
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Hình 1.2. Các kiểu nghiên cứu
Ba kiểu phân loại này không loại trừ nhau.Thí dụ, một dự án nghiên cứu có
thể được xếp loại là nghiên cứu lý thuyết hay nghiên cứu ứng dụng (theo góc nhìn
ứng dụng của nghiên cứu), hoặc là nghiên cứu khai phá (theo quan điểm mục tiêu
nghiên cứu), hoặc là nghiên cứu định lượng hay nghiên cứu định tính (theo quan
điểm loại thông tin tìm kiếm).
Ứng dụng
Từ quan điểm của ứng dụng, có 2 kiểu nghiên cứu - nghiên cứu lý thuyết và
nghiên cứu ứng dụng. Trong các khoa học xã hội, theo Bailey (1978).
Nghiên cứu lý thuyết liên đới đến việc phát triển và kiểm thử các lý thuyết
và giả thuyết có tính thách thức trí tuệ đối với nhà nghiên cứu nhưng có thể có
hoặc không ứng dụng thực tế trong hiện tại hay tương lai. Vì thế những công trình
như vậy thường liên quan đến việc kiểm thử các giả thuyết chứa những khái niệm
rất trừu tượng và rất đặc biệt.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
11
CÁC KIỂU NGHIÊN CỨU
theo các quan điểm của
Ứng dung

Mục tiêu
Loại thông tin
tìm kiếm
Nghiên cứu
lý thuyết
Nghiên cứu
áp dụng
Nghiên cứu
mô tả
Nghiên cứu
tương quan
Nghiên cứu
giải thích
Nghiên cứu
khai phá
Nghiên cứu
định lượng
Nghiên cứu
định tính
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Nghiên cứu lý thuyết cũng liên đới đến việc phát triển, khảo xét, kiểm chứng
và tính chính các phương pháp, thủ tục, kỹ thuật và công cụ nghiên cứu - những
yếu tố hình thành nên phương pháp luận nghiên cứu. Các thí dụ về nghiên cứu lý
thuyết: phát triển một kỹ thuật lấy mẫu có thể dùng được cho một tình huống nhất
định; phát triển một phương pháp luận để đánh giá tính hợp lệ của một thủ tục;
phát triển một dụng cụ để - chẳng hạn – đo lường mức độ căng thẳng của con
người; tìm ra cách tốt nhất để đo lường thái độ của con người. Kiến thức thu được
từ nghiên cứu lý thuyết như vậy nhằm để tích lũy thêm vào khối kiến thức hiện có
về các phương pháp nghiên cứu.
Hầu hết các nghiên cứu trong khoa học xã hội đều là nghiên cứu áp dụng.

Nói cách khác, các phương pháp, thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu tạo nên phương
pháp luận nghiên cứu được ứng dụng vào việc thu thập thông tin về các khía cạnh
khác nhau của tình huống, vấn đề, bài toán hay hiện tượng để thông tin tập hợp có
thể dùng được bằng các cách khác - như quản lý, xây dựng chính sách và mở
rộng hiểu biết về hiện tượng.
Mục tiêu
Một nghiên cứu theo quan điểm mục tiêu có thể được phân loại chung thành
- nghiên cứu mô tả, nghiên cứu tương quan, nghiên cứu giải thích và nghiên cứu
khai phá.
Nghiên cứu mô tả cố gắng mô tả một tình huống, bài toán, hiện tượng, dịch
vụ hay chương trình một cách có hệ thống, hoặc cung cấp thông tin về - chẳng
hạn - điều kiện sống của một cộng đồng, hoặc mô tả các thái độ trước một vấn đề.
Thí dụ, nghiên cứu kiểu này có thể mô tả các loại dịch vụ cung ứng của một tổ
chức, cấu trúc quản trị của một tổ chức, các nhu cầu của một cộng đồng, cảm xúc
của trẻ em sống trong ngôi nhà có tình trạng bạo lực, hoặc là thái độ của nhân
viên đối với nhà quản lý…
Trọng tâm chính của nghiên cứu tương quan là khám phá hay thiết lập sự tồn
tại của mối quan hệ/kết hợp/liên thuộc giữa hai hay nhiều hơn khía cạnh của một
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
12
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
tình huống. Có thể xem các thí dụ sau - chiến dịch quảng cáo có ảnh hưởng gì lên
việc bán sản phẩm? Có quan hệ gì giữa đời sống căng thẳng và chứng đau tim?
Có quan hệ gì giữa tính mắn đẻ và cái chết? Có quan hệ gì của dịch vụ y tế lên
việc kiểm soát bệnh tật hoặc là môi trường gia đình lên thành tích học tập?
Nghiên cứu giải thích cố gắng làm sáng tỏ lý do và cách thức của mối quan
hệ giữa khía cạnh của một tình huống hay hiện tượng. Kiểu nghiên cứu này cố
giải thích, thí dụ, tại sao đời sống căng thẳng gây ra chứng đau tim? tại sao giảm
tỷ lệ sinh đi theo sau giảm tỷ lệ chết? hoặc là môi trường gây ảnh hưởng ra sao lên
thành tích học tập của học sinh?

