MỞ ĐẦU
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Sản xuất kém phát triển, tăng trưởng
kinh tế bình quân 5 năm (1976-1980) chỉ đạt 0,4%, trong khi đó dân số tăng thêm
4,5 triệu người. Những năm (1981-1985), mặc dù, tổng sản phẩm xã hội tăng bình
quân 6,4% nhưng do dân số tăng hằng năm 2,3%, nên sản xuất vẫn không đủ tiêu
dùng. Các chỉ tiêu cơ bản như lương thực, thực phẩm, điện, than, xi măng, phân
bón, gỗ, vải, hàng xuất khẩu khơng đạt, hiệu quả sản xuất rất thấp.
Bên cạnh đó, phân phối, lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính sách
“ngăn sơng, cấm chợ”. Các cơng cụ địn bẩy kinh tế như chính sách giá cả, tiền tệ, tài
chính, tiền lương... đều khơng phát huy tác dụng, dẫn đến lạm phát gia tăng (trên 300%
năm 1985 và lên tới 774,7% năm 1986).
Những khó khăn về sản xuất và phân phối, lưu thông dẫn đến mất cân đối
lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng,
nguyên vật liệu, giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Một
số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham nhũng. Đời sống của
nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như ăn, nhà ở, thuốc men
không được đáp ứng. Trước tình hình đó, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, chính sách bao vây, cấm vận của Hoa Kỳ và các thế lực thù địch,
đặc biệt là bao vây, cấm vận về kinh tế tiếp tục gây ra những khó khăn, thách thức
đối với nước ta, cùng với đó, lợi dụng nững khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù
địch ra sức kích động, lơi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn
sóng người vượt biên trái phép đến các nuớc, các vùng trong khu vực như Malaixia,
Hồng Kông để đi tiếp những nước khác.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải ổn định kinh tế - xã hội, từng bước đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Đó là tiền đề để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và tình
trạng kém phát triển. Yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi cơ chế, chính sách, cơ cấu kinh
tế trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan,
những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm riêng
của đất nước, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan,
duy ý chí, nóng vội và cả những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong tư duy, quan điểm và
hoạt động thực tiễn.
NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI
MỚI ĐẤT NƯỚC.
1. Đường lối đổi mới
Trải qua q trình tìm tịi, khảo nghiệm thực tiễn kết hợp với đổi mới tư duy lý
luận, quan điểm và chính sách đổi mới của Đảng đã từng bước hình thành và thực
hiện từng phần. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong những năm 1975-1985, trong đó, có cả những sai lầm, khuyết điểm về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Trên cơ sở phân
tích sâu sắc những thành cơng và hạn chế sau 10 năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Nội dung đường lối đổi mới
được xác định trên những vấn đề cơ bản:
Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Lênin "coi nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", Các thành
phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự cung,
tự cấp. Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn.
2
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp, hành chính; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị
trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở, có sự giám
sát, quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là "xóa bỏ
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan
và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là
đặc trưng số 1 và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai.
Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương
thức hạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế:
Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể thống
nhất, có sự phân biệt rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp theo
nguyên tắc tập trung dân chủ: "Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế
của các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản
xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở". Thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế "Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ
không chỉ bằng đạo lý".
Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngồi thơng qua việc
cơng bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều hình thức, nhất là những
ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện
cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh,
Đổi mới chính sách văn hóa- xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ
bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù họp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên. Chú trọng phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người là mục đích cao cả nhất.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận
dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ
trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên
cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tư
tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân
3
làm gốc", phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và đổi
mới phong cách, phương pháp làm việc.
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong
quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đã tìm lối thốt cho cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đường lối đổi mới là sản phẩm và tư duy khoa học của toàn Đảng, toàn dân, thể
hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
2. Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới và Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới do Đảng tổng kết sáng kiến từ nhân dân để khởi xướng và
lãnh đạo đã tạo được niềm tin với nhân dân. Tuy nhiên, bước vào thực hiện công
cuộc đổi mới, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Kinh tế Việt Nam trong những năm đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới vẫn gặp
nhiều khó khăn. Cơ chế quản lý kinh tế chưa chuyển đổi kịp với sự thay đổi của nền
kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đang hình thành, do đó, kìm hãm tính
năng động, sáng tạo của cơ sở sản xuất - kinh doanh và người lao động cũng như sự
đầu tư của nước ngồi ở Việt Nam. Phân phối, lưu thơng vẫn là vấn đề nóng bỏng,
rối ren và nhiều ách tắc, lạm phát tiếp tục ở mức cao. Sản xuất nông nghiệp mất
mùa nên kỳ giáp hạt năm 1988, nhân dân hàng chục tỉnh, thành phố từ miền Trung
trở ra thiếu đói. Đời sống nhân dân lao động, nhất là lực lượng vũ trang, công nhân,
công chức, viên chức và đối tượng chính sách xã hội gặp nhiều khó khăn.
Hiệu lực quản lý của Nhà nước giảm sút, yếu kém. Thực hiện trật tự kỷ cương
và pháp luật (phép nước) bị vi phạm, đạo đức xã hội suy tồi, giảm sút, các hiện
tượng tