Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

(Skkn 2023) biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy đọc cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.66 KB, 25 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ DẠY ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 2

Lĩnh vực
: Tiếng Việt
Cấp học
: Tiểu học
Tên Tác giả
: Lê Diệu Linh
Đơn vị công tác: Tiểu học Ngũ Hiệp
Chức vụ
: Giáo viên

NĂM HỌC: 2021 – 2022


STT
1
2
6
7
8

9
10
11


12
13
14
15
17

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
Mở đầu
Nội dung
Biện pháp giải quyết
Biện pháp thứ nhất:Kiểm tra, khảo sát thực trạng của học
sinh và phân loại.
Biện pháp thứ hai: Nghiên cứu bài dạy, soạn giáo án hay
để tạo khơng khí sơi nổi trong giờ học và tạo sự u
thích mơn học.
Biện pháp thứ ba: Chuẩn bị đồ dùng dạy học giúp học
sinh ghi nhớ được bài tốt hơn.
Biện pháp thứ tư: Luyện đọc bài trước khi lên lớp để có
bài đọc mẫu chuẩn.
Biện pháp thứ năm: Biện pháp sửa ngọng dấu hỏi (?) dấu
ngã (~), sửa ngọng chữ l-n
Biện pháp thứ 6: Hướng dẫn cách nghỉ hơi khi đọc và
cách đọc liền mạch.
Biện pháp thứ bảy: Dạy học theo hướng phát triển năng
lực học sinh
Biện pháp thứ tám: Kết hợp với phụ huynh rèn đọc thêm
ở nhà
Biện pháp thứ chín: : Nâng cao hiệu quả dạy – học đọc
hiểu phân môn Đọc lớp 2.

Kết luận và khuyến nghị

TRANG
1,2
3
7
7
8

11
11
12
13
16
16
17
21


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học
đọc và học viết. Biết đọc, biết viết cả một thế giới mở ra trước mắt các em với
bao điều lý thú. Đó là quê hương, đất nước, người thân, gia đình, bạn bè, vạn vật
xung quanh. Nhiều điều mà qua các bài đọc đã góp phần nâng cao nhận thức về
tự nhiên, xã hội, nâng cao năng lực thẩm mỹ cho các em. Từ đó, các em thêm
yêu thiên nhiên, u gia đình, bạn bè…đồng thời góp phần khơng nhỏ trong việc
sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và học tập.
Đọc là một trong bốn kỹ năng cơ bản “nghe, nói, đọc, viết” của chương

trình tiểu học. Có đọc tốt các em mới có thể hiểu đề tốn nhanh hơn, lời giải rõ
ràng hơn. Có đọc tốt thì học sinh viết chính tả mới đúng, làm văn miệng mới trôi
chảy, mạch lạc…Phân môn đọc đã làm giàu kiến thức về ngơn ngữ, góp phần
hình thành lịng u q và thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho
các em.
Trong khi đó, việc dạy đọc ở trường Tiểu học, bên cạnh những thành cơng
cịn nhiều hạn chế. Học sinh chưa đọc như mong muốn. Kết quả đọc của các em
chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các em còn phát
âm sai, ngắt nhịp chưa đúng chỗ, hiểu sai nghĩa của từ. Có nhiều từ mặc dù đã
được giáo viên chỉnh sửa nhiều lần vẫn cứ sai, thậm chí cịn sai lại những chữ đã
được sửa rồi. Dù đọc thành tiếng, đọc hiểu hay đọc diễn cảm… các em đều được
thầy cô hướng dẫn kĩ càng từng tiếng, từ, từng cách đánh vần, phát âm, dấu
thanh… những lỗi thông thường cứ sai đi sai lại mãi như thế thì đến bao giờ các
em mới đọc đúng, hiểu đúng các từ, các văn bản của Tiếng Việt? Đối với trẻ lớp
2, các em vừa hết lớp 1 chuyển lên còn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ trong q trình
học tập nói chung và mơn Đọc nói riêng thì việc dạy đọc cho các em để các em
đọc tốt, đọc hay, đọc hiểu càng khó hơn.
Giáo viên hướng dẫn đọc và sửa lỗi phát âm cho các em như thế nào để
các em đọc đúng được? Làm thế nào để các em đọc hay và yêu thích mơn học
này? Làm thế nào để qua mơn Đọc bồi dưỡng được cho các em khả năng cảm
thụ văn học?
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng Đọc cho học sinh lớp 2?
Tơi chỉ có một mong muốn duy nhất là góp một phần nhỏ bé của mình đưa
ra một số biện pháp khi dạy đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Qua đó nhờ các
cấp phụ trách chun mơn và các bạn đồng nghiệp có thêm ý kiến đóng góp vào
nội dung này để việc dạy đọc cho học sinh tiểu học đạt kết quả tốt hơn.
Chính vì vậy, tơi đã chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ
dạy Đọc cho học sinh lớp 2”.



2
2. Mục đích nghiên cứu:
Củng cố kinh nghiệm giảng dạy của bản thân. Qua đó thấy được những
tồn tại trong giảng dạy để tìm biện pháp giảng dạy hiệu quả nhất.
Nâng cao chất lượng phân môn Đọc cho học sinh.
Đưa ra một số phương pháp giúp học sinh phát âm đúng ;đọc lưu lốt trơi
chảy, đọc diễn cảm, u thích mơn học….
Có cơ hội trao đổi học hỏi về đổi mới phương pháp dạy Đọc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học là rất cần thiết
bởi vì nó nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Song đề tài này chỉ thưc hiện
nghiên cứu trong phạm vi đổi mới phương pháp dạy Đọc cho học sinh lớp 2.
Nơi thực nghiệm: Tại lớp 2 – Trường TH Ngũ Hiệp
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm những phương pháp dạy học hay và hợp lí, xác định đúng mục tiêu
dạy học. Biết hướng khai thác nội dung bài một cách hợp lí, khoa học hướng học
sinh vào bài một cách sáng tạo, phát huy tính tích cực của học sinh.
Ln tự học, tự rèn để nâng cao trình độ kiến thức cũng như sự hiểu biết
để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi kiến thức cho học sinh.
Đọc các tài liệu về phương pháp giảng dạy Tiếng Việt, tài liệu đổi mới
dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học, các tạp chí giáo dục Tiểu học,…
Dạy khảo sát ở các lớp khác nhau.
Quan sát, tìm hiểu, phân tích thái độ hành động của học sinh giáo viên
tiếp thu ý kiến của cấp trên.
Trao đổi với các đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.

NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận :



3
Như chúng ta đều biết tất cả những kinh nghiệm của đời sống, những
thành tựu văn hoá khoa học, những tư tưởng tình cảm của thế hệ trước và của cả
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết
đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của lồi người, khơng thể sống
một cuộc sống bình thường có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội
hiện đại.
Đối với học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng thì việc rèn
cho học sinh đọc trơn, đọc lưu lốt văn bản là việc làm hết sức cần thiết, tạo cơ
sở để học sinh học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp trên. Đồng thời, nhờ đọc học
sinh được mở rộng sự hiểu biết về thiên nhiên, về cuộc sống con người…; học
sinh được bồi dưỡng về vốn hiểu biết, trau dồi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, sử
dụng tiếng mẹ đẻ. Việc đọc đối với học sinh mang ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng
và phát triển rất lớn.
Chính vì thế, khi dạy Đọc ở lớp 2, để giúp học sinh hình thành và phát
triển kỹ năng đọc, giáo viên cần tổ chức tốt các hoạt động sao cho mỗi học sinh
trong lớp đều được đọc, được trao đổi nhận thức riêng của mình với thầy cơ, với
bạn bè. Càng được luyện đọc nhiều, học sinh càng đọc thành thạo. Càng được
trao đổi ý kiến nhiều, học sinh càng nâng cao năng lực diễn đạt và tư duy. Các
biện pháp, hình thức, quy trình dạy Đọc ở mỗi lớp đều tập trung thực hiện mục
đích đó.
Rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 chính là chìa khóa mở ra mọi tri
thức.Từ đây các em hiểu và cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học.
Cao hơn nữa là các em cảm nhận được cái đẹp của thế giới xung quanh các em.
Từ đó ghi nhận vào trí nhớ của các em
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Đặc biệt khi
đọc các tác phẩm về văn chương con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà
cịn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ cao đẹp, được khơi dậy năng
lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.
Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thơng tin thì biết đọc càng quan trọng vì

nó sẽ giúp người ta sử dụng nguồn thông tin. Đọc chính là học, học nữa, học mãi
đọc để tự học, học cả đời. Vì vậy, dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng.

2. Nội dung chương trình phân mơn Đọc ở lớp 2


4
+ Tập một có 33 bài học, được sắp xếp theo 4 chủ điểm và học trong 16
tuần, mỗi tuần 2 bài. Ngồi ra, có 1 tuần ơn giữa học kì và 1 tuần ơn tập, đánh
giá cuối học kì.
HKI
Chủ điểm

SL

EM LỚN LÊN TỪNG NGÀY

9

ĐI HỌC VUI SAO

8

NIỀM VUI TUỔI THƠ

8

MÁI ẤM GIA ĐÌNH

8


Tên bài
Tơi là học sinh lớp 2
Ngày hôm qua đâu rồi?
Niềm vui của Bi và Bống
Làm việc thật là vui
Em có xinh khơng?
Một giờ học
Cây xấu hổ
Chú đỗ con
Cầu thủ dự bị
Cơ giáo lớp em
Thời khóa biểu
Cái trống trường em
Danh sách học sinh
Yêu lắm trường ơi!
Em học vẽ
Cuốn sách của em
Khi trang sách mở ra
Gọi bạn
Tớ nhớ cậu
Chữ A và những người bạn
Nhím nâu kết bạn
Thả diều
Tớ là Lê – gơ
Rồng rắn lên mây
Nặn đồ chơi
Sự tích hoa tỉ muội
Em mang về yêu thương
Mẹ

Trò chơi của bố
Cánh cửa nhớ bà
Thương ơng
Ánh sáng của u thương
Chơi chong chóng


5
+ Tập hai có 30 bài học, được sắp xếp theo 5 chủ điểm và học trong 15
tuần, mỗi tuần 2 bài. Ngồi ra, có 1 tuần ơn giữa học kì và 1 tuần ơn tập, đánh
giá cuối học kì.
HKII
Chủ điểm

SL

VẺ ĐẸP QUANH EM

8

HÀNH TINH XANH CỦA EM

8

GIAO TIẾP VÀ KẾT NỐI

4

CON NGƯỜI VIỆT NAM


4

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG EM

6

Tên bài
Chuyện bốn mùa
Mùa nước nổi
Họa mi hót
Tết đến rồi
Giọt nước và biển lớn
Mùa vàng
Hạt thóc
Lũy tre
Vè chim
Khủng long
Sự tích cây thì là
Bờ tre đón khách
Tiếng chổi tre
Cỏ non cười rồi
Những con sao biển
Tạm biệt cánh cam
Những cách chào độc đáo
Thư viện biết đi
Cảm ơn anh hà mã
Từ chú bồ câu đến in – tơ – nét
Mai An Tiêm
Thư gửi bố ngoài đảo
Bóp nát quả cam

Chiếc rễ đa trịn
Đất nước chúng mình
Trên các miền đất nước
Chuyện quả bầu
Khám phá đáy biển ở Trường Sa
Hồ Gươm
Cánh đồng quê em

2.1. Thực trạng :
Các bài đọc được thiết kế theo cách tạo cơ hội cho HS tăng cường tham
gia vào các hoạt động giao tiếp tự nhiên.
Các nội dung được chọn lọc theo hướng tinh giản ở mức hợp lí, chú trọng
dạy học tích hợp và dạy học phân hố.
Dạy Đọc có 3 phần: Khởi động trước khi đọc, Đọc VB, và Hoạt động sau
khi đọc (Trả lời câu hỏi và Luyện tập theo văn bản đọc). Hệ thống câu hỏi đọc


6
hiểu được thiết kế đa dạng. Ngoài câu hỏi tự luận theo cách truyền thống, cịn có
câu hỏi trắc nghiệm khách quan (áp dụng chủ yếu cho những câu hỏi có thể khó
nếu HS phải trả lời theo hình thức tự luận) và câu hỏi được thiết kế kèm tranh
minh hoạ, HS vừa phải hiểu VB vừa phải hiểu nội dung tranh để trả lời. Sau khi
đọc VB, ngoài hoạt động chính là trả lời câu hỏi, HS cịn có thể luyện từ, luyện
câu và thực hành một số nghi thức lời nói được quy định trong chương trình.
Đối với VB đọc là thơ thì sau khi đọc VB cịn có hoạt động học thuộc lịng một
hai khổ thơ.
Trong q trình giảng dạy cũng như tiếp xúc với các em học sinh, tơi thấy
được trong q trình giảng dạy có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1.1. Thuận lợi
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu chỉ đạo xây dựng chuyên đề để Giáo