Nghiên cứu khai phá được thực hiện để xem xét khả năng của việc tiến hành
một nghiên cứu nhất định nào đó. Kiểu này còn được gọi là nghiên cứu khả thi
hoặc nghiên cứu thử/nghiên cứu tiền trạm. Thường kiểu nghiên cứu này được tiến
hành khi nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu những lĩnh vực mà mình có rất ít hay
không có kiến thức. Một khảo sát quy mô nhỏ sẽ được thực hiện để quyết định
xem có đáng giá để thực hiện một khảo cứu chi tiết hay không. Trên cơ sở của
đánh giá rút ra từ nghiên cứu khai phá, nghiên cứu chính thể/ toàn diện có thể
được triển khai. Các nghiên cứu khai phá cũng được thực hiện để phát triển, tinh
chỉnh và/hay kiểm thử các công cụ và thủ tục đo lường. Hình 1.3 cho thấy các
kiểu nghiên cứu theo quan điểm mục tiêu.
Mặc dù, về lý thuyết, một nghiên cứu có thể được xếp vào một trong các
kiểu phân loại vừa xét, nhưng trong thực tế, hầu hết các nước nghiên cứu đều là tổ
hợp của ba phạm trù đầu tiên, tức là yếu tố của nghiên cứu mô tả, nghiên cứu
tương quan và nghiên cứu giải thích. Trong cuốn sách này, phần hướng dẫn viết
báo cáo nghiên cứu cổ vũ việc tích hợp các yếu tố này.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
13
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Hình 1.3. Các kiểu nghiên cứu từ quan điểm mục tiêu
Thí dụ Mục tiêu
Luận đề
chính
Kiểu
nghiên cứu
. Đặc điểm kinh tế - xã hội của cư dân trong
một cộng đồng.
. Thái độ sinh viên về chất lượng dạy học.
. Loại dịch vụ cung ứng từ một tổ chức.
. Nhu cầu của một cộng đồng.
. Khối lượng sản phẩm bán

. Thái độ của công nhân và các nhà quản lý
. Số lượng người sống trong một cộng đồng
. Những vấn đề mà dân mới nhập cư phải
đương đầu
. Phạm vi linh động nghề nghiệp của dân nhập

. Sở thích của người dùng về một sản phẩm
. Hiệu ứng của việc sống trong nhà có tình
trạng bạo lực
. Chiến lược của công ty để tăng năng suất của
công nhân
Để mô tả
những gì
hiện hành
có liên
quan đến:
. Nhóm
người
. Cộng
đồng
. Hiện
tượng.
. Tình
huống
. Chương
trình
. Kết quả
Mô tả
những
gì hiện

đang
phổ
biến
Nghiên
cứu mô tả
. Tác động của một chương trình
. Quan hệ giữa điều kiện sống và chứng đau
tim
. Ảnh hưởng của công nghệ lên tuyển dụng
. Kết quả của dịch vụ tư vấn hôn nhân lên mức
độ các vấn đề về hôn nhân
. Ảnh hưởng của chiến dịch quảng cáo lên
doanh số bán
. Tác động của sáng kiến lên năng suất của
công nhân
. Kết quả của chương trình chủng ngừa để kiểm
soát bệnh truyền nhiễm
Để thiết lập
hay tìm
hiểu:
. Quan hệ
. Kết hợp
. Liên
thuộc
Khẳng
định có
mối
quan hệ
hay
không

