3
VAI TRÒ CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
MỞ ĐẦU
Lao động là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không
thể thiếu được trong quá trình sản xuất, mặt khác lao động cũng là một bộ phận của
dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy
cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đới sống vật chất, tinh thần cho con
người. Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá
nhất của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi
trường thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội
phát huy mọi năng lực sáng tạo.
Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là
yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất, tinh thần của xã hội đều
do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai trị trực tiếp sản xuất ra của cải đó.
Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện đại cũng cân đối vai trò của lao động, dùng
vai trò của lao động để vận hành máy móc. Với Việt Nam là một nước đang phát
triển và muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì cần đề cao vai trị của nguồn
lao động trong phát triển kinh tế.
Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định vai trị đặc biệt của
nhân tố con người với tính cách là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LAO ĐỘNG VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm chung về lao động, các vấn đề liên quan đến nguồn lao
động với phát triển kinh tế
4
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật
chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong q
trình sản xuất, con người sử cơng cụ lao động tác động lên đối tượng lao động
nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người.
Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của
sự tiến bộ về kinh tế, văn hố và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá
trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình triến kinh tế, xã hội quy tụ lại là
ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, phải thực sự giải phóng sức sản xuất,
khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên, trước hết giải phóng người lao
động, phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo của con người. Vai trò của
người lao động đối với phát triển nền kinh tế đất nước là rất quan trọng.
Nguồn lao động (nguồn lực lao động) là bộ phận dân số, những người đang
tham gia lao động và có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động (vì
nhiều lý do khác nhau).
Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt biểu hiện là số lượng và
chất lượng, như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính
vào nguồn nhân lực nhưng lại khơng phải là nguồn lao động. Đó là những người
lao động khơng có việc làm, nhưng khơng tích cực tìm kiếm việc làm; những
người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người
thuộc tình trạng khác. Cần biết là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những
người đang tham gia lao động là trực tiết góp phần tạo ra thu nhhập của xã hội
Xét về mặt số lượng, nguồn lao động bao gồm: Bộ phận dân số đủ 15 tuổi
trở lên có việc làm và dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng
đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm cơng việc nội trợ trong gia đình, khơng có
nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người
nghỉ hưu trước tuổi quy định).
5
Chất lượng của nguồn lao động là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc
của người lao động với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức thực
hiện thắng lợi mục tiêu cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của người lao động.
Lực lượng lao động: Theo Tổ chức Lao động quốc tế, lực lượng lao động
là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định thực tế đang có việc làm
và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm. Lực lượng lao
động bao gồm những người trong độ tuổi lao động có việc làm và những người
chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (thất nghiệp).
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: Quy mô và
cơ cấu đân số có ý nghĩa quyết định đến quy mơ và cơ cấu của nguồn lao động.
Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: Phong tục,
tập quán của từng nước, từng vùng; trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y
tế và chính sách của từng nước đối với vấn đề khuyến khích hoặc hạn chế sinh đẻ.
Tình hình tăng dân số trên thế giới hiện nay có sự khác nhau giữa các nước.
Nhìn chung, các nước phát triển có mức sống cao thì tỷ lệ tăng dân số thấp; ngược
lại ở những nước kém phát triển thì tỷ lệ tăng dân số cao. Mức tăng dân số bình
quân của thế giới hiện nay là khoảng 1,8%, ở nước châu Âu thường ở dưới mức
1%, trong khi đó ở các nước châu á là 2% - 3% và các nước châu Phi là 3 - 4%.
Hiện nay ba phần tư dân số thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số
tăng, trong khi phát triển kinh tế tăng chậm, làm cho mức sống của nhân dân
không tăng lên được và tạo ra áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Do đó kế
hoạch dân số đi đôi với phát triển kinh tế là vấn đề quan tâm của các nước đang
phát triển.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là số
phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong
nguồn nhân lực.
Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp gồm những người khơng có
việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số người khơng có việc làm sẽ ảnh
hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.
6
Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó khơng chỉ tác động về kinh
tế mà tác động cả về khía cạnh xã hội.