viên nắm vững phương pháp, quy trình dạy Đọc theo hướng đổi mới.
Giáo viên có đầy đủ SGK, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt có
những bài giảng điện tử, các video dành cho mơn Đọc gây hứng thú cho học
sinh và giáo viên không mất thời gian, kinh phí chuẩn bị.
Học sinh biết vâng lời cô.
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, của quý ban ngành địa
phương cũng như của các bậc phụ huynh.
Phòng học, bàn ghế được trang bị đầy đủ. Đồ dùng dạy và học, các
phương tiện phục vụ cho công tác giảng dạy tương đối đầy đủ.
Đa số các em đã biết đọc.
Bản thân tôi cũng đúc rút cho mình được một số kinh nghiệm trong rèn
luyện đọc thành tiếng cho học sinh. Đặc biệt trong năm học này, ngay từ những
ngày đầu nhận lớp tôi rất chú ý đến các đối tượng học sinh và hình thành cho
các em những kĩ năng cơ bản ban đầu phục vụ cho việc học như kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết, tính tốn. Một trong những kĩ năng mà tơi quan tâm nhất là kĩ
năng đọc.
Hầu hết giáo viên đã vận dụng được việc tổ chức cho học sinh được luyện
đọc nhiều, luyện đọc cá nhân, luyện đọc nhóm, tổ… Qua hoạt động luyện đọc,
giáo viên luôn chú ý giúp học sinh nhận xét, sửa lỗi phát âm, đảm bảo tốc độ
đọc. Trong mỗi tiết học giáo viên luôn lồng ghép các hình thức thi đua, trị chơi,
nhằm cụ thể hóa, truyền thụ kiến thức nhẹ nhàng đến học sinh, phát triển năng
lực tư duy của các em.
Các em đã qua lớp 1 nên nhanh nhẹn hơn trong học tập.


7
Cơ sở vật chất nhà trường khang trang, mát mẻ, thuận lợi cho việc giảng
dạy của thầy và hoạt động học tập của trị. Ban Giám hiệu ln tạo mọi điều
kiện, quan tâm, giúp đỡ giáo viên trong mọi công việc.
2.1.2. Khó khăn:

Các em cịn phát âm sai, nói ngọng nhiều, đọc chưa diễn cảm, ngắt nghỉ
tự do chưa đúng ngữ điệu đọc chưa lưu lốt, trơi chảy. Các em thường phát âm
sai các phụ âm đầu như đọc lẫn lộn giữa n/ l... ngọng dấu hỏi, dấu ngã. Có
những học sinh chưa u thích mơn học.
Cịn một số em đọc yếu, đọc ê a, đọc nhát gừng, ngắt nghỉ tùy hứng. Sự
chênh lệch giữa học sinh về trình độ.
Các em tự ti khi đọc bài, chưa mạnh dạn, đọc rất nhỏ.
Học sinh ít có điều kiện giao tiếp nên kỹ năng nói cịn yếu.
Khả năng tự nghiên cứu cịn hạn chế.
Ở phần tìm hiểu nội dung bài, khi trả lời câu hỏi, học sinh cịn trả lời
khơng đúng nội dung câu hỏi mà trả lời theo cách đọc lại các câu văn hay câu
thơ trong sách giáo khoa.
Phụ huynh ít có thời gian kiểm tra việc đọc của con mình. Chưa chú ý
đúng mức đến rèn đọc cho con, chỉ cần con đọc không sai từ ngữ là được rồi.
Chưa hiểu hết tác dụng của việc đọc đúng và hay
Học sinh tích cực tham gia các hoạt động nhưng thao tác còn chậm làm
ảnh hưởng đến thời gian tiết học. Trình độ học sinh trong lớp chưa đồng đều nên
khó khăn cho giáo viên trong việc truyền thụ kiến thức.
Một số em phát âm chưa chính xác, hay sai do thói quen giao tiếp ở địa
phương gây khó khăn cho giáo viên trong việc rèn đọc.
Với thực trạng như vậy, tơi đã tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp
chữa lỗi phát âm cho học sinh nhằm khắc phục tình trạng phát âm sai trong
trường nâng cao chât lượng phát âm chuẩn, khắc phục những nhược điểm các
em hay mắc. Từ đó, nâng cao chất lượng giảng dạy.
3. Biện pháp giải quyết:
3.1. Biện pháp thứ nhất: Kiểm tra, khảo sát thực trạng của học sinh để phân
loại :
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của học
sinh. Qua việc kiểm tra nhiều em cịn đọc lí nhí trong miệng, diễn đạt chưa lưu
loát, chưa biết ngắt nghỉ ở dấu phẩy, dấu chấm, có em lại nghỉ tự do, tùy hứng...

Mặt khác, một số em đọc văn bản thì lại chưa biết biểu lộ sắc thái tình cảm trong
cách đọc. Do đặc thù của địa phương, một số em còn ngọng chữ l-n dấu hỏi (?)
dấu ngã (~), nên phần nào giảm bớt hiệu quả, chất lượng giờ Đọc.


8
Sau khi nắm rõ thực trạng môn Đọc của lớp như vậy, tôi đã phân giọng
đọc của các em học sinh thành 5 nhóm:
Nhóm
Đầu năm học
Nhóm các em đọc ngọng l/n ; đọc sai dấu
6 em – 13%
Nhóm các em đọc chưa lưu loát
10 em – 22%
Các em đọc đúng tốc độ nhưng ngắt nghỉ chưa hợp lý
11 em – 25%
Nhóm các em đọc đúng, phát âm chuẩn, ngắt nghỉ hơi hợp lí
13 em – 29%
Nhóm các em đọc hay, diễn cảm , có năng khiếu
5 em – 11%
Với việc phân nhóm như vậy đã giúp giáo viên dễ dàng có những biện pháp
rèn đọc phù hợp với từng đối tượng học sinh. Để trong quá trình giảng dạy, khi
dạy đến phần nào học sinh hay mắc phải thì thường xuyên gọi những học sinh
đó để uốn nắn và động viên các em tự sửa theo cô đã hướng dẫn.
VD: Những học sinh hay ngọng “ l” thì khi dạy trong bài có tiếng từ nào có
chứa âm đó thì giáo viên gọi em đó lên đọc và sửa. Tương tự như vậy với những
học sinh ngọng “n” hay “ ?” , “ ~” ….
3.2. Biện pháp thứ hai: Nghiên cứu bài dạy, soạn giáo án hay để tạo khơng
khí sơi nổi trong giờ học và tạo sự u thích môn học.
Để giờ dạy thành công, việc cần thiết nhất đó là soạn giáo án tốt để có giờ