Nghiên
cứu tương
quan
. Tại sao điều kiện sống gây ra đau tim?
. Công nghệ tạo ra chỗ làm hay thất nghiệp ra
sao?
. Tại sao một số người phản ứng tích cực trước
một tình huống, còn người khác thì không?
. Tại sao một can thiệp nhất chỉ có ảnh hưởng
đến một số người mà thôi?
. Tại sao chỉ có một số người dùng sản phẩm?
. Tại sao chỉ có một số người di cư đến quốc
Để giải
thích tại
sao:
. Một quan
hệ kết hợp
hay liên
thuộc tồn
tại?
. Một sự
Giải
thích tại
sao
quan hệ
được
hình
thành
Nghiên
cứu giải

thích
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
14
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
gia khác?
. Tại sao chỉ có một số người chọn chương
trình này?
kiện nhất
định xảy
ra?
Các cơ chế của nghiên cứu
Có hai cơ chế chính tạo nên cơ sở của việc nghiên cứu trong các khoa học xã
hội. Chi tiết của những vấn đề này vượt khỏi phạm vi của cuốn sách này. Câu hỏi
cốt lõi của việc chia hai cơ chế là liệu phương pháp luận của các khoa học tự
nhiên có thể áp dụng vào việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội hay không? Cơ
chế bắt nguồn từ các khoa học tự nhiên được gọi là tiếp cận hệ thống, tiếp cận
khoa học hay tiếp cận tích cực. Còn cơ chế ngược lại được gọi là tiếp cận định
tính, tiếp cận dân tộc học, tiếp cận sinh thái hay tiếp cận tự nhiên. Những người
thuộc hai phái trên đã phát triển các giá trị, thuật ngữ, phương pháp và kỹ thuật
riêng để tìm hiểu các hiện tượng xã hội.Tuy vậy kể từ giữa những năm 60, điều
được thừa nhận tăng dần là - mỗi cơ chế đều có vị thế riêng của nó. Mục tiêu
nghiên cứu nên xác định phương thức chất vấn vấn đề, từ đó xác định cơ chế
tương ứng. Áp dụng không phân biệt một tiếp cận vào tất cả các bài toán nghiên
cứu có thể dẫn đến sai lầm và không thích hợp.
Cơ chế tích cực phù hợp với cả nghiên cứu định lượng lẫn nghiên cứu định
tính. Có thể tiến hành nghiên cứu định tính trong cơ chế tích cực. Tuy nhiên, cần
phân biệt giữa một bên là nghiên cứu định tính với bên kia là nghiên cứu tự nhiên
và dân tộc vì chúng đi theo các hệ thống giá trị khác nhau và ở một mức độ nào
đó, các phương pháp luận khác nhau.
Không có vấn đề gì về kiểu cơ chế mà nhà nghiên cứu đang làm việc, nhà

nghiên cứu chỉ cần gắn với các giá trị nhất định liên đới đến việc kiểm soát sự
thiên lệch và sự duy trì tính khách quan qua cả hai điểm - bản thân quá trình
nghiên cứu và các kết luận rút ra. Việc áp dụng các giá trị này vào quá trình tập
hợp thông tin, phân tích và diễn giải thông tin sẽ cho phép nó được gọi là quá
trình nghiên cứu.
Tóm tắt chương
Có vài cách để thu thập và tìm hiểu thông tin để trả lời các câu hỏi đặt ra –
nghiên cứu là một cách trong số đó. Sự khác biệt giữa nghiên cứu và các cách trả
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
15
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
lời câu hỏi khác nằm ở chỗ - trong quá trình được gọi là nghiên cứu – công việc
được thực hiện trong một khung cơ sở của tập các ý niệm; dùng các phương pháp
đã được kiểm chứng về tính hợp lệ và độ tin cậy và nỗ lực thực hiện công việc
không thiên lệch và khách quan.
Nghiên cứu có nhiều ứng dụng. Một nhà cung cấp dịch vụ, hay một nhà quản
lý/hoạch định muốn có kết quả cũng phải có các kỹ năng nghiên cứu. Đòi hỏi
cũng tương tự như vậy đối với một chuyên gia có trách nhiệm nâng cao kiến thức
chuyên môn.
Việc phân loại nghiên cứu có thể được làm từ ba góc nhìn - ứng dụng, mục
tiêu và loại thông tin tìm kiếm.
Từ quan điểm ứng dụng, có các kiểu nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu áp
dụng. Hầu hết các nghiên cứu tiến hành trong các khoa học xã hội đều là nghiên
cứu áp dụng, khảo cứu hoặc là để tìm hiểu hiện tượng/vấn đề hoặc là để thay đổi
trong một chương trình/tình huống. Các nghiên cứu lý thuyết về bản chất mang
tính học thuật và được tiến hành nhằm thu được kiến thức về các hiện tượng có
hay không có các ứng dụng trong tương lai gần và cũng nhằm phát triển các thủ
tục và kỹ thuật mới tạo nên nội dung của phương pháp luận nghiên cứu. Công
trình nghiên cứu có thể được thực hiện với bốn mục tiêu - để mô tả một tình
huống, hiện tượng, bài toán hoặc vấn đề (nghiên cứu mô tả); để thiết lập hay tìm

