Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Hợp Đồng – Nhìn Từ Góc Độ So Sánh Pháp Luật Việt Nam Với Pháp Luật Liên Minh Châu Âu.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.04 KB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***------------

LÝ TRỌNG ĐẠI
MSSV: 1253801012032

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG – NHÌN TỪ GĨC ĐỘ SO
SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI PHÁP
LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2012 – 2016

Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Lê Hoài

TP.HCM – Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan danh dự đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi
bằng sự nỗ lực và kinh nghiệm của bản thân dưới sự hướng dẫn của Thạc sỹ
Nguyễn Lê Hoài. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và
chưa được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Trong đề tài có sử dụng một số phân tích, nhận xét, đánh giá cũng như
số liệu của một số tác giả, cơ quan tổ chức khác đều được trích dẫn rõ ràng và chú
thích nguồn gốc với độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào tơi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung đề tài của mình.


Tác giả khóa luận

Lý Trọng Đại


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ........................................................................... 9
7. Kết cấu đề tài...................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG ............................................................................................ 11
1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi ............................................................ 11
1.2. Khái quát về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ............................... 15
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ............................. 15
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ......... 17
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ........ 19
1.2.4. Nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng .......... 21
1.2.5. Một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng ............................................................................................................. 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 27
CHƢƠNG 2: GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU .................................. 28

2.1. Khái quát về Quy tắc số 593/2008 của Hội đồng châu Âu ngày 17 tháng 6
năm 2008 về luật áp dụng cho nghĩa vụ theo hợp đồng (sau đây gọi tắt là Quy tắc
Rome I) ......................................................................................................................... 28


2.1.1. Phạm vi áp dụng của Quy tắc Rome I ........................................................ 28
2.1.2. Hiệu lực của Quy tắc Rome I...................................................................... 29
2.2. Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ................................... 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 44
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐỊNH
HƢỚNG HOÀN THIỆN ........................................................................................... 45
3.1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp
luật trong lĩnh vực hợp đồng ........................................................................................ 45
3.2. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 ......... 55
3.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật
trong lĩnh vực hợp đồng ................................................................................................ 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Hiện nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia và
vùng lãnh thổ, có quan hệ tín dụng tài chính với hơn 200 tổ chức quốc tế và diễn
đàn quốc tế. Trong bối cảnh đó, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng
gia tăng, nhất là các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi. Tình hình đó tất yếu sẽ
kéo theo những hậu quả làm phát sinh các vụ tranh chấp có liên quan đến hợp đồng
địi hỏi pháp luật phải kịp thời giải quyết. Khác với việc giải quyết các quan hệ hợp

đồng thông thường, việc giải quyết hợp đồng có yếu tố nước ngồi thường liên quan
đến ngun tắc chọn luật áp dụng vì nó xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật, do
một quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi sẽ chịu sự điều chỉnh của ít nhất hai
hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của các
quốc gia trên thế giới là khơng hồn tồn giống nhau xuất phát từ những đặc điểm
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội khác nhau.
Dựa trên học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trước sự phát triển khơng ngừng
của nền kinh tế địi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo để bắt kịp sự phát triển
mạnh mẽ đó. Bộ luật Dân sự 2005 – cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài đã trải qua gần 10
năm áp dụng trên thực tiễn. Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ đáng kể so với Bộ luật
Dân sự trước đó về việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, tuy
nhiên trong q trình áp dụng trên thực tiễn, Bộ luật Dân sự 2005 đã bắt đầu bộc lộ
những bất cập gây khó khăn cho việc áp dụng cũng như có nhiều quy định đã trở
nên lỗi thời khơng cịn phù hợp với thực tiễn. Trước tình hình này, tại kỳ họp thứ 8
khóa XIII năm 2014, Quốc hội đã cho ý kiến về dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự
2005. Kết quả là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2015 sau khi được Quốc hội thông
qua vào ngày 24 tháng 11 năm 2015 và chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1
năm 2017. Phân tích những quy định của Bộ luật Dân sự 2015 có thể thấy Bộ luật
Dân sự 2015 đã khắc phục được rất nhiều bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 liên

1


quan đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Tuy nhiên,
Bộ luật Dân sự 2015 vẫn còn tồn tại một số bất cập đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện
trong tương lai. Cụ thể: (i) Bộ luật Dân sự 2015 chưa quy định rõ ràng về việc áp
dụng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. (ii) Bộ luật Dân sự
2015 thiếu những quy định về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn, quy định về

quyền lựa chọn Điều ước quốc tế để áp dụng điều chỉnh hợp đồng, quy định về việc
tuân thủ quy pháp pháp luật bắt buộc.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết xung đột pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng – nhìn từ góc độ so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên
minh châu Âu”, tác giả sẽ đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 cũng như các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến việc giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Đồng thời, dưới góc độ so sánh
với pháp luật Liên minh châu Âu cũng như thực tiễn xét xử của Tòa án và Trọng tài
Việt Nam, tác giả sẽ chỉ ra những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 cùng với đó là
những đề xuất nhằm hoàn thiện những bất cập trên. Bên cạnh đó, trên cơ sở những
bất cập và định hướng hồn thiện này, tác giả sẽ so sánh với những thay đổi của Bộ
luật Dân sự 2015 để có thể đánh giá Bộ luật Dân sự 2015 đã giải quyết được những
bất cập nào, còn tồn tại những bất cập nào nhằm tiếp tục đề xuất hướng hoàn thiện
cho những bất cập cịn tồn tại trong tương lai. Do đó, với những gì mà đề tài làm
được cho thấy đây là một đề tài mang tính cấp thiết vào thời điểm hiện tại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở nước ta, vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng không phải là một đề tài mới, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài
này. Căn cứ vào tình hình nghiên cứu đề tài này, có thể chia thành hai nhóm sau:
Nhóm 1: Các cơng trình nghiên cứu về những vấn đề chung của Tư
pháp quốc tế, trong đó có quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi. Có thể kể đến
một số cơng trình nghiên cứu sau:
Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp Quốc tế Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu về các vấn đề mang tính lý luận