dạy hay. Làm được điều này tôi đã áp dụng các cách làm sau:
3.2.1. Đọc kỹ tài liệu:
Để có thể hướng dẫn học sinh hoạt động hiệu quả trong các tiết học, tôi
nghiên cứu bài dạy một cách cẩn thận như đọc SGK. Sách hướng dẫn, sách thiết
kế, chuẩn kiến thức kỹ năng, giáo dục kỹ năng sống và các tài liệu có liên quan
đến bài dạy để nắm được các yêu cầu trọng tâm của tiết dạy.
Sau khi dự chuyên đề và thống nhất phương pháp giảng dạy, tôi ghi nhớ,
nắm chắc quy trình, phương pháp giảng dạy, sau đó xây dựng một giáo án chi
tiết, hay, có sức hấp dẫn học sinh…
Từ những phút đầu tiên vào bài, tôi đã tạo cho học sinh có điều kiện nhập
cuộc, để cho học sinh được nói; ví như ơng Vũ Khắc Tn viết: “Giới thiệu bài
là cho học sinh tự nhập cuộc bài học, tạo nên tiền đề xuất phát, xuất phát hào
hứng thì diễn biến của bài học sẽ có nhiều kết quả tốt đẹp”.
*Khởi động bằng những bài hát quen thuộc:
VD1: Khi dạy bài “Cánh cửa nhớ bà” ( Sách Tiếng Việt lớp 2 tập I) tôi
cho học sinh hát bài Cháu yêu bà và hỏi: Bài hát nói đến ai? , Bạn nhỏ trong bài
hát có tình cảm như thế nào với bà của mình? Học sinh trả lời. Sau đó tơi giới
thiệu: Thế cịn bạn nhỏ trong bài Đọc – Cánh cửa nhớ bà đối với bà mình như
thế nào, cô và các con cùng vào bài để biết rõ điều đó.


9
Hay khi dạy bài “ Vè chim”, tôi cho học sinh hát bài Con chim vành
khuyên. Bài “Thư gửi bố ngồi hải đảo” tơi cho hát bài Bố là tất cả hoặc bài Ba
ngọn nến…. sau đó dẫn dắt vào bài.
*Khởi động bằng tranh
VD: Khi dạy bài: Cây xấu hổ, sau khi trình chiếu tranh cho học sinh quan
sát, tơi hỏi: “Có bạn nào biết trong tranh là lồi cây nào khơng? Có học sinh trả
lời: “Thưa cơ! Là cây xấu hổ ạ”. Tôi lại giới thiệu tiếp: “ Vậy các con biết gì về
cây xấu hổ?” - HSTL. Chúng mình sẽ cùng nhau tìm hiểu về lồi cây có cái tên

đặc biệt này qua bài đọc Cây xấu hổ nhé!
Ở bài “Tớ nhớ cậu” tôi lại giới thiệu bằng tranh. Cô giáo treo tranh lên
bảng cho học sinh xem đồng thời giới thiệu các nhân vật trong tranh:
“Đây là Kiến, cịn đây là Sóc. Đó cũng là các nhân vật trong câu chuyện
mà cô sẽ dạy các con ngày hôm nay: “Tớ nhớ cậu”. Một đọc hết sức thú vị về
tình bạn.
Bây giờ chúng ta hãy cùng đọc bài xem tình bạn của chúng được bắt đầu
thế nào và đã có chuyện gì xảy ra với đơi bạn nhỏ ấy nhé!
Với cách vào bài như thế học sinh lớp 2 rất thích thú, các con bảo với
nhau rằng rất thích học nhất giờ Đọc của cơ giáo chủ nhiệm.
*Khởi động bằng cách gợi nội dung của bài :
Ví dụ: Bài Đọc “Gọi bạn” khi dẫn dắt vào đề tài tơi giới thiệu như sau:
- Con dê nó kêu như thế nào?
+ Điều gì mà khiến Dê trắng kêu hồi “Bê! Bê!” Cơ cùng các con sẽ tìm
hiểu qua bài Đọc ngày hơm nay “Gọi bạn”.
*Tạo khơng khí sơi nổi trong giờ học
Học sinh lớp 2 – lứa tuổi mang đặc điểm tâm sinh lý khá đặc biệt: Non
nớt, ngây thơ, hồn nhiên, ít chú ý, lắm tị mị, dễ phân tán, thích học hỏi và rồi
cái gì đối với các em cũng kỳ lạ, cũng thoáng qua. Tại sao thế? Vì các em cịn bé
vốn chưa hiểu nhiều, vốn từ cịn nghèo, vốn hiểu biết cịn q ít, vốn nói năng vì
vậy cũng hạn chế. Điều đó là tất yếu.
Tơi đã cố gắng rèn luyện học sinh u thích Đọc bằng cách chuẩn bị phần
đọc mẫu thật kỹ càng, cẩn thận, đọc nhiều lượt trước khi lên lớp, đọc đúng từng
từ, từng ngữ, từng từ có dấu hỏi, dấu ngã; ngắt nghỉ chính xác, đọc đúng ngữ
điệu và thật diễn cảm. Đọc thế nào để khi nghe, học sinh biết rung cảm trước
những văn bản nhất là văn bản trữ tình.
Đến phần học sinh luyện đọc, tơi lại uốn nắm cho các em từng li từng tí.
Hướng dẫn học sinh cách đọc một văn bản, phải luôn tạo sự trầm bổng để gây
nên sự truyền cảm, sâu lắng. Ngoài ra, tơi cịn hướng dẫn học sinh cách đọc một
câu kể, một câu hỏi, một câu khiến, câu tỏ sự ngạc nhiên để các em thấy rằng



10
tiếng Việt vừa giàu lại vừa đẹp, giàu trong cấu tạo, hay và đẹp trong cách đọc,
cách nói. Và mơn Đọc đã góp phần khơng nhỏ làm nổi bật cái hay, cái đẹp của
Tiếng Việt.
Ví dụ: Khi dạy bài “Em có xinh khơng” tơi đã hướng dẫn cho các em đọc
theo vai như sau:
+ Ở đoạn 1 có những nhân vật nào? Có những nhân vật là: người dẫn
chuyện, voi anh, voi em, hươu, dê.
+ Theo em, khi đọc giọng người kể nên đọc như thế nào? (đọc rõ ràng,
biểu cảm, ngắt nghỉ hơi đúng) – Mời 2 em đọc thể hiện.
+ Thế còn vai voi anh đọc như thế nào? (Giọng thể hiện sự quan tâm,
khen ngợi). Một học sinh thể hiện.
+ Con thể hiện lời của voi em như thế nào? (Giọng thể hiện sự nhí nhảnh,
đáng yêu, lên giọng ở cuối câu hỏi). Một học sinh thể hiện.
+ Vậy còn lời của hươu và dê (giọng thể hiện sự chê bai). 2 học sinh đọc.
Nhờ hướng dẫn cụ thể như vậy nên đến phần luyện đọc lại có 9 nhóm học
sinh (mỗi nhóm 5 em) tự phân vai (người dẫn chuyện, voi anh, voi em, hươu và
dê) thi đọc truyện rất hào hứng, các em đọc giọng của từng nhân vật thể hiện
khá tốt, tự nhiên phù hợp. Tiết học nhờ vậy đã rất thành cơng.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chuyện bốn mùa” tôi không dừng lại ở việc hướng
dẫn các em phát hiện giọng đọc của từng nhân vật mà đã kết hợp với việc làm
đồ dùng như mũ phân biệt các nàng tiên Xuân, Hạ, Thu, Đông, mũ vai Bà Đất
để trong phần luyện đọc lại có 2 nhóm học sinh (mỗi nhóm 5 em) tự phân vai
(người dẫn chuyện, các nàng tiên, bà Đất) thi đọc truyện. Các em có thể đội mũ
và đọc theo vai rất ngộ nghĩnh, đáng yêu. Qua đó, chúng tôi phát hiện thấy ở các
em trở nên mạnh dạn, tự tin hơn khi đọc theo vai, các em rất thích đọc vai các
nhân vật là trẻ con, là con vật, các nàng tiên…vì các nhân vật đó gần gũi với các
em trong đời sống hàng ngày.