hiểu mối quan hệ giữa hai hay nhiều biến (nghiên cứu tương quan); để giải thích
lý do các vấn đề xảy ra theo một cách thức nào đó (nghiên cứu giải thích) và để
khảo sát tính khả thi của việc tiến hành một nghiên cứu (nghiên cứu khai phá). Từ
quan điểm loại thông tin tìm kiếm có hai kiểu nghiên cứu: định lượng và định
tính. Mục tiêu chính của nghiên cứu định tính là mô tả sự biến đổi trong một hiện
tượng, tình huống hay thái độ; trong khi đó nghiên cứu định lượng, còn thêm vào
việc lượng hoá sự biến đổi.
Có hai cơ chế chính tạo nên cơ sở của nghiên cứu khoa học xã hội – tích cực
và tự nhiên. Câu hỏi cốt lõi chia hai cơ chế chính là liệu phương pháp luận nghiên
cứu trong các khoa học tự nhiên có thể áp dụng vào nghiên cứu trong các khoa
học xã hội hay không.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
16
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
2. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU
Quá trình nghiên cứu: mô hình 8 bước
Bước 1: thiết lập bài toán nghiên cứu
Bước 2: quan niệm hoá thiết kế nghiên cứu
Bước 3: xây dựng dụng cụ thu thập dữ liệu
Bước 4: chọn mẫu
Bước 5: viết đề xuất nghiên cứu
Bước 6: thu thập dữ liệu
Bước 7: xử lý dữ liệu
Bước 8: viết báo cáo nghiên cứu
Tóm tắt chương
Quá trình nghiên cứu: Mô hình tám bước
Phương pháp luận nghiên cứu được dạy như một môn hỗ trợ dưới hình thức
này hoặc khác, ở các mức độ khác nhau trong nhiều ngành học do những người
gắn với các cơ chế nghiên cứu khác nhau đảm trách. Mặc dù các cơ chế khác nhau
về nội dung, tiếp cận chung về khảo cứu là giống nhau. Các ý kiến tương tự như

vậy cũng đã được nêu ra bởi Festinger và Katz, trong lời nói đầu của cuốn sách –
Các phương pháp nghiên cứu trong các khoa học ứng xử (Research Methods in
Behavioral Sciences) - mặc dù logic cơ sở của phương pháp luận khoa học là như
nhau trong tất cả các lĩnh vực, các tiếp cận và kỹ thuật cụ thể của chúng lại khác
nhau – tùy thuộc vào yếu tố chủ đề (1966). Do vậy, mô hình được phát triển ở đây
có tính tổng quát về bản chất và có thể được áp dụng vào một số các ngành trong
khoa học xã hội (hình 2.1). Nó đặt cơ sở trên một tiếp cận từng bước và thực tế
đối với việc khảo cứu và mỗi bước đưa ra tập có thể chọn lựa các phương pháp,
mô hình và thủ tục.
Các tác vụ chỉ ra trong các mũi tên (hình vẽ) là các bước thao tác cần đi theo
để tiến hành nghiên cứu.
Các chủ đề nêu ra trong các hình chữ nhật là các kiến thức lý thuyết cần thiết
để thực hiện các bước thao tác.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
17
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Các tác vụ ghi trong các hình tròn là các bước trung gian cần phải hoàn tất dể đi
từ bước này sang bước kia. Điều quan trọng là người mới bắt đầu nên đi theo các
bước đúng trình tự dẫn ra, mặc dù với kinh nghiệm, điều đó thay đổi được.
Sách này được tổ chức theo các kiến thức lý thuyết, cần để thực hiện mỗi
bước thao tác và đi theo cùng một quy trình tuần tự dể tiến hành nghiên cứu. Đối
với mỗi bước thao tác, kiến thức lý thuyết cần thiết được tổ chức xa hơn, trong
các chương khác nhau (hình 2.2). Nhắc lại một lần nữa, đối với người nhập môn,
điều quan trọng là theo sát biểu đồ này để biết được quan hệ giữa kiến thức lý
thuyết với bước thao tác tương ứng.
Hình 2.1
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
18
Lưu ý và
các bước