2


chung của Tư pháp quốc tế, chẳng hạn như khái niệm, phương pháp giải quyết xung
đột pháp luật, lẩn tránh pháp luật, bảo lưu trật tự công cộng. Bên cạnh đó, cơng

trình nghiên cứu này cịn đi sâu phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về một
số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi như quan hệ hơn nhân gia đình, hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ tài sản. Trong quá trình phân tích,
tác giả cũng nêu lên những hạn chế của pháp luật Việt Nam dưới góc độ so sánh với
pháp luật nước ngồi và q trình áp dụng pháp luật trên thực tiễn, đồng thời đề
xuất định hướng hoàn thiện những bất cập trên.
Đỗ Văn Đại (2013), “Quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (2). Cơng trình nghiên cứu đã nêu lên thực trạng ghi
nhận quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, phân tích những
mặt tích cực và hạn chế của quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế, so
sánh quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam và pháp luật một số
nước. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất pháp luật Việt Nam nên mở rộng quyền lựa
chọn pháp luật trong nhiều quan hệ dân sự khác như quan hệ thừa kế, quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ sở hữu tài sản và cả quan hệ hơn nhân gia
đình có yếu tố nước ngồi.
Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học quốc gia
TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. Cơng trình nghiên cứu này có thể chia làm hai
nội dung chính. (i) Nghiên cứu về các vấn đề lý luận chung của Tư pháp quốc tế
như khái niệm, đối tượng điều chỉnh, nguồn luật điều chỉnh, các vấn đề về xung đột
pháp luật…; (ii) Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết
xung đột pháp luật trong một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi như hợp đồng,
hơn nhân gia đình, thừa kế, sở hữu trí tuệ, lao động, bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng…
Trần Minh Ngọc (2015), “Góp phần hồn thiện Phần 5 Bộ luật Dân sự
(sửa đổi) về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi”, Tạp
chí Luật học, (3). Cơng trình nghiên cứu đã phân tích những điểm mới của Dự thảo
Bộ luật Dân sự 2015 về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước

3



ngồi như khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nguyên tắc giải quyết
xung đột pháp luật đối với một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy
định trong Dự thảo của Bộ luật Dân sự 2015, đồng thời nêu lên những bất cập trong
quy định mới của Dự thảo cùng với đó là đề xuất hoàn thiện những bất cập này.
Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận
chọn pháp luật áp dụng của các bên trong Tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, (19). Cơng trình nghiên cứu tập trung phân tích, đánh giá
những quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn ở
khía cạnh hình thức và thời điểm chọn luật của các bên. Các tác giả đã nêu lên được
bất cập của pháp luật Việt Nam trong việc quy định hình thức và thời điểm thỏa
thuận chọn luật dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu. Qua đó, nêu
lên định hướng hoàn thiện cho những bất cập này.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu trên, cịn có khá nhiều cơng
trình nghiên cứu khác có nội dung tương tự. Tuy nhiên, điểm chung của hầu hết các
cơng trình này là nó thiên về nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận chung
trong lĩnh vực xung đột pháp luật, việc phân tích chuyên sâu về xung đột pháp luật
trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam mà chủ yếu là Bộ luật Dân sự
2005 dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu cũng như đánh giá
những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 thì các cơng trình này chưa giải quyết
được vấn đề đó.
Nhóm 2: Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề giải quyết xung đột
pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau:
Nguyễn Lê Hoài (2015), Hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế
Việt Nam về hợp đồng – Kinh nghiệm từ pháp luật của một số nước, Luận văn thạc
sĩ. Cơng trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 cũng như một số văn bản pháp luật chuyên ngành về giải quyết xung
đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới để đưa ra định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về hợp đồng có yếu tố nước ngồi. Điểm nổi bật của cơng trình nghiên


4


cứu này là việc tác giả đã phân tích, đánh giá được những điểm mới của Dự thảo Bộ
luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng.
Bành Quốc Tuấn (2012), “Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận chọn
luật áp dụng cho hợp đồng yếu tố nước ngồi”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (121,
122). Cơng trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự
2005 về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngồi ở
một số nội dung như hình thức và thời điểm chọn luật, quyền chọn luật điều chỉnh
một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, quyền lựa chọn Điều ước quốc tế, tập quán quốc
tế…. Dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, tác giả đã nêu lên
những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về các nội dung trên cùng với
đó là định hướng hồn thiện cho những bất cập này. Tuy nhiên, cơng trình nghiên
cứu này chỉ dừng lại ở việc đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ở khía cạnh quyền thỏa thuận
chọn luật.
Bùi Thị Thu (2015), “Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết
nhất” trong quan hệ hợp đồng”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (8/2015). Cơng trình
nghiên cứu đã có cái nhìn tổng quan về nguồn gốc, cách thức áp dụng và hướng dẫn
việc xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng trên cơ sở phân tích và
đánh giá ngun tắc dưới góc độ phân tích pháp luật Liên minh châu Âu. Trên cơ sở
đó, tác giả đề xuất pháp luật Việt Nam cần ghi nhận nguyên tắc này trong việc giải
quyết xung đột pháp luật trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên nguyên tắc luật có mối
quan hệ mật thiết với hợp đồng chỉ là một trong số rất nhiều nguyên tắc giải quyết
xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Nguyễn Thị Hồng Trinh (2010), “Nguyên tắc tự do chọn luật cho hợp
đồng từ Công ước Rome 1980 đến Quy tắc Rome I 2008 và nhìn về Việt Nam”, Tạp

chí nghiên cứu lập pháp, (6) và Bùi Thị Thu (2013), “Thống nhất hóa nguyên tắc
chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hồn thiện cho
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí luật học, (10). Điểm chung của hai cơng trình nghiên

5


cứu này là việc tác giả đã phân tích chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên
minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Trên cơ sở
đó, so sánh với quy định của Bộ luật Dân sự 2005 để nêu lên những bất cập của Bộ
luật này, đồng thời kiến nghị hoàn thiện những quy định của Bộ luật Dân sự 2005.
Lê Thị Nam Giang, Nguyễn Lê Hoài (2013), “Từ kinh nghiệm của pháp
luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 Bộ luật dân sự 2005”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, (12) và Lê Thị Nam Giang, Trần Ngọc Hà (2014), “Từ kinh nghiệm của
pháp luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 Bộ luật dân sự 2005”, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, (1). Đây là hai cơng trình nghiên cứu một cách tổng quan và
chuyên sâu quy định của Điều 769 Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp
luật trong lĩnh vực hợp đồng dưới góc độ so sánh với pháp luật của một số hệ thống
pháp luật phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu….Trên cơ
sở đó, tác giả đã nêu lên thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hồn thiện.
Như vậy, có thể thấy rằng các cơng trình trên đây chủ yếu nghiên cứu
vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2005. Việc phân tích chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên
minh châu Âu cũng như việc đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, đề
xuất hướng hoàn thiện cho Bộ luật Dân sự 2015 trong tương lai thì gần như chưa có
cơng trình nghiên cứu nào làm được điều này. Trong khi đó, với đề tài này, bên
cạnh việc phân tích quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về việc giải quyết xung đột
pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, tác giả đã phân tích, đánh giá một cách tổng thể
và chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên minh châu Âu làm cơ sở cho việc

so sánh pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích, đánh giá những
điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 đồng thời chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong
Bộ luật Dân sự 2015 và tiếp tục đề xuất hướng hoàn thiện những bất cập này trong
tương lai. Đây chính là một hướng tiếp cận hoàn toàn mới liên quan đến vấn đề giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng của đề tài này so với các cơng
trình nghiên cứu trước đây.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: (i) phân tích, đánh giá
thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng; (ii) so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên
minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (iii) đánh
giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (iv) định hướng hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trong tương
lai.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, cần phải thực hiện những nhiệm vụ
sau nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra:
Thứ nhất, tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về xung đột pháp luật
trong lĩnh vực hợp đồng như khái niệm, nguyên nhân phát sinh, phương pháp giải
quyết, nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực đồng…
Thứ hai, tìm hiểu các quy định về nguyên tắc giải quyết xung đột
pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu, theo Bộ luật
Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Thứ ba, so sánh nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh
vực hợp đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu.
Thứ tư, dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu nêu lên

những bất cập của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng, đồng thời đưa ra định hướng hoàn thiện những bất cập đó.
Thứ năm, đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 dưới
góc độ hồn thiện những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005, tiếp tục đề ra định hướng
hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 trong tương lai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi và ngun tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu. Đề tài nghiên cứu các vấn đề

7


lý luận và thực tiễn về giải quyết xung đột trong lĩnh vực hợp đồng, so sánh với
pháp luật Liên minh châu Âu để chỉ ra những bất cập về giải quyết xung đột pháp
luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những
định hướng góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong lĩnh vực hợp đồng, xung đột
pháp luật có thể xảy ra ở rất nhiều khía cạnh như tư cách pháp lý của chủ thể, hình
thức hợp đồng, nội dung hợp đồng…Tuy nhiên, trong đề tài này, chỉ giới hạn
nghiên cứu xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng trên cơ sở phân tích các quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 và pháp luật Liên minh châu Âu cũng như những
thay đổi trong Bộ luật Dân sự 2015 cùng với các văn bản pháp luật chun ngành
có liên quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong q trình nghiên cứu, để có thể đưa ra được những nhận định,
kết quả đúng đắn mang tính khoa học địi hỏi phải kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh
– đối chiếu, phương pháp nghiên cứu lịch sử…để giải quyết những vấn đề mà đề tài
đặt ra. Các phương pháp được vận dụng linh hoạt, phù hợp với từng vấn đề cần giải

quyết. Cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: phương pháp này được sử
dụng một cách xuyên suốt trong đề tài nhằm phân tích các quy định của pháp luật
Việt Nam cũng như pháp luật Liên minh châu Âu liên quan đến vấn đề xung đột
pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Từ những phân tích đó, tác giả sẽ tổng hợp lại để
đưa ra kết luận chung cho từng vấn đề được đặt ra.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: đây là phương pháp được sử dụng
nhiều nhất trong chương 3 của đề tài nhằm mục đích so sánh pháp luật Việt Nam và
pháp luật Liên minh châu Âu về nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh
vực hợp đồng, song song đó là việc đối chiếu những thay đổi của Bộ luật Dân sự
2015 với những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 nhằm tiếp tục đề xuất định hướng

8


hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 với những bất cập còn tồn tại mà Bộ luật Dân sự
2015 chưa giải quyết hoặc có giải quyết nhưng chưa triệt để.
Phương pháp thực tiễn: phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở
chương 2 và chương 3 nhằm mục đích phân tích, tổng hợp kinh nghiệm xét xử của
Tịa án, Trọng tài thông qua các án lệ để chứng minh cho những vấn đề mang tính
lý luận. Đồng thời từ việc phân tích, tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn để làm rõ
những bất cập, lỗi thời của các quy định pháp luật khi áp dụng trên thực tế, từ đó
đưa ra những đề xuất hoàn thiện hợp lý, hiệu quả và mang tính ứng dụng cao.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần vào cơng tác hồn thiện, củng cố
vững chắc cơ sở lý luận cho những quy định của pháp luật trong việc giải quyết
xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Đồng thời đây là cũng có thể là một
cơng trình nghiên cứu có thể giúp ích cho cơng tác giảng dạy, nghiên cứu Tư pháp
quốc tế trong bối cảnh Bộ luật Dân sự 2015 sắp có hiệu lực với nhiều thay đổi đáng
kể so với Bộ luật Dân sự 2005.

Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đã chỉ ra được những bất cập trong quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 về việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng trên cơ sở so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu. Căn cứ vào những định
hướng hoàn thiện cho Bộ luật Dân sự 2005, tác giả đã so sánh, đối chiếu với những
quy định của Bộ luật Dân sự 2015 nhằm đánh giá q trình hồn thiện của Bộ luật
Dân sự 2015 song song đó là việc tiếp tục đề xuất những định hướng hoàn thiện Bộ
luật Dân sự 2015 trong tương lai về những bất cập trong Bộ luật Dân sự 2005 mà
Bộ luật Dân sự 2015 chưa đề cập giải quyết hoặc có giải quyết nhưng chưa triệt để.
Điều này có ý nghĩa hết sức thiết thực cho công tác lập pháp cũng như áp dụng pháp
luật trên thực tế, góp phần hồn thiện và phát triển Bộ luật Dân sự Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

9


7. Kết cấu đề tài.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng
Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
theo pháp luật Liên minh châu Âu
Chương 3: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực
hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện

10


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG.
1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài.

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.1 Khi có yếu tố nước ngoài, hợp đồng trở thành
đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với những đặc thù riêng của nó. Tuy
nhiên hiện nay chưa có quy định nào thể hiện khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngồi một cách trực tiếp cũng như vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái
niệm này2. Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng là một quan hệ dân sự, vì
vậy có thể định nghĩa hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi thơng qua định nghĩa
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Theo đó, Điều 758 Bộ luật Dân sự số
33/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định: “Quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là
cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc
là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng
căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”. So với
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm 2005 (BLDS
2005), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 24/11/2015 (BLDS 2015) có nhiều thay đổi về cách thức quy
định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Một điểm mới
của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là việc BLDS 2015 đã lược bỏ chủ thể người
Việt Nam định cư ở nước ngồi, khơng xem đây là một chủ thể để xác định yếu tố
nước ngoài trong các quan hệ dân sự. Sự lược bỏ này có thể xem là hợp lý, nó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định tư cách tố tụng của loại chủ thể này đồng
1

Điều 388 BLDS 2005.
Trường ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần riêng), NXB Hồng Đức, Hà
Nội, tr.71.


2

11


thời khắc phục những bất cập trong quá trình áp dụng quy định này trên thực tế khi
mà khái niệm “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” chưa được định nghĩa một
cách cụ thể và đơn nghĩa ở bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào, thậm chí về mặt
nội hàm của thuật ngữ này cũng khơng hồn toàn giống nhau trong cách thức quy
định của Luật Quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12 của Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 13/11/20083 và Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2006 Quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 4 dẫn đến tư cách pháp lý
của chủ thể này chưa được xác định rõ ràng trong các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi5. Bên cạnh đó, sự thay đổi này là phù hợp với chính sách của Nhà nước
ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới, cụ thể chính sách này
khẳng định người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận không tách rời và là một
nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện thuận
lợi để chủ thể này tham gia các quan hệ pháp luật trong nước, đồng thời tôn trọng
pháp luật của quốc gia nước sở tại, dành cho chủ thể này những quyền lợi như một
công dân trong nước6. Do đó, nếu họ tham gia quan hệ hợp đồng với tư cách là cơng
dân Việt Nam thì hợp đồng này khơng được xem là hợp đồng có yếu tố nước ngoài
nhưng nếu họ tham gia với tư cách là công dân của quốc gia mà họ định cư thì hợp
đồng này được xem là hợp đồng có yếu tố nước ngồi theo trường hợp có một bên
chủ thể là cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, một điểm mới khác về yếu tố chủ thể của
BLDS 2015 so với BLDS 2005 là BLDS 2015 đã thay thế chủ thể cơ quan, tổ chức
nước ngoài bằng pháp nhân nước ngồi. Sự thay đổi này đã tạo ra được tính nhất
quán trong việc sử dụng thuật ngữ cho toàn BLDS 2015. Khơng những thế nó cịn
thống nhất với quy định của pháp luật các nước trên thế giới về chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng. Đồng thời, sự thay đổi này giúp cho việc xác định luật áp dụng

3

Xem khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008.
Xem khoản 3 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP.
5
Vũ Thị Phương Lan (2014), “Phương hướng hoàn thiện quy định về phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi tại Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005”, Tạp chí Luật học, (4), tr.39
6
Xem Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về Cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày
26/3/2004.

4

12


cho các hợp đồng có yếu tố nước ngồi trở nên dễ dàng và chính xác hơn so với
khái niệm cơ quan, tổ chức khi áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của pháp nhân.
Thứ hai, tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi. Có thể nhận
thấy đây là một hạn chế của BLDS 2005, khi mà trên thực tế đối tượng của hợp
đồng có thể là tài sản, công việc trong hợp đồng dịch vụ, con người trong hợp
đồng bảo hiểm…Trong khi đó, BLDS 2005 đã giới hạn đối tượng của quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài chỉ là tài sản liên quan đến quan hệ nằm ở nước ngoài.
Việc giới hạn này đã gián tiếp loại bỏ những quan hệ dân sự mà đối tượng của nó
khơng phải là tài sản. Khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 đã sử dụng cụm từ “đối
tượng của quan hệ” thay cho cụm từ “tài sản liên quan đến quan hệ” trong BLDS
2005. Đối tượng của quan hệ dân sự sẽ có nghĩa rộng hơn rất nhiều so với tài sản
liên quan đến quan hệ. Sự điều chỉnh này được xem là hợp lý trong bối cảnh ở
nước ta ngày càng có nhiều hơn những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi mà
đối tượng của nó khơng đơn thuần chỉ là tài sản mà có thể là cơng việc, con người

hay thậm chí là trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngồi. Yếu tố này có thể hiểu chỉ cần một trong
các sự kiện pháp lý liên quan đến quan hệ dân sự được điều chỉnh bởi luật nước
ngồi hoặc phát sinh ở nước ngồi thì quan hệ dân sự đó được xác định là có yếu tố
nước ngồi. Tuy nhiên, quy định này lại có một hạn chế là nó mang tính trùng lặp,
thiếu logic. Bởi lẽ, việc các bên tham gia quan hệ dân sự đều là cá nhân, cơ quan, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ này theo pháp
luật nước ngoài như vậy đồng nghĩa với việc các căn cứ này xảy ra ở nước ngồi
hay phát sinh ở nước ngồi thì pháp luật nước ngồi mới có thể được áp dụng để
điều chỉnh. Khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 quy định căn cứ xác lập, thay đổi,
thực hiện và chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài. Như vậy, bên cạnh căn cứ xác
lập, thay đổi và chấm dứt quan hệ, BLDS 2015 đã bổ sung thêm yếu tố thực hiện
quan hệ đồng thời thay cụm từ “theo pháp luật nước ngoài, phát sinh ở nước ngoài”
bằng cụm từ “xảy ra ở nước ngồi”. Cụm từ này mang tính bao hàm cả hai vấn đề

13


được quy định trong BLDS 2005. Do đó, theo quan điểm tác giả đây là một sự thay
đổi hợp lý và rất hay của BLDS 2015.
Trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành của nước ta cũng có
những khái niệm tương tự về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Chẳng hạn, theo quy
định tại khoản 2 Điều 5 Bộ Luật Hàng hải số 95/2015/QH13 của Quốc hội nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 25/11/2015 thì một hợp đồng được xác
định là có yếu tố nước ngồi khi có ít nhất một bên chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài. Tại khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2014 cũng có cách xác định tương
tự. Như vậy, điểm chung của hai văn bản này là đều dựa vào đặc điểm chủ thể để
xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng. Trong khi đó, theo quy định của Luật

Thương mại số 36/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 14/6/2005, hoạt động mua bán hàng hố được coi là mua bán hàng hố
quốc tế khơng phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch của các bên là Việt
Nam hay nước ngoài. Luật Thương mại 2005 lấy tiêu chí vận chuyển hàng hố qua
biên giới để xác định quan hệ mua bán hàng hoá là mua bán hàng hoá quốc tế7. Như
vậy, phạm vi xác định yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật thương mại 2005
là hẹp hơn rất nhiều so với BLDS 2005.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt gia nhập Công
ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc
(CISG). Theo đó, Cơng ước này cũng có một quy định gián tiếp về khái niệm hợp
đồng có yếu tố nước ngồi, cụ thể Điều 1 Cơng ước quy định: “Cơng ước này áp
dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở
thương mại tại các quốc gia khác nhau”. Như vậy, theo quy định tại Điều 1 CISG
thì yếu tố quốc tế của hợp đồng được xác định bởi một căn cứ duy nhất là trụ sở
thương mại của các bên phải đặt tại các quốc gia khác nhau mà không phụ thuộc
vào địa điểm kí kết hợp đồng và cũng khơng xét đến việc hàng hố có được dịch
chuyển qua biên giới hay khơng. Do đó, với tư cách là thành viên của Cơng ước địi
7

Đỗ Minh Ánh (2011), “Vấn đề sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật Thương mại để gia
nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Tạp chí Luật học, (9), tr. 4.

14


hỏi Luật Thương mại năm 2005 cần phải có sự điều chỉnh về khái niệm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế cho phù hợp với quy định của Công ước nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực thi Cơng ước trên thực tế.
Xuất phát từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm hợp đồng
có yếu tố nước ngồi như sau: “Hợp đồng có yếu tố nước ngồi là hợp đồng có ít

nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc là hợp
đồng giữa các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân Việt Nam nhưng căn cứ để xác
lập, thay đổi, thực hiện, chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài hoặc đối tượng
của hợp đồng nằm ở nước ngoài”.
1.2. Khái quát về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Như đã phân tích, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi phải có một
trong ba đặc điểm sau: chủ thể phải có ít nhất một bên là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài, đối tượng của quan hệ nằm ở nước ngoài và căn cứ xác lập, thực hiện, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi không chỉ được điều chỉnh bởi pháp luật của
một quốc gia mà sẽ có ít nhất hai hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ dân sự
đó. Khó khăn đặt ra ở đây là khi một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh
thì hầu như tất cả các quốc gia có liên quan đến quan hệ đó đều có thẩm quyền xét
xử trừ một số trường hợp pháp luật quốc gia đó quy định họ khơng có thẩm quyền
và quốc gia nào cũng muốn được áp dụng pháp luật của họ để giải quyết quan hệ đó
nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích cho cơng dân của quốc gia mình.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau là khơng hồn tồn giống
nhau, cùng một vấn đề nhưng pháp luật của mỗi quốc gia sẽ có cách điều chỉnh
khác nhau xuất phát từ mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Do
đó địi hỏi cơ quan xét xử phải lựa chọn một hệ thống pháp luật phù hợp nhất nhằm
giải quyết quan hệ dân sự đó.
Như vậy, hiện tượng mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau
cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

15


được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật8. Từ đó, có thể suy ra khái niệm xung
đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngồi như sau: Xung đột pháp luật về hợp

đồng có yếu tố nước ngoài là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một hợp đồng có yếu tố nước ngồi.
Trong quan hệ hợp đồng thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp
quốc tế thường sẽ xảy ra xung đột pháp luật ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, xung đột pháp luật về tư cách pháp lý của chủ thể tham gia
kí kết hợp đồng. Trong BLDS 2005, tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng
được thể hiện ở chỗ chủ thể tham gia ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi dân
sự. Theo đó, người tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự nếu
khơng giao dịch dân sự đó sẽ vơ hiệu9. Theo đó, sẽ có ít nhất hai hệ thống pháp luật
có thể cùng được áp dụng để điều chỉnh vấn đề tư cách pháp lý của các chủ thể, đó
là pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia mà các chủ thể nước ngoài này
mang quốc tịch. Ví dụ: Ơng A (20 tuổi) là người Việt Nam ký kết hợp đồng mua
bán hàng hóa với ông B (17 tuổi) là người bang North Carolina của Mỹ. Theo đó,
nếu căn cứ theo pháp luật Việt Nam thì ơng B là người chưa có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ10 dẫn đến hợp đồng trên sẽ vô hiệu. Tuy nhiên nếu căn cứ vào pháp
luật của bang North Carolina thì ơng B là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
vì theo quy định của pháp luật bang North Carolina thì người từ đủ 16 tuổi trở lên là
người thành niên hay người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Như vậy rõ ràng
cùng một vấn đề pháp lý nhưng mỗi quốc gia sẽ có cách quy định khác nhau và
chính điều này đã dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật.
Thứ hai, xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng. Nhìn chung Bộ
luật dân sự của một số nước trên thế giới cũng ghi nhận những hình thức của hợp
đồng tương tự như pháp luật Việt Nam. Chẳng hạn, theo quy định của Bộ luật dân
sự Pháp thì hợp đồng dân sự có thể được thể hiện dưới dạng lời nói, hành vi pháp

8

Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB ĐHQG TP.Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh, tr.108.
Xem thêm Điều 122 và Điều 127 BLDS 2005.
10

Xem Điều 18 và Điều 19 BLDS 2005.
9

16


lý, hoặc bằng văn bản11. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau trong việc quy
định hình thức nào sẽ được áp dụng cho một loại hợp đồng cụ thể, xung đột pháp
luật về hình thức hợp đồng xuất phát từ chính sự khác nhau này. Ví dụ: Ông A
(quốc tịch Việt Nam) kí kết hợp đồng mua bán xe hơi với ơng B (quốc tịch Pháp)
hình thức của hợp đồng này là bằng văn bản, khơng có công chứng, chứng thực.
Nếu căn cứ theo pháp luật Việt Nam thì hình thức của hợp đồng này là hồn toàn
đúng pháp luật, tuy nhiên nếu căn cứ theo pháp luật Pháp thì hợp đồng này lại
khơng tn thủ về hình thức vì theo pháp luật Pháp thì các hợp đồng mua bán phải
lập thành văn bản có cơng chứng, chứng thực12.
Thứ ba, xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng. Đối chiếu những
quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật về hợp đồng của một số quốc gia
trên thế giới có thể nhận thấy rằng, cách thức quy định về nội dung hợp đồng của
các nước là khá tương đồng với nhau. Tuy nhiên điểm khác biệt để dẫn đến hiện
tượng xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng chính là ở nội dung của các điều
khoản trong hợp đồng. Chẳng hạn, pháp luật Hoa Kỳ cho phép các bên được mua
bán vũ khí, trong khi đó vũ khí lại là đối tượng bị cấm giao dịch theo pháp luật Việt
Nam. Như vậy, nếu pháp luật Hoa Kỳ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này thì
hợp đồng này hồn tồn đúng pháp luật nhưng nếu pháp luật Việt Nam được áp
dụng để điều chỉnh hợp đồng này thì nó lại vơ hiệu.
Ngồi ba vấn đề thường xảy ra xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng trên, thì vẫn cịn một số vấn đề khác chẳng hạn giao kết hợp đồng vắng mặt,
chuyển quyền sở hữu, chuyển rủi ro… Tuy nhiên trong giới hạn của khóa luận này,
chỉ tập trung nghiên cứu xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng.
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp

đồng.
Xuất phát từ khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng,
có thể nhận thấy xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng phát sinh từ hai
nguyên nhân chính sau đây:
11
12

Xem Điều 1582, Điều 1714 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804
Xem Điều 1582 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804

17


Thứ nhất, có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp
dụng để điều chỉnh hợp đồng. Nguyên nhân này bắt nguồn từ bản chất của quan hệ
hợp đồng trong Tư pháp quốc tế là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Khác với
các quan hệ hành chính, hình sự, quan hệ dân sự là một quan hệ mang tính chất
“tư”, đề cao sự tự do thỏa thuận của các bên, do đó nó có thể được áp dụng bởi
nhiều quy phạm pháp luật “tư”, kèm theo đó là yếu tố nước ngồi dẫn đến việc một
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi sẽ liên quan đến những quy phạm pháp luật
“tư” không phải của một quốc gia, mà nó có thể được điều chỉnh bởi quy phạm
pháp luật “tư” của nhiều quốc gia trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi đó, tuy
nhiên pháp luật của các nước khác nhau là khơng hồn tồn giống nhau chính điều
này đã dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật13. Bên cạnh đó, ngun nhân này cịn
xuất phát từ ngun tắc bình đẳng, chủ quyền giữa các quốc gia. Theo đó, khi một
quan hệ hợp đồng phát sinh có liên quan đến nhiều quốc gia chẳng hạn, hợp đồng
được giao kết ở Anh, thực hiện ở Việt Nam nhưng đối tượng của hợp đồng là bất
động sản lại nằm ở Pháp thì về mặt lý luận, các quốc gia trên đều có thẩm quyền
giải quyết trừ trường hợp pháp luật quốc gia quy định hợp đồng này khơng thuộc
thẩm quyền của mình. Do đó, trên cơ sở tơn trọng, bình đẳng chủ quyền giữa các

quốc gia thì quan hệ hợp đồng sẽ có thể chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật
của các quốc gia có liên quan.
Thứ hai, có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật cùng có thể được
áp dụng khi giải quyết cùng một vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng. Hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội... chính những yếu tố này sẽ tạo ra tính đặc trưng của pháp luật mỗi
quốc gia. Do đó mặc dù về mặt lý luận, pháp luật là kiến trúc thượng tầng của xã
hội có giai cấp, được xây dựng trên cơ sở hạ tầng nhưng do chịu sự ảnh hưởng và
chi phối của các quy phạm đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán … mà các nước có

13

Trường ĐH Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà Nội,
tr.105.

18


cùng chế độ kinh tế, chính trị, xã hội nhưng pháp luật thì khơng giống nhau14. Chính
sự khác nhau này mà trong cùng một vấn đề pháp lý nhưng pháp luật của mỗi nước
lại có cách quy định khác nhau làm xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật.
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng.
Trong khoa học tư pháp quốc tế hiện nay có hai phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật đó là phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực
chất và phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột.
Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất. Theo phương
pháp này, các quy phạm thực chất trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các bên cũng như các hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với
bên đương sự vi phạm mà không cần bất cứ một sự dẫn chiếu nào của quy phạm

xung đột15. Quy phạm thực chất có thể được tìm thấy trong các Điều ước quốc tế,
nó giữ vai trị hết sức quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật 16. Chẳng
hạn theo quy định tại Điều 68 Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì “Người mua nhận rủi ro về mình đối với những
hàng hóa bán trên đường vận chuyển kể từ lúc hàng hóa được giao cho người
chuyên chở là người đã phát chứng từ xác nhận một hợp đồng vận chuyển. Tuy
nhiên, nếu vào lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán đã biết hoặc đáng lẽ phải
biết sự kiện hàng hóa đã bị mất mát hay hư hỏng và đã không thông báo cho người
mua về điều đó thì việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa do người bán phải gánh
chịu”. Như vậy với quy định này đã trả lời cho câu hỏi sau khi hàng hóa được giao
cho người chuyên chở đối với những hàng hóa trên đường vận chuyển nếu xảy ra
rủi ro thì ai sẽ phải chịu rủi ro này mà không cần phải đi tìm pháp luật của nước nào
để điều chỉnh vấn đề này thông qua quy phạm xung đột. Nếu đặt lên bàn cân giữa

14

Trường ĐH Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr.
107.
15
Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp quốc tế Việt Nam, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ
Chí Minh, tr. 96
16
Trường ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà
Nội, tr. 110.

19


quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi so với các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi khác như lao động, hơn nhân gia đình, sở hữu trí tuệ hay thừa kế thì có thể

nói rằng quan hệ hợp đồng là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi ít phát sinh xung
đột pháp luật nhất, điều này xuất phát từ bản chất của hợp đồng chính là sự thỏa
thuận, sự tự do ý chí của các bên, ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính trị, xã hội
và đây là một quan hệ dân sự thông dụng và thường xuyên xảy ra nhất trong bối
cảnh hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế như hiện nay. Chính vì lẽ đó, các quốc gia
trên thế giới có xu hướng thỏa thuận với nhau để kí kết các Điều ước quốc tế nhằm
điều chỉnh thống nhất các vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng, điều này đã làm
hạn chế đi rất nhiều các xung đột pháp luật phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng.
Phương pháp xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột. Phương
pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà chỉ quy định việc chọn pháp luật nước ngoài để điều chỉnh các
vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngồi. Quy phạm xung đột
có thể được tìm thấy trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như trong các văn
bản pháp luật của quốc gia. Chẳng hạn, Điều 34 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt
Nam – Liên bang Nga có quy định: “Hình thức hợp đồng về bất động sản tuân theo
pháp luật của Bên ký kết nơi có bất động sản đó”. Như vậy nếu căn cứ theo quy
định này thì sẽ khơng biết được hình thức hợp đồng sẽ là hình thức nào văn bản, lời
nói hay hành vi cụ thể mà chỉ có thể biết được hình thức hợp đồng phải tuân theo
pháp luật của nước nơi có bất động sản; ví dụ ơng A (quốc tịch Việt Nam) và ơng B
(quốc tịch Nga) kí kết với nhau hợp đồng mua bán nhà và căn nhà này nằm ở Nga,
căn cứ theo quy định trên thì hình thức hợp đồng này sẽ phải tuân theo quy định của
pháp luật Nga về hình thức hợp đồng. Tương tự trong pháp luật quốc gia, quy phạm
xung đột tồn tại trong rất nhiều các văn bản pháp luật chuyên ngành của Việt Nam
như Bộ luật Hàng hải, Luật Đầu tư, Luật Hàng không dân dụng… nhưng quan trọng
nhất vẫn là Bộ luật Dân sự. Quy phạm xung đột được quy định trong BLDS 2005 từ
Điều 761 đến Điều 773 nhằm giải quyết các vấn đề như năng lực pháp luật của cá
nhân, pháp nhân nước ngoài, quyền sở hữu tài sản, thừa kế, hợp đồng …Ví dụ Điều

20



769 BLDS 2005 quy định “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác
định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu khơng có thỏa thuận
khác”. Mặc dù đây là một phương pháp khá phổ biến tuy nhiên trên thực tiễn khi
bình luận về phương pháp này, một số luật gia cho rằng nó quá phức tạp, phải chọn
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau và đặc biệt lại càng phức tạp hơn trong trường
hợp có sự dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật nước khác, thêm vào đó áp dụng
quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật trong một số trường hợp khơng
đảm bảo được tính đa dạng và đặc thù của quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố
nước ngồi17.
Bên cạnh hai phương pháp trên, trong một số tài liệu liên quan đến
vấn đề xung đột pháp luật, các tác giả còn đưa ra một số phương pháp khác như
chuẩn hóa luật thực chất, áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng quy phạm bắt
buộc…18. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm khác nhau do đó để giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, tùy từng trường hợp cụ thể mà áp
dụng các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật cho phù hợp.
1.2.4. Nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp
đồng.
Trong quan hệ hợp đồng nói chung, hợp đồng có yếu tố nước ngồi
nói riêng, sự tự do thỏa thuận của các bên luôn được đặt lên vị trí hàng đầu đặc biệt
là trong vấn đề chọn pháp luật để áp dụng điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan
đến hợp đồng. Chính điều này dẫn đến việc sẽ có nhiều nguồn luật có thể được áp
dụng để điều chỉnh hợp đồng, đó có thể là pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế hay
tập quán quốc tế... Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Điều ước quốc tế. Để giải quyết xung đột pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng, các quốc gia đã tiến hành thỏa thuận và ký kết nhiều Điều ước
quốc tế nhằm điều chỉnh một cách thống nhất các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp
đồng; đó có thể là các quy phạm thực chất thống nhất hoặc cũng có thể là các quy
17


Trường ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà
Nội, tr.112
18
Trường ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà
Nội, tr. 114 – 116.

21


×