Như vậy, khi học sinh đã hứng thú học Đọc, các em sẽ đọc tốt hơn, kết
quả học tập sẽ cao hơn.
Tổ chức thi đọc theo nhóm
Sau khi được luyện đọc, các em rất muốn thể hiện kết quả luyện tập của
mình. Giáo viên cần tổ chức thi đọc chu đáo không qua loa đại khái.
Tổ chức cho học sinh đọc theo nhóm để nhiều học sinh được đọc sau đó
Giáo viên mời 2 nhóm một lên đọc, nên mời các nhóm có khả năng đọc tương
đương để tạo ra sự thi đua. Có thể cử một số học sinh làm ban giám khảo rồi
chấm điểm. Sau khi các bạn thi đọc xong, Ban giám khảo cho điểm từng nhóm
vào bảng con, giơ lên cả lớp biết.
Nên có định hướng để học sinh nhận xét:


11
+ Đọc đúng chưa?
+ Ngắt, nghỉ có chính xác khơng?
+ Đọc có hay khơng?
Tổ chức cho học sinh nhận xét bạn đọc tốt chưa? Có xứng đáng với điểm
Ban giám khảo cho không?
Chọn những học sinh yếu trong các tổ lên thi xem nhóm của tổ nào đọc
khơng yếu nữa, bạn học sinh nào đã có tiến bộ…
Giáo viên tổ chức cho những học sinh đọc khá, giỏi của các tổ lên thi để
tìm ra người đọc tốt nhất, nhóm đọc tốt nhất.
Qua việc tổ chức thi đọc theo các hình thức trên học sinh rất ham luyện
đọc, học sinh giỏi rồi mong muốn mình đọc tốt hơn. Cịn những em đọc kém
muốn luyện đọc nhiều để lên thi không phải là người đọc kém.
Cần khuyến khích, động viên kịp thời những học sinh yếu mà đã có chút
cố gắng để các em tự tin hơn trong học tập và mạnh dạn cùng cả lớp thi đua.
Hàng tháng tôi tổ chức thi “ Đọc diễn cảm” ở các tổ và giữa các tổ với
nhau.

3.2.2. Sắp xếp nội dung kiến thức
Sau khi đã nắm kỹ nội dung kiến thực cần truyền đạt đến học sinh thì giáo
viên cần sắp xếp chia thời gian phần kiểm tra bài cũ ,dạy luyện đọc, tìm hiểu
bài,luyện đọc lại … cho có trình tự hợp lý phù hợp với nhận thức của các em
đảm bảo thời gian một tiết Đọc là 35 – 40 phút.
Sau khi lên được kế hoạch dạy học, tôi phải đọc, nhớ lại được trình tự tiết
dạy, chi tiết bài dạy để giờ dạy được trơi chảy, liền mạch. Sau đó tơi học thuộc
giáo án, tập luyện giọng nói hay, có sức truyền cảm. Có như vậy khi lên lớp,
giáo viên mới đĩnh đạc, tự tin làm chủ được mọi tình huống trong khi dạy học
3.3. Biện pháp thứ ba: Chuẩn bị đồ dùng dạy học giúp học sinh ghi nhớ
được bài tốt hơn
Với mong muốn dạy tiết Đọc thành công thì tơi cần chuẩn bị thật đầy đủ
đồ dùng. Đồ dùng mơn Đọc có 2 loại: đồ dùng có sẵn của nhà trường, đồ dùng
do tôi tự làm và sưu tầm.
- Với đồ dùng có sẵn của nhà trường (Bộ tranh ảnh) tôi mượn trước để
đầy đủ đồ dùng khi lên lớp.
- Với đồ dùng tự làm, sưu tầm:
+ Với tranh vẽ ở sách giáo khoa, tơi sưu tầm hình ảnh trên kho học liệu/
Internet lồng ghép vào bài giảng điện tử trình chiếu lên màn hình để học sinh dễ
quan sát.


12
+ Mẫu vật: Sưu tầm các loại vật tươi sống như hoa, quả, các tranh ảnh có
sẵn trong những quyển sách, quyển lịch hoặc ở trên mạng về rồi in màu (để giải
nghĩa từ)
Ví dụ: Khi dạy bài “Chơi chong chóng” tơi đã chuẩn bị những chiếc
chong chóng đầy màu sắc cho học sinh quan sát và dùng chúng làm phần thưởng
tặng HS ở phần Thi đọc.
- Bài “Sự tích cây thì là” để giúp các em hiểu rõ hình ảnh lồi cây “dáng

mảnh khảnh, lá nhỏ xíu” Tơi cũng chuẩn bị cây thì là đem đến cho học sinh
quan sát.
Học sinh lớp 2 đã rất thích thú khi quan sát, được tiếp cận với nhiều tranh
ảnh đẹp, vật thật nên giờ học đã hiệu quả hơn rất nhiều, không bị đơn điệu,
nhàm chán nữa.
3.4. Biện pháp thứ tư: Luyện đọc bài trước khi lên lớp để có bài đọc mẫu
chuẩn
Theo tôi, đây là khâu rất quan trọng: Giáo viên nhất thiết phải thực hiện
bởi nó quyết định rất lớn đến sự thành công của bài dạy. Giáo viên đọc mẫu
chính xác, truyền cảm khơng chỉ đem thơng tin đến người nghe mà còn làm cho
học sinh bị cuốn hút vào nội dung bài học, từ đó có sức thuyết phục lớn. Bởi thế
giáo viên phải đọc bài dạy nhiều lần trước khi lên lớp.
Ví dụ: Bài “Thư gửi bố ngoài đảo” cần đọc với giọng nhẹ nhàng, sâu lắng,
chậm rãi….
Tôi dựa vào các tài liệu tham khảo, sách giáo viên và vốn hiểu biết của
mình để ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Nếu chỗ nào tơi thấy cịn chưa rõ thì đem ra để
giờ họp chun mơn trao đổi thống nhất.
3.5. Biện pháp thứ năm: Biện pháp sửa ngọng dấu hỏi (?) dấu ngã (~), sửa
ngọng chữ l-n
Các em khi đọc các tiếng có thanh ngã (~) thường há to miệng hơi từ
trong họng thoát ra miệng đọc thành “ngá”; “bãi” đọc thành “bái”; “đỗ” đọc
thành “đố”…
Tôi hướng dẫn sửa cho các em như sau: Tôi đọc mẫu ngã và cho các em
đó quan sát miệng cơ đọc, tay giữ vào phần dưới cằm phần sát cổ để theo dõi, tai
thì nghe. Các em sẽ phát hiện ra khi đọc “ ngã” thì tay sẽ nhận ra ở vị trí đó có
sự chuyển động mạnh đẩy xuống cịn khi phát âm thành “ngá” thì có sự chuyển
động khơng đáng kể. Sau khi các em đã phân biệt được thì hướng dẫn kỹ hơn là
đọc “ngã” thì hơi bị chặn lại ở trong cuống họng khơng thốt ra miệng cịn đọc
“ngá” thì hơi thốt từ cổ họng ra miệng. Rồi học sinh phát âm nhiều, từ đọc
chậm đến đọc nhanh hơn.



13
- Những em đọc “hỏi” thành “họi” tôi sửa như sau: Khi đọc “họi” các con
sẽ thấy hơi từ trong thốt ra bị chặn lại ở hàm dưới. Nên tơi yêu cầu các em đọc
kéo dài tiếng “ hỏi” thật lâu và lấy hơi từ trong thốt ra ngồi miệng( khơng
được dừng lại ngay vì có thể sẽ đọc thành “ họi”)
Địa phương Ngũ Hiệp đọc ngọng l – n nhiều, qua việc điều tra tơi thấy
có 6/45 em bị ngọng l-n. Tôi sửa cho các em như sau:
Khi gọi các em đọc bài, cho bạn bên cạnh phát hiện bạn ngọng ở tiếng
nào, yêu cầu học sinh đó dừng lại và hướng dẫn em lấy tay bịt mũi rồi phát âm.
- Những tiếng có âm đầu là l (mũi khơng rung hoặc rung rất nhẹ) như:
lặng, lên, lịng, lênh, lời… đồng thời đề nghị các em làm theo hướng dẫn của cơ,
đặt đầu lưỡi lên vịm trên của hàm trên và bật ra tiếng.
- Những tiếng có âm đầu là n (mũi rung nhiều tiếng nghẹt lại không to) ví
dụ như: nắng, non, nên, nức nở…Với những tiếng có âm đầu “n” thì hướng dẫn
các em đè lưỡi xuống rồi bật ra thành tiếng.
Giáo viên phải hướng dẫn em bị ngọng nhiều lần dần dần các em đã biết
cách tự sửa ngọng cho mình.
Giáo viên phải phân học sinh theo nhóm đơi: Nếu trong nhóm có bạn đọc
sai, phát âm chưa chính xác thì bạn bên cạnh kịp thời sửa lại. Nếu học sinh nào
sửa được nhanh, giáo viên cần khen ngợi kịp thời để động viên các em.
Sắp xếp cho các em phát âm chuẩn, sáng dạ, tinh ý ngồi cạnh các em còn
ngọng. Thường xuyên cho học sinh thi nói đúng các câu:
Ví dụ:- Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng…
Hiện nay, số học sinh đọc ngọng đã giảm xuống nhiều từ 6 em đầu năm
đến thời điểm này chỉ còn 2 em. 2 em này đang được tiếp tục kèm cặp và đang
có hướng tiến bộ.
3.6. Biện pháp thứ 6: Hướng dẫn cách nghỉ hơi khi đọc và cách đọc liền

mạch.
Hướng dẫn học sinh cần nghỉ hơi ở những chỗ có dấu kết thúc câu hoặc
dấu ngăn cách các bộ phận câu với nhau (dấu chấm, dấu hỏi, chấm than, hai
chấm, dấu phẩy, gạch ngang)
Khi gặp những dấu này, người đọc cần nghỉ một quãng bằng khoảng thời
gian phát âm một tiếng. Trong trường hợp kết thúc câu đồng thời kết thúc một
đoạn để xuống dòng, quãng nghỉ sẽ dài gấp đơi.
- Khi đọc gặp dấu phẩy thì nghỉ hơi ít hơn dấu chấm một chút bằng thời
gian ngắt hơi một dịng thơ.
- Gặp dấu ba chấm (…) thì nghỉ lâu hơn dấu chấm, bằng nghỉ khi gặp dấu
chấm xuống dòng.


14
+ Đưa ra các quy định về ký hiệu: /: ngắt hơi, nghỉ bằng dấu phẩy.
// nghỉ bằng dấu chấm. – nhấn giọng, _lên giọng.
Dạy học Đọc cho học sinh tiểu học với các văn bản đọc có câu dài, khó
đọc là một vấn đề khơng phải giáo viên nào cũng xử lí tốt. Chúng ta thử xem
một số ví dụ ngắt, nghỉ khi đọc của học sinh sau đây:
- “Khủng long cũng có/ khả năng tự vệ tốt/ nhờ vào cái đầu cứng và cái
quất đuôi/ dũng mãnh.//” (Đọc : Khủng Long – TV2 – tập 2)
- “ Chúng tớ/ giúp các bạn/ có trí tưởng tượng/ phong phú,/ khả năng sáng
tạo và tính kiên nhẫn.//” (Đọc: Tớ là Lê – gơ – TV2 – tập 1).
Ta thấy, có nhiều chỗ học sinh ngắt, nghỉ chưa đúng mà thường thì giáo
viên khơng chú ý sửa chữa, uốn nắn cho các em. Nguyên nhân là do giáo viên
chưa làm thật triệt để việc dạy học sinh đọc ngắt, nghỉ ở những vị trí khơng có
dấu câu hoặc cũng có khi giáo viên chưa nghiên cứu kỹ để xác định được đúng
chỗ ngắt, nghỉ. Khi học sinh đọc bài, ta nghe khơng thấy thốt ý, khơng thể hiện
được tình cảm, cảm xúc của bài học có khi sai nghĩa của từ, sai nội dung muốn
thông báo. Đặc biệt, nếu học sinh đọc đồng thanh thì nghe rất ngang tai.

Khi đọc các câu văn nên trên, cần sửa lại cách ngắt hơi như sau:
- “Khủng long cũng có khả năng tự vệ tốt/ nhờ vào cái đầu cứng/ và cái
quất đuôi dũng mãnh.//”
- “ Chúng tớ giúp các bạn/ có trí tưởng tượng phong phú,/ khả năng sáng
tạo/ và tính kiên nhẫn.//”
Để xác định đúng cách ngắt, nghỉ trong câu dài, khi đọc chúng ta nên
căn cứ vào những đặc điểm sau:
- Ý nghĩa của các từ, cụm từ trong câu và ý nghĩa của các câu văn.
- Diễn biến nội dung cây chuyện (Bài đọc).
- Đặc điểm, tính cách, thái độ, tình cảm, lời nói nhân vật.
- Diễn biến tâm lí, cảm xúc khi đọc.
Như vậy, ngoài việc ngắt, nghỉ ở các dấu câu, cịn có các trường hợp
ngắt, nghỉ như:
- Ngắt, nghỉ tâm lí.
- Ngắt, nghỉ theo nghĩa.
- Ngắt, nghỉ tình huống.
*Ví dụ: Hãy xem các tình huống Đọc sau đây, khi đọc ta ngắt, nghỉ hơi
theo tình huống cụ thể của từng bài:
Danh sách học sinh tổ 2, lớp 2C đăng kí đọc truyện: (TV2, tập 1, trang
51) – Ngắt nghỉ hơi sau khi đọc hết nội dung của một cột như:
1/ Trần Tường An/ Ngày khai trường.


15
STT
Họ và tên
Truyện
1
Trần Tường An
Ngày khai trường

2
Nguyễn Hà Anh
Ếch xanh đi học
3
Nguyễn Ngọc Bảo
Ếch xanh đi học
4
Đỗ Duy Bắc
Ngày khai trường
5
Vũ Tiến Bình
Vì sao gà chẳng giỏi bơi?
Ngắt nghỉ hơi phải kết hợp tốt với nhấn giọng, ngân giọng khi đọc thì mới
có thể đọc đúng, đọc hay được. Ngắt, nghỉ đúng là một yêu cầu về kỹ thuật đọc,
nó chính là một điều quan trọng để đọc diễn cảm và cảm thụ các bài đọc. Vì vậy,
dạy học sinh đọc diễn cảm, trước hết phải dạy học sinh ngắt, nghỉ đúng khi đọc,
đặc biệt là với những câu văn dài khó đọc. Đối với các bài thơ, bài văn cần
hướng dẫn học sinh nghỉ hơi kết hợp liền lấy hơi để đọc tiếp, không sẽ bị nhát
gừng.
Ở các mức độ bước đầu nhẹ nhàng, giáo viên cần lưu ý học sinh cách
nhấn giọng một số từ ngữ gợi tả, gợi cảm khi đọc văn bản:
Ví dụ: trong đoạn thơ sau theo tôi nên nhấn giọng ở những từ ngữ sau:
Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc trịn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
(Mẹ - Tiếng Việt2, tập 1)
Nhấn giọng như vậy giúp học sinh hiểu công lao to lớn của người mẹ.
Hoặc ví dụ như:
Cơ dạy em tập viết

Gió đưa thoảng hương nhài
Nắng ghé vào cửa lớp
Xem chúng em học bài.
(Cô giáo lớp em – Tiếng Việt2, tập 1)
Cách nhấn giọng như trên giúp chúng ta cảm nhận thiên nhiên cũng
muốn ghé xem các em học bài do cô giáo dạy.
Song việc hướng dẫn học sinh nhấn giọng khơng có nghĩa là làm cho học
sinh cứ thấy chữ nào gạch dưới thì đọc to chữ ấy lên trong khi chỉ cần phát âm
mạnh hơn hoặc ngân dài hơn hoặc có khi phải đọc cho hơi khơng thốt ra là
được. Điều này giáo viên cần hết sức thận trọng, nhất là đối với trẻ lớp 2 – vốn
hiểu biết từ ngữ của các em còn hạn chế. Các em cần phân biệt rõ thế nào là
nhấn giọng.
*Cần lưu ý đọc đoạn:


16
- Đối với bài văn hay bài thơ dài, giáo viên chủ động chia đoạn cho học
sinh luyện đọc. Gọi những học sinh khá giỏi đọc trước cho học sinh nhận xét
nhanh rồi luyện đọc theo nhóm. Cũng có thể cử đại diện của các tổ đọc mẫu, sau
đó chuyển sang đọc đoạn trong nhóm.
Yêu cầu học sinh đọc nhóm cần lưu ý luyện đọc đúng theo cô đã hướng
dẫn, giúp bạn trong nhóm sửa chỗ cịn đọc sai.
- Ngồi cách hướng dẫn học sinh cách ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn
học sinh đọc liền mạch các cụm từ để tránh đọc tự do, nhát gừng.
Ví dụ:
“Tự xa xưa/ thuở nào/
Trong rừng xanh sâu thẳm//”
Thì học sinh hay đọc “tự/ xa xưa” và “ trong rừng xanh” nên giáo viên
hướng dẫn học sinh đọc liền mạch “tự xa xưa” ngắt hơi rồi đọc đoạn tiếp “thuở
nào/ trong rừng xanh/ sâu thẳm.

3.7. Biện pháp thứ bảy: Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
Trong khi soạn bài tôi quan tâm đến việc đặt thêm câu hỏi ngoài sách giáo
khoa (Câu hỏi mức độ 4) làm sao để phát triển tư duy cho học sinh. Thông qua
giờ Đọc, không những các em được bồi dưỡng vốn kiến thức về tự nhiên , xã hội
, về thế giới xung quanh mà còn được bồi dưỡng về tâm hồn, lòng yêu thiên
nhiên đất nước và bồi dưỡng về các kĩ năng sống.
VD: Khi dạy bài Cô giáo lớp em tôi hỏi : Trong câu thơ “ Gió đưa thoảng
hương nhài.”, thoảng có nghĩa là thế nào?
Bài Ngày hơm qua đâu rồi? tơi hỏi: “ Màu ước mong là màu gì?” Câu thơ
Chín vàng màu ước mong diễn tả điều gì?
Bài Mẹ tôi hỏi: Trong câu thơ “ Đêm nay con ngủ giấc tròn”, giấc tròn là
giấc ngủ như thế nào?
Bằng một hệ thống các câu hỏi đặt ra, tôi cho các em nêu ý kiến và giáo
viên sẽ chốt lại câu trả lời đúng. Từ đó giúp các em nắm chắc nội dung bài, có kĩ
năng sống và kĩ năng cảm thụ văn học ngay từ bé.
Ngoài ra khi dạy cách đọc tôi thường xuyên cho các em tự nêu cách đọc
hoặc thảo luận tìm ra cách đọc trước sau đó giáo viên mới chốt cách đọc đúng
để giúp các em xây dựng tính tự lập, khả năng động não ngay từ nhỏ.
3.8. Biện pháp thứ tám: Kết hợp với phụ huynh rèn đọc thêm ở nhà
Ở cuộc họp phụ huynh đầu năm, tơi thơng báo tình hình lớp học, khả năng
đọc của từng em cho phụ huynh.
Thông báo để phụ huynh nắm được chương trình, sách giáo khoa và tầm
quan trọng của mơn Đọc. Từ đó phụ huynh hiểu được và khơng cịn chủ quan


17
coi thường mà có ý thức kèm con đọc, thường xuyên quay các video đọc gửi cho
giáo viên chủ nhiệm tạo điều kiện để con được đọc nhiều, đọc tốt.