Chức
năng
Phương pháp
& công cụ
Lý thuyết
& thiết kế
Phương pháp, máy
tính & thống kê
Nguyên lý
1 2 3 4 5 6 7
Thiết
kế
Tính xác
thực & tin
cậy
Kiểm thử
tại hiện
trường
Hiệu
chỉnh dữ
liệu

hoá
Phát triển
sách mã
Nội
dung
Biến & giả thuyết
Định nghĩa và
phân loại

Xem
xét tài
liệu
Chương 7.
Chọn thiết kế
nghiên cứu
Chương 11.
Chọn mẫu
Chương 13.
Xem xét các khía cạnh đạo
đức của việc thu thập dữ
liệu
Chương 16.
Viết báo cáo
nghiên cứu
1 2 3 4 5 6 7
Chương 3. Xem
xét tài liệu
Chương 4. Thiết
lập bài toán nghiên
cứu
Chương 5. Nhận
diện các biên
Chương 6. Xây
dựng giả thuyết
Chương 8. Chọn
phương pháp thu
thập dữ liệu
Chương 9. Thu
thập bằng thang đo

ứng xử
Chương 10. Xây
dựng tính xác thực
và tin cậy của thiết
bị nghiên cứu
Chương 12. Viết
đề xuất nghiên cứu
Chương 14. Xử lý
dữ liệu
Chương 15. Biểu
hiện dữ liệu
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Hình 2.2
Bước 1. Thiết lập bài toán nghiên cứu
Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình nghiên cứu. Bài toán
nghiên cứu nhận diện mục đích nghiên cứu – ta dự kiến nghiên cứu điều gì? Dự
kiến càng rõ ràng và cụ thể thì càng tốt, vì rằng mọi việc tiếp theo của quá trình
nghiên cứu - thiết kế nghiên cứu, thủ tục đo lường, chiến lược lấy mẫu, khung
phân tích và phong cách viết đề xuất hay báo cáo - đều bị ảnh hưởng của cách
thiết lập bài toán nghiên cứu. Do vậy, ở đây cần tập trung ý tưởng cẩn thận và xác
đáng. Chương 4 sẽ xem xét chi tiết các khía cạnh khác nhau của việc thiết lập bài
toán nghiên cứu.
Điều cực kỳ quan trọng ở đây là cần phải ước lượng bài toán nghiên cứu qua
nguồn tài chánh hiện có, qũy thời gian, kiến thức và năng lực chuyên môn trong
lĩnh vực nghiên cứu của người tiến hành nghiên cứu và người giám sát việc
nghiên cứu. Cũng vậy, phải nhận diện được những thiếu hụt về kiến thức hay kỹ
năng trong các lĩnh vực liên đới – như thống kê, ứng dụng máy tính … - cần sử
dụng hay có kế hoạch sẽ sử dụng đên cho công việc phân tích, xử lý dữ liệu.
Bước 2. Quan niệm hoá thiết kế nghiên cứu
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

19
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Một đặc trưng rất quan trọng của nghiên cứu là sử dụng các phương pháp
khoa học. Nghiên cứu liên đới việc thiết lập một cách chặt chẽ, hợp lệ, dễ kiểm
soát và có tính hệ thống về mối quan hệ và tương tác nhân quả cho phép tiên đoán
chính xác các kết quả thu được trong những điều kiện nhất định. Nó cũng liên
quan đến việc nhận diện các khoảng cách về kiến thức; kiểm chứng những gì đã
biết; và chỉ ra những sai sót và hạn chế đã qua. Tính xác thực của cái mà ta tìm ra
phụ thuộc lớn lao vào cách thức ta đã tìm ra nó. Chức năng chính của thiết kế
nghiên cứu là giải thích cách thức tìm ra câu trả lời của bài toán. Thiết kế nghiên
cứu vạch ra logic của các chất vấn của bài toán. Thiết kế cần bao gồm những
điểm sau: bản thân thiết kế khảo cứu, những chuẩn bị hậu cần cần có, các thủ tục
đo lường, chiến lược lấy mẫu, khung phân tích và thang thời gian. Đối với bất kỳ
khảo cứu nào, việc chọn thiết kế nghiên cứu thích hợp cũng là cốt lõi để cho phép
rút ra được các tìm kiếm, so sánh và kết luận hợp lệ. Thiết kế có lõi sẽ gây ra các
kết quả sai lạc và vì vậy tiêu tốn tiền bạc và công sức. Trong phạm vi khoa học,
điểm mạnh của khảo cứu, thực nghiệm phần lớn được ước lượng qua thiết kế
nghiên cứu tương ứng. Khi chọn một thiết kế nghiên cứu cần đảm bảo rằng nó xác
thực, có thể dùng được và dễ quản lý.
Có rất nhiều thiết kế nghiên cứu khác nhau và ta cần phải làm quen với một
số thiết kế nghiên cứu thông dụng nhất. Chương 7 có chỉ ra một số các thiết kế
như vậy. Cần chọn hay phát triển lấy thiết kế phù hợp nhất với nghiên cứu của
mình. Cần phải có những lý do vững chắc trong việc chọn thiết kế; phải có khả
năng biện giải cho phép chọn đó và hiểu rõ ràng các điểm mạnh, điểm yếu và hạn
chế của thiết kế. Ngoài ra, cũng cần phải giải thích được các chi tiết hậu cần hỗ
trợ cho việc cài đặt thiết kế.
Bước 3. Xây dựng thiết bị để thu thập dữ liệu
Tất cả những phương tiện gì dùng thu thập thông tin cho nghiên cứu đều
được gọi là công cụ nghiên cứu hay thiết bị nghiên cứu. Thí dụ - đó là biểu mẫu
quan sát, bảng câu hỏi phỏng vấn, hướng dẫn phỏng vấn…

CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
20
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Xây dựng công cụ nghiên cứu là bước thực hành đầu tiên trong việc thực
hiện nghiên cứu. Cần phải quyết định cách thức thu thập dữ liệu và sau đó xây
dựng công cụ tương ứng. Chương 8 chi tiết hoá các phương pháp thu thập dữ liệu
khác nhau cùng với quá trình xây dựng thiết bị nghiên cứu, chương 9 xem xét các
phương pháp thu thập dữ liệu bằng thang do ứng xử, còn chương 10 xem xét tính
xác thực và tin cậy của thiết bị nghiên cứu.
Nếu tính đến việc thu thập dữ liệu đặc thù cho nghiên cứu đang xét (gọi là
dữ liệu sơ cấp), ta phải xây dựng lấy thiết bị hay chọn thiết bị có sẵn, còn nếu
dùng các dữ liệu thứ cấp (thu thập sẵn có rút từ các mục tiêu khác), cần phát triển
một biểu mẫu để rút lấy dữ liệu cần thiết.
Trong việc xây dựng thiết bị nghiên cứu, việc kiểm thử công cụ tại hiện
trường là không thể thiếu được. Cần lưu ý, kiểm thử tại hiện trường không nên
thực hiện trên tập dữ liệu mẫu của nghiên cứu mà nên tiến hành trên tập dữ liệu
đám đông tương tự.
Nếu muốn dùng máy tính để phân tích dữ liệu, trên thiết bị nghiên cứu cần
dành đủ bộ chứa để lưu trữ dữ liệu.
Bước 4. Chọn mẫu
Độ chính xác của các ước lượng phụ thuộc lớn lao và cách chọn mẫu. Mục
tiêu cơ bản của thiết kế chọn mẫu là tối thiểu hoá – trong khuôn khổ giá phí -
khoảng cách giữa các giá trị của mẫu với của tập đám đông.
Luận đề cơ sở của việc lấy mẫu là - với việc chọn khoa học một số lượng
tương đối nhỏ các đơn vị thì số lượng đó phải phản ánh - với độ tin cậy đủ cao –
khá đúng tập đám đông đang được xem xét.
Lý thuyết lấy mẫu dựa vào hai nguyên lý:
- Tránh thiên lệch trong việc chọn mẫu.
- Thu được độ chính xác tối đa ứng với tài nguyên đã tiêu hao.
Có ba kiểu thiết kế chọn mẫu:

- Thiết kế chọn mẫu ngẫu nhiên/xác suất.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
21
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Thiết kế chọn mẫu không ngẫu nhiên/xác suất.
- Thiết kế chọn mẫu hỗn hợp.
Ứng với hai kiẻu thiết kế đầu, có vài chiến lược lấy mẫu khác nhau. Cần phải
biết đươc điểm mạnh, điểm yếu của từng chiến lược và các tình huống áp dụng
ngõ hầu chọn được thiết kế phù hợp nhất. Kiểu chiến lược lấy mẫu cũng giúp xác
định khả năng tổng quát hoá từ tập mẫu lên tập đám đông và các kiểu kiểm thử
thống kê thực hiện được trên dữ liệu.
Bước 5. Viết đề xuất nghiên cứu
Qua các bước trên, đến đây công việc chuẩn bị đã xong. Giờ cần phải viết ra
kế hoạch tổng quát cho người giám sát nghiên cứu và các bên liên quan khác nắm
được các thông tin về bài toán nghiên cứu, về cách thức khảo cứu. Kế hoạch đó
được gọi là đề xuất nghiên cứu. Nói rộng ra, chức năng chính của đề xuất nghiên
cứu là chi tiết hoá kế hoạch vận hành để thu được lời giải cho bài toán nghiên
cứu. Để có thu được kết quả chính xác và khách quan cũng cần phải chứng minh
tính xác thực của phương pháp luận triển khai.
Các tổ chức khác nhau có những yêu cầu riêng về văn phong và nội dung của
đề xuất nghiên cứu nhưng hầu hết có thể chấp nhận những điểm dưới đây.
Chương 12 có các hướng dẫn làm khung cơ sở cho đề xuất nghiên cứu được chấp
nhận rộng rãi.
- Những gì cần thực hiện.
- Kế hoạch thực hiện ra sao.
- Tại sao chọn chiến lược triển khai như vậy.
Theo trên, đề xuất cũng phải có các thông tin dưới đây (xem chương 11).
- Mục tiêu nghiên cứu.
- Các giả thuyết - nếu cần phải kiểm thử chúng.
- Thiết kế nghiên cứu dự định.

- Bối cảnh nghiên cứu.
- Các thiết bị nghiên cứu định sử dụng.
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Thiết kế chọn mãu và kích cỡ mẫu.
- Các thủ tục xử lý dữ liệu.
- Dàn ý các phần trong báo cáo.
- Các vấn đề và hạn chế của nghiên cứu.
- Khung thời gian đề xuất.
Bước 6. Thu thập dữ liệu
Đến đây, tiến hành thu thập dữ liệu nhằm rút ra các kết luận của nghiên cứu.
Có nhiều phương pháp dùng thu thập dữ liệu và trong thiết kế nghiên cứu ta
đã chọn thủ tục tiến hành. Thí dụ, ta có thể bắt đầu phỏng vấn, gởi các bảng câu
hỏi, tiến hành thảo luận nhóm, quan sát… Các phương pháp này đều có liên đới
các khía cạnh đạo đức sẽ được xét ở chương 13.
Bước 7. Xử lý dữ liệu
Các phân tích dữ liệu tùy thuộc nhiều vào hai việc:
- Loại thông tin – mô tả, định lượng, định tính, ứng xử.
- Cách viết báo cáo.
Có hai kiểu báo cáo chính - định lượng và định tính. Như đã nêu trên, việc
phân biệt mang ý nghĩa học thuật nhiều hơn là ý nghĩa thực tế vì trong hầu hết
nghiên cứu, đều cần cả hai dạng kỹ năng này. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên
cứu độc về định lượng hay độc về định tính. Chương 14 trình bày các cách phân
tích dữ liệu định lượng và chương 15 cho biết chi tiết các phương pháp biểu diễn
dữ liệu đã phân tích.
Ngoài cách phân loại trên, cũng rất cần chú ý phân biệt phân tích thủ công
dữ liệu và phân tích nhờ máy tính.
Nếu nghiên cứu có tính mô tả thuần túy, báo cáo có thể dựa vào các chú giải
tại hiện trường, vào việc phân tích nội dung của các chú giải (phân tích nội dung).