Theo cách tính thơng thường tỷ lệ thất nghiệp tính bằng tỷ lệ % giữa tổng
số người thất nghiệp và tổng số nguồn lao động. Nhưng đối với các nước đang phát
triển tỷ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử
dụng hết. Trong thống kê thất nghiệp ở các nước đang phát triển, số người nghèo
thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng khơng để thời gian
đó kéo dài. Bởi vì họ khơng có các nguồn lực dự trữ, họ phải chấp nhận mọi việc
nếu có. Do đó ở các nước đang phát triển để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết
lao động người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp trá hình gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vơ hình.
Sử dụng nguồn lao động: Là hình thức phân cơng người lao động vào cơng
việc mỗi cơng việc có đặc tính khác nhau về chun mơn, hình thái. Sử dụng có
hiệu quả nguồn lao động thực chất là việc phân bố nguồn lao động một cách hợp
lý, sao cho việc sử dụng lao động này đạt được mục đích là tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
Phân bố nguồn lao động chính là việc phân phối, bố trí hình thành nguồn
lao động theo quy luật, xu hướng tiến bộ vào các lĩnh vực hoạt động, các ngành
kinh tế, các vùng lãnh thổ. Xét về bản chất thì đó là sự đổi mới tình trạng phân
cơng lao động ngày càng tiến bộ hơn và đạt trình độ ngày càng cao hơn.
Phân bố nguồn lao động hợp lý phải phối hợp, kết hợp hài hoà nhiều biện
pháp phân bổ theo từng lĩnh vực sản xuất, từng ngành, từng nội bộ ngành kinh tế,
từng vùng lãnh thổ trong phạm vi quốc gia. Một xu hướng có tính quy luật là lực
lượng lao động được phân bổ và lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng giảm và khi
nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về hưởng thụ văn hố tinh thần ngày càng cao và
đây là nhu cầu vô hạn.
Đào tạo lao động, nâng cao trình độ lành nghề, trình độ chun mơn kỹ
thuật, chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, nâng cao năng lực quản lý, chỉ đạo
và tổ chức sản xuất. Trong lĩnh vực không sản xuất vật chất phân bổ tỷ trọng lớn
7
lao động vào các ngành nghiên cứu khoa học, y tế giáo dục, văn hoá thể thao, giảm
lao động trong quản lý hành chính, lao động quản lý. Trong lĩnh vực sản xuất vật
chất tăng tỷ trọng lao động, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nơng nghiệp, bởi
vì tăng năng suất lao động trong các ngành trên là thuận lợi hơn nó tác động trở lại
ngành nơng nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động: Số lượng lao động mới
phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế, mặt khác
cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng
suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ
sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng
của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Nhưng để đạt được trình độ nhất định
cần phải chi phí khá nhiều, kể cả chi phí của gia đình và quốc gia. Đó chính là
khoản chi phí đầu tư cho con người, ở các nước đang phát triển giáo dục được
được thể hiện dưới nhiều hình thức nhằm khơng ngừng nâng cao trình độ văn hố
và chun môn cho mọi người. Kết quả của giáo dục làm tăng lực lượng lao động
có trình độ tạo khả năng thúc đẩy nhanh q trình đổi mới cơng nghệ. Cơng nghiệp
thay đổi càng nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn
được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá
nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức.
Giống như giáo dục, sức khoẻ làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả
hiện tại và tương lai, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi
nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong
khi đang làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em sẽ là yếu
tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những
người khoẻ về thể chất, lành mạnh về tinh thần, hơn nữa điều đó cịn giúp trẻ em
nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua
giáo dục ở nhà trường. Những khoản chi cho sức khoẻ còn làm tăng nguồn nhân
lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài tuổi thọ lao động.
8
2. Vai trò của nguồn lao động đối với phát triển kinh tế
Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế được xem xét qua các chỉ tiêu
về số lượng lao động, trình độ chun mơn, sức khoẻ người lao động và sự kết hợp
giữa lao động và các yếu tố đầu vào khác.
Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố
đầu vào khơng thể thiếu được của q trình sản suất. Mặt khác lao động là một bộ
phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển
kinh tế suy cho đến cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho con người.
Các chỉ tiêu này được thể hiện tập trung qua mức tiền công của người lao
động. Khi tiền cơng của người lao động tăng có nghĩa chi phí sản suất tăng, phản
ánh khả năng sản suất tăng lên, đồng thời khi mức tiền công tăng làm cho thu nhập
có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người
tiêu dùng tăng. Ở các nước đang phát triển, mức tiền cơng của người lao động nói
chung là thấp, do đó ở những nước này lao động chưa phải là động lực mạnh cho
sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế cần
thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao động, đồng thời tạo ra các
nguồn lực khác một cách đồng bộ.
Nguồn lao động là yếu tố “đầu vào” khơng thể thiếu của q trình sản xuất,
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tư cách là nguồn lực đầu vào, nguồn lao
động kết hợp với các nguồn lực vật chất khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa
học, cơng nghệ…), tham gia vào q trình sản xuất, kinh doanh, tạo ra hàng hóa
nói riêng, của cải vật chất nói chung. Tức là, nguồn lao động tham gia trực tiếp vào
quá trình tạo ra giá trị và làm tăng giá trị, hay nói cách khác, nguồn lao động đã tác
động vào tổng cung của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Vai trò của lao động ở khía cạnh là bộ phận của dân số: Là người thụ
hưởng những thành quả của quá trình phát triển. Lực lượng lao động là yếu tố tạo
cầu cho nền kinh tế với vai trò tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Khi thu
nhập của họ tăng lên, họ sẽ có điều kiện nâng cao mức sống, từ đó sẽ nâng cao
9
năng suất lao động xã hội, hiệu quả sản xuất góp phần tăng nhu cầu xã hội. Do
vậy, thỏa mãn nhu cầu của người lao động luôn được xem là mục đích cuối cùng
của phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia.
Nguồn lực lao động phát hiện, sáng tạo ra các nguồn lực phát triển: Con
người là chủ thể phát hiện, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tạo nên
tăng trưởng kinh tế; nguồn lực vốn là kết qua lao động và tích lũy của con người
mà có; nguồn lực khoa học - cơng nghệ cũng do con người sáng tạo ra.
Nguồn lực lao động đóng vai trị quyết định trong việc sử dụng các nguồn
lực khác: Chất lượng nguồn lực lao động là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả sử dụng ba nguồn lực còn lại (gồm: Nguồn lực vốn, KH&CN và tài nguyên
thiên nhiên). Nói đến nguồn lực lao động là nói đến tổng thể nguồn lực lao động
của một quốc gia, trong đó nguồn lực lao động có trình độ cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, là nguồn lực lao động tinh tuý nhất, có chất lượng nhất
và có vai trị quyết định sự thành cơng đối với phát triển kinh tế của một đất nước
Nguồn lực lao động là động lực của phát triển kinh tế: Nguồn lực lao động
vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao, phong phú và chủ
thể sáng tạo công nghệ, điều chỉnh cơ câu KT để thỏa mãn các nhu cầu xã hội.
Nguồn lao động quyết định việc tổ chức, điều phối, sắp xếp và sử dụng các
nguồn lực khác. Nói một cách khác, nguồn lao động đóng vai trị quyết định trong
việc sử dụng các nguồn lực khác. Nguồn lực lao động là yếu tố có ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả sử dụng ba nguồn lực còn lại (gồm Nguồn lực vốn, KH&CN, tài
nguyên thiên nhiên). Nói đến nguồn nguồn lao động là nói đến tổng thể nguồn lao
động của một quốc gia, trong đó nguồn lao động có trình độ cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, là nguồn lực lao động tinh tuý nhất, có chất lượng nhất
và có vai trị quyết định sự thành cơng đối với phát triển kinh tế của một đất nước.
Mối quan hệ giữa nguồn lực lao động với phát triển kinh tế: Nguồn lực lao
động ln ln đóng vai trị quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các
nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước. Nguồn lực lao động quyết định q trình
chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử
10
dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nền kinh tế tri thức, nguồn lao động chất
lượng cao là nhân tố quyết định. Đảng và nhà nước ta khẳng định mục tiêu và động
lực phát triển kinh tế - xã hội là vì con người và do con người.
Bên cạnh đó, nguồn lao động vừa là yếu tố "đầu vào" của quá trình sản
xuất, vừa là người tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã hội. Như
vậy, với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động
trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Nguồn lực lao động khác với các nguồn
lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ gắn bó
với chủ thể kinh tế - xã hội do con người tạo ra.
Do đó nguồn lưc lao động có vai trị đặc biệt đối với phát triển kinh tế so
với các nguồn lực khác, phát triển nguồn nhân lực chính là q trình tạo lập và
sử dụng năng lực tồn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn
thiện bản thân mỗi con người. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, trong
thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để thực hiện
phát huy nguồn lực lao động từ đó làm cơ sở phát triển đất nước, chính vì vậy
trong thời gian qua nguồn lực lao động nước ta phát triển cả về số lượng, chất
lượng, tạo ra một nguồn lực lao động dồi dào, đủ trình độ để thực hiện cơng
cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn một số yếu kém như: Nguồn lực ở nước ta
đơng nhưng khơng mạnh, trình độ lao động phổ thông khá nhiều, lao động qua đào
tạo cịn ít và đặc biệt là chất lượng đào tạo chưa đạt hiệu quả yêu cầu, do vậy
nguồn lực lao động chưa phát huy vai trò khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực khác đẻ phát triển kinh tế - xã hội.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng nguồn lao động
11
Nguồn lao động có vai trị quan trọng đối với phát triển kinh tế, là nhân tố
đầu vào đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, là động lực thúc đẩy việc phát huy vai
trò của các nguồn lực khác như vốn, khoa học - cơng nghệ. Tuy nhiên, vai trị của
nguồn lao động có phát huy được hay khơng trong phát triển kinh tế phụ thuộc rất
nhiều nhân tố khác nhau.
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến số lượng của nguồn lao động:
Sự gia tăng về quy mô dân số và tốc độ gia tăng dân số có liên quan trực tiếp
đến số lượng lao động. Một quốc gia có quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng dân số
cao sẽ có nguồn lao động dồi dào, thậm chí ở mức dư thừa lao động.
Cơ cấu dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động, cơ cấu dân số
chính là các tiêu chí như độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính…
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm.
Ngoài ra tỷ lệ thất nghiệp (thất nghiệp và thất nghiệp trá hình) cũng ảnh
hưởng đến số lượng nguồn lao động.
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lao động
Chất lượng nguồn nhân lực là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động
được biểu hiên thơng qua ba mặt: thể lực, trí lực, tâm lực (ý thức, tinh thần). Ba mặt
này có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành chất lượng nguồn nhân lực (hay chất
lượng nguồn lao động). Trong đó, thể lực là nền tảng, là phương tiện để truyền tải
tri thức; trí tuệ (hay trí lực) là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực; ý thức
tác phong làm việc là yếu tố chi phối hoạt động chuyển hóa của thể lực, trí tuệ
thành thực tiễn.
Chất lượng của nguồn lao động chịu tác động bởi các nhân tố sau:
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến thể chất của nguồn lao động
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ
thuật, đạo đức và tác phong của người lao động.
12
Mơ hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, hội nhập quốc tế và độ mở
nền kinh tế.
Chính sách phát triển con người của một quốc gia.
4. Thực trạng nguồn lao động với phát triển kinh tế ở Việt Nam sau
những năm đổi mới
Về số lượng nguồn lao động:
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, nhiều giải pháp tạo việc làm cho
người lao động, giải quyết vấn đề lao động - việc làm đã được các cấp, các ngành
quan tâm nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, chất lượng lao động hạn chế đang ngày càng gây nên những áp lực lớn
đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Do vậy, việc làm rõ thực
trạng và những vấn đề còn tồn tại của lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là một vấn đề cần thiết.
Việt Nam là nước có quy mơ dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và bắt
đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất từ
trước đến nay. Tính đến hết năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, trong
đó nữ chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân số trong những năm qua kéo theo gia
tăng về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt
Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, tỷ lệ lao động nam lại nhiều
hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. Tuy nhiên, sự chênh lệch này không đáng
kể và cho thấy lao động nữ chiếm một lượng đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp của lao
động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe, những mâu thuẫn
giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được việc làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
Hiện nay, lực lượng lao động vẫn tập trung đông nhất ở khu vực Đồng
bằng sông Hồng (chiếm trên 22%), tiếp đến là khu vực Bắc trung bộ, Duyên hải
miền Trung (trên 21%) và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là các khu vực có diện
13
tích đất rộng, tập trung nhiều thành phố lớn, khu đô thị và nhiều khu công nghiệp,
thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh nên thu hút đông đảo lao động tập trung ở
những khu vực này. Những khu vực chiếm tỷ lệ thấp, là những khu vực có diện
tích đất hẹp, nhiều đồi núi, ít khu đơ thị và khu công nghiệp nên không thu hút
nhiều lao động đến đây.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nơng thơn
cũng có sự chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập
trung ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng giảm
qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh niên
nơng thơn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông
thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc điểm này là
trở ngại lớn cho lao động nơng thơn trong tìm kiếm việc làm. Tính đến năm 2017,
dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn 72,04 triệu người (chiếm
khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt
75,5%, với 54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là
75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt đối.
Thời gian qua, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số lượng và trình độ
chun mơn, song vẫn cịn nhiều vấn đề đặt ra đối với lực lượng lao động Việt
Nam hiện nay, cụ thể:
Một là, lao động phân bổ không đều giữa các vùng: Các vùng đất rộng có
tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực
lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 6,5% lực lượng lao động), phân bổ lao động
chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động và
tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các vùng nông thôn ra thành thị.
Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng bằng Sông
Hồng (21,8%), Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung bộ và Duyên hải
miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
Hai là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông
thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động ở Việt Nam
14
hiện nay ln xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao,
lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thơng tin viễn thông, du
lịch…) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng,
tay nghề, thể lực và tác phong lao động cơng nghiệp cịn yếu nên khả năng cạnh
tranh thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về
chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ
làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
của q trình sản xuất cơng nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập
huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn,
nông nghiệp, mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông,
tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức
và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro,
ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Ba là, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động: Phần lớn lao
động di cư chỉ đăng ký tạm trú, khơng có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập,
chữa bệnh... trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa qua đào
tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – nơi sử dụng đến 30% lao
động di cư khơng có dịch vụ hạ tầng xã hội (ký túc xá, nhà trẻ, nhà văn hóa, đào
tạo nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…), lao động di cư ít có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hậu quả là nguồn cung lao động
khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của các vùng, các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Dân số Việt Nam được tính đến ngày 21 Tháng Giêng 2019 là 97,016,479
người, theo thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc được công bố lại tại trang
mạng “danso.org/viet-nam.” Việt Nam là một quốc gia có dân số đơng. đang trong
thời kỳ cơ cấu dân số vàng với lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,29 triệu
người, chiếm khoảng 60% dân số. Đây là một lợi thế, nhưng cũng là thách thức
15
trong việc tạo việc làm, đặc biệt là thất nghiệp ở khu vực thành thị và thiếu việc
làm ở nông thôn nước ta.
Về tốc độ tăng trưởng nguồn lao động: Dân số trung bình tăng từ 87.840
nghìn người (2011) lên 92.685 nghìn người (2016). Theo đó, tốc độ tăng chung là
1,07%/năm, trong khi tốc độ tăng tự nhiên giảm dần hàng năm. Gia tăng dân số
trong những năm qua kéo theo gia tăng về lực lượng lao động (bảng 1). Nhìn
chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động,
đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư
nước ngồi góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Về chất lượng nguồn lao động:
Về thể lực: Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình
kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được
cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu
chuẩn quốc tế.
Về trí lực: Chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp,
nông thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động ở Việt
Nam hiện nay ln xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ
cao, lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thơng tin viễn thơng, du
lịch…) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng,
tay nghề, còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Năm 2015, cả nước có hơn 10,5
triệu lao động được đào tạo trong tổng số 52,9 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên có
việc làm, chiếm 19,9%. Như vậy, cả nước hiện có trên 42,4 triệu người (chiếm
80,1% tổng số lao động) chưa được đào tạo để đạt trình độ chun mơn kỹ thuật
nào đó.
Về năng suất lao động: Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của
Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các
năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN
nhưng năng suất của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với nhiều nước trong khu
vực. Nguyên nhân dẫn đến NSLĐ của Việt Nam thấp so với các nước trong khu
16
vực là người lao động Việt chỉ đảm nhận các cơng đoạn hồn thiện theo mẫu. Lực
lượng lao động Việt Nam đông nhưng chỉ đảm bảo nhận được các công việc gia
cơng, khơng tạo ra sản phẩm có thương hiệu để cung ứng cho thị trường. Ngoài ra,
Việt Nam vẫn coi nguồn lao động giá rẻ là lợi thế của nền kinh tế khiến rất khó
nâng cao NSLĐ. Bên cạnh đó, trong cộng đồng DN Việt Nam hiện nay có đến trên
90% là DN nhỏ và vừa, công nghệ sản xuất thấp và trung bình chiếm tỷ lệ quá cao.
Về cơ cấu của nguồn lao động: Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới
tính, tỷ lệ lao động nam lại nhiều hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. Tuy
nhiên, sự chênh lệch này không đáng kể và cho thấy lao động nữ chiếm một lượng
đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn
chế về sức khỏe, những mâu thuẫn giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được việc
làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
Cơ cấu lao động theo vùng: Lao động phân bổ khơng đều giữa các vùng: Các
vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ
chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 6,5% lực lượng lao động),
phân bổ lao động chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho
người lao động và tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các vùng nông
thôn ra thành thị. Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tập trung ở các vùng
Đồng bằng Sông Hồng (21,8%), Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung
bộ và Duyên hải miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nơng thơn
cũng có sự chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập
trung ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng giảm
qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh niên
nơng thơn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông
thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc điểm này là
trở ngại lớn cho lao động nơng thơn trong tìm kiếm việc làm. Tính đến năm 2017,
dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn 72,04 triệu người (chiếm
khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt
17
75,5%, với 54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là
75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt đối.
Cơ cấu lao động theo ngành và vùng bất hợp lý. thể hiện trình độ phát triển
thấp của nền kinh tế.
Một bộ phận khá lớn lực lượng lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm
chưa thường xuyên. Mặc dù những năm vừa qua, nhờ có những chủ trương của
Đảng và chính sách giải quyết việc làm của Chính phủ tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị và tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn đã giảm, song vẫn
còn mức khá cao. Một điều đáng báo động là tỷ lệ khơng tìm được việc làm của
sinh viên tốt nghiệp cao đẳng và đại học tăng nhanh. Trong số những người thất
nghiệp, có 471 nghìn người có CMKT (chiếm 42,43%), nhiều nhất ở nhóm trình
độ “đại học trở lên” (218,8 nghìn người, tăng 16,5 nghìn người so với quý trước),
tiếp theo là nhóm “cao đẳng” (124,8 nghìn người, giảm 5,9 nghìn người) và “trung
cấp” (70,2 nghìn người, giảm 14,1 nghìn người). Số người thất nghiệp dài hạn (12
tháng trở lên) chiếm 24,0% tổng số người thất nghiệp. 54% số người thất nghiệp
chưa từng có việc làm (thất nghiệp lần đầu).Lao động khu vực nông thôn chiếm
88% số người thiếu việc làm. Đóng góp của lao động đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Quan điểm của Đảng về phát huy vai trò của nguồn lao động với
phát triển kinh tế
Qua hơn 30 năm đổi mới, trên cơ sở đánh giá thực tiễn và tổng kết lý luận,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: con người và các nguồn lực của con
người đóng vai trị quyết định sự phát triển của đất nước. Nhân tố con người được
đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của sự phát triển. Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng nhưng quan trọng
nhất vẫn là nhân tố con người.
18
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta xác định
mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…Nâng cao rõ rệt hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế…Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đến chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, với chủ đề Chiến lược là: “Khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức
mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm
20301 là nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao
và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm
bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế
số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài
hịa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi trường và thích ứng với biến đổi
khí hậu; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có
cơng, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số.
Lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu
quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trị
chủ yếu trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất, nhất
là đất đai. Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát
triển các sản phẩm, dịch vụ, mơ hình kinh tế mới. Phải coi trọng hơn quản lý phát
triển xã hội; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật, kỷ cương. Phát triển
nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế
tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
19
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự
cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ
thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa,
con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất
nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.
Xây dựng nền kinh tế tự chủ phải trên cơ sở làm chủ cơng nghệ và chủ
động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của
nền kinh tế. Phải hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham
gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu
hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ bên ngoài. Phát huy nội lực là yếu
tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại. Không ngừng tăng cường
tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng
vững mạnh và huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi
ích do hội nhập quốc tế mang lại.
Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi
trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm
cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có
cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh
tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập,
tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả
trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh tồn dân tộc, xây dựng xã hội phồn
20
vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an tồn, bảo đảm cuộc sống
bình n, hạnh phúc của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hịa bình, ổn định để phát triển
đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu
đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách phát triển, sử dụng lao động và tạo mở việc làm cho người lao động nhằm
thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế: Đó là việc ln quan tâm đến nâng cao chất
lượng nguồn lao động thông qua phát triển giáo dục và đào tạo và coi giáo dục đóng
vai trị then chốt. Cùng với KH-CN, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chú trọng các nội dung: mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả trong giáo dục và đào tạo;
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho nhân dân; đẩy mạnh công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình; bảo đảm cơng ăn việc làm cho dân là một mục tiêu
xã hội hàng đầu trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc; nâng cao dân trí, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực
thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng; nhà trường đào tạo
thế hệ trẻ theo hướng tồn diện và có năng lực chun mơn sâu, có ý thức và khả
năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, … Chủ trương
của Đảng, Nhà nước ta còn chú trọng đến điều chỉnh quy mô dân số nhằm đạt được
mục tiêu cơ bản, hướng đến phát triển nguồn lao động hợp lý về mặt số lượng.
Qua các kỳ Đại hội của Đảng đã tiến một bước dài trong tư duy phát triển
nguồn lao động, tại Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển nguồn nhân lực là
một trong ba đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
giỏi, đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân
và lao động lành nghề”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra
một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, về nhân cách,
21
lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh”.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh đến 3 đột phá
chiến lược: “Về thể chế, về nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao), về hệ thống kết cấu hạ tầng. Mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trong giai đoạn hiện nay, phát huy nhân tố con người luôn gắn liền với xây
dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội
nhập gia tăng thì mối quan hệ biện chứng này càng trở nên quan trọng.
Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, một
mặt, phục vụ trực tiếp sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; mặt
khác, xây dựng tiềm lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Trí tuệ là một
trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong
thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt,
khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri
thức hiện nay.
Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
con người, trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất
nước. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải có sức khoẻ, năng
lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ
quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Chú
trọng phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; đội ngũ nhân lực kỹ
thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh
nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đào
tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm cơng
dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin,
công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu); quan
tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo đảm cơng bằng
22
xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển; xây dựng và thực hiện một cơ
chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện
thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong các lĩnh vực.
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, việc ln nhận thức sâu
sắc vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều
kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế - xã
hội, đó là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, phải phát huy nhân
tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu
của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy
tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng
vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.
2. Một số giải pháp phát huy nguồn lực lao động với phát triển kinh tế
Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động và
giải quyết việc làm ở Việt Nam
* Nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục và đào tạo
* Khuyến khích phát triển sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng.
* Tạo lập và quản lý tốt thị trường lao động:
* Triển khai đồng bộ các nội dung của chiến lược dân số
- Ổn định quy mô dân số.
- Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu dân số..
- Nâng cao chất lượng dân số
Xu thế hội nhập và ứng dụng khoa học kỹ thuật ngày càng mạnh mẽ sẽ tác
động làm biến đổi thị trường lao động, cụ thể sẽ có nhiều ngành nghề, cơng việc
truyền thống, thủ cơng sẽ mất đi đồng nghĩa với việc người lao động ở các quốc
gia sẽ mất đi nhiều việc làm, cơ hội việc làm nhưng nó cũng mở ra cơ hội xuất hiện