(Hình ảnh cắt từ các video đọc của HS)

Yêu cầu phụ huynh cần kiểm tra bài học cũ 1 – 2 lần; con nào cịn đọc
yếu thì đọc lại 2 - 3 lần. Đọc trước bài hôm sau, chỗ nào con đọc sai, bố mẹ cần
đọc mẫu, động viên con đọc. Cho các con đọc thêm sách báo để khả năng đọc
đúng, đọc nhanh, đọc trôi chảy của con tiến bộ hơn.
Giáo viên luôn trao đổi những tiến bộ và những hạn chế yếu kém của con
để phụ huynh có thể kèm con đọc có kết quả.
Ví dụ: Em Hà Vi hay em Gia Bảo hay đọc nhát gừng tôi đã yêu cầu bố mẹ
cho con đọc nhiều lần và ngồi nghe con đọc để giúp con đọc đúng ngữ điệu, tiến
tới đọc tốt hơn. Hiện nay em Vi khơng cịn ngọng tiếng có dấu hỏi nữa, em Bảo
đã đọc đúng tốc độ, không nhát gừng.
Áp dụng biện pháp này, tôi nhận thấy phụ huynh đã thực sự “vào cuộc”
cùng giáo viên giúp con em rèn đọc. Các em đọc tiến bộ hẳn lên. Đó chính là
niềm vui của thầy cơ và phụ huynh học sinh trong sự kết hợp giữa gia đình và
nhà trường thúc đẩy quá trình học tập của học sinh.
3.9. Biện pháp thứ chín: Nâng cao hiệu quả dạy – học đọc hiểu ở lớp 2.
Trong nội dung, chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học hiện nay
có một hệ thống văn bản tương đối mẫu mực, có nhiều lợi thế để dạy đọc hiểu.
Các bài Đọc được xây dựng theo những yêu cầu chặt chẽ của một văn bản, thể
hiện ở sự liên kết bề mặt cũng như liên kết nội dung. Các “văn bản đọc” được
sắp xếp gần gũi, thiết thực với trẻ em theo chủ điểm (đồng tâm) nhằm cung cấp
cho học sinh tiểu học những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người.
Kiểu loại văn bản phong phú giúp học sinh biết đọc và hiểu kiểu văn bản.
Có nhiều văn bản vui, khơi hài giúp trẻ phát huy trí tuệ, óc thông minh, khiếu
hài hước. Các chủ điểm được chia nhỏ, mở rộng và nâng cao qua mỗi lớp. Văn
bản có tính nghệ thuật cao hơn. Câu hỏi khai thác bài có khả năng phát triển tư
duy, khơi gợi suy nghĩ của trẻ em hơn.


18
* Tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ trong bài:

Những từ ngữ cần tìm hiểu trong bài đó là: Từ ngữ khó hiểu đối với học
sinh được chú giải sau bài học, từ ngữ phổ thông mà học sinh địa phương chưa
quen, chưa biết; từ ngữ đóng vai trị “chìa khóa” (từ mắt, từ khóa) câu “chìa
khóa” (câu trọng yếu, câu chốt) để giúp học sinh hiểu nội dung bài đọc. Với các
từ ngữ còn lại, nếu các học sinh nào chưa hiểu, giáo viên giải thích riêng cho
học sinh đó hoặc tạo điều kiện để học sinh khác giải thích giúp, không nhất thiết
phải đưa ra giảng giải cho cả lớp một cách “áp đặt” thiếu tính sư phạm, tốn
nhiều thời gian và cơng sức.
Nên lựa chọn từ ngữ chính, từ ngữ có tính nghệ thuật cần hướng dẫn để
học sinh hiểu và nắm được nội dung, cảm thụ tốt bài đọc. Do vậy giáo viên cần
giảng nghĩa và nêu được tác dụng của nó trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ
để bài học, tránh giảng quá rộng, quá sâu ở Tiểu học. Sau đây là một số cách
hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ:
- Đọc phần Từ ngữ (giải nghĩa từ) trong sách giáo khoa.
- Dùng lời nói, động tác hoặc cử chỉ để miêu tả sự vật, đặc điểm được
biểu thị ở từ cần được giải nghĩa.
- Sử dụng đồ dùng dạy học trực quan như: Hiện vật, mơ hình, tranh ảnh,
vật thật…để giải nghĩa từ ngữ.
- Đặt câu với từ cần giải nghĩa.
- Tìm từ đồng nghĩa hoặc từ trái nghĩa với từ cần giải thích.
* Tìm hiểu nội dung bài:
Trong giảng dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ý, nội dung bài đọc
bằng nhiều cách khác nhau, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động tư duy, trả lời
câu hỏi, trao đổi ý kiến, thực hiện nhiệm vụ (hoặc bài tập) do giáo viên giao, rồi
báo cáo kết quả, nhận xét và kết luận. Phạm vi nội dung cần tìm hiểu đối với văn
chương ở Tiểu học đó là:
- Nhân vật (số lượng nhân vật, tên nhân vật, đặc điểm của từng nhân vật),
tình tiết của câu chuyện, nghĩa đen,nghĩa bóng dễ nhận ra của câu văn, câu thơ.
- Ý nghĩa của câu chuyện với nội dung bài văn, bài thơ.
- Với các văn bản khác như: Văn bản khoa học, văn bản hành chính, báo

chí… thì nên tìm hiểu các đoạn của văn bản, tác dụng của chúng trong giao tiếp,
thẩm mỹ, giáo dục đối với học sinh.
Từ phạm vi những nội dung cần tìm hiểu các văn bản văn chương khác
nhau, có thể tìm hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc bằng cách:
- Hướng dẫn học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để
giúp học sinh tái hiện nội dung bài đọc (câu hỏi tái hiện), sau đó mới đặt ra
những câu hỏi giúp các em nắm được những vấn đề thuộc tầng sâu hơn như ý



×