Nếu cần phân tích định lượng, phải quyết dịnh loại phân tích yêu cầu (như
phân bố tần xuất, so sánh chéo bảng, hay các thủ tục thống kê như phân tích hồi
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
23
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
quy, phân tích yếu tố, phân tích độ lệch) và cách thức trình bày tương ứng. Ở đây
cũng cần chú ý các biến số thay đổi theo các thủ tục thống kê.
Bước 8. Viết báo cáo nghiên cứu
Viết báo cáo là bước cuối và trong nhiều trường hợp là bước khó nhất của
quá trình nghiên cứu. Bản báo cáo công bố những gì đã được thực hiện, những gì
đã được phát hiện và những kết luận gì rút ra từ các tìm kiếm. Một khi sáng tỏ
toàn bộ tiến trình, dễ hình dung được cách viết báo cáo. Văn phong của báo cáo
cần mang tính học thuật và nên chia thành các chương, các phần riêng biệt dựa
theo các luận đề chính của nghiên cứu. Chương 16 đề xuất vài cách viết báo cáo
nghiên cứu.
Tóm tắt chương
Chương này cho thấy quá trình nghiên cứu tổng quát gồm tám bước, chi tiết
của mỗi bước sẽ được trình bày ở các hướng tiếp theo. Ở mỗi bước có một mô
hình tương ứng cung cấp tập các phương pháp, thủ tục và kỹ thuật cho phép ta
chọn được yếu tố phù hợp nhất. Đối với người mới bắt đầu, điều quan trọng là đi
qua tất cả các bước mặc dù có thể không đúng thứ tự đã nêu. Khi đã có kinh
nghiệm, có thể rút ngắn cá bước một cách phù hợp.
Tám bước nêu trên cho thấy toàn bộ nỗ lực nghiên cứu, từ việc thiết lập bài
toán nghiên cứu cho đến viết báo cáo nghiên cứu. Về bản chất, các bước có tính
vận hành, đi theo một trật tự logic và có các chi tiết về các phương pháp và thủ
tục theo thể thức từng bước đơn giản.
Bước 1: Thiết lập bài toán nghiên cứu
Chương 3: Xem xét tài liệu
Chương 4: Thiết lập đề tài nghiên cứu
Chương 5: Nhận diện các biến

Chương 6: Xây dựng giả thuyết
CHƯƠNG 3: XEM XÉT TÀI LIỆU
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
24
VIỆN NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO KINH TẾ - TÀI CHÍNH
- Lý do xem xét tài liệu.
. Làm sáng tỏ và tập trung vào bài toán nghiên cứu.
. Cải tiến phương pháp luận.
. Mở rộng cơ sở kiến thức về lĩnh vực nghiên cứu.
- Thủ tục xem xét tài liệu:
. Tìm tài liệu hiện có.
. Phát triển khung cơ sở lý thuyết.
. Phát triển khung cơ sở khái niệm,
- Hoàn chỉnh tài liệu đã qua xem xét.
- Tóm tắt chung.
Các lý do xem xét tài liệu
Một trong những tác vụ sơ khởi cần thiết nhất của quá trình tiến hành nghiên
cứu là duyệt xét tất cả tài liệu đang có nhằm trở nên quen thuộc với lượng kiến
thức hiện hữu của lĩnh vực nghiên cứu. Mặc dù việc duyệt xét này rất tốt thời
gian, đôi khi đáng chán và bực mình, nhưng lại không thể bỏ qua được vì nó rất
có ích cho việc triển khai nghiên cứu. Việc xem xét tài liệu có ba chức năng:
1. Làm sáng tỏ và tập trung vào đề tài nghiên cứu.
2. Cải tiến phương pháp luận.
3. Mở rộng nền tảng kiến thức về lĩnh vực xem xét.
Làm sáng tỏ và tập trung vào đề tài nghiên cứu
Việc xem xét tài liệu có tính hai mặt. Một mặt, không thể nghiên cứu hiệu
dụng được nếu như không có những ý kiến về bài toán nghiên cứu. Mặt khác, các
tài liệu xem xét đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc định dạng đề tài nghiên
cứu bởi vì quá trình xem xét tài liệu giúp hiểu rõ lĩnh vực của chủ đề tốt hơn và
giúp quan niệm hoá đề tài nghiên cứu rõ ràng và chính xác hơn. Đồng thời việc

CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
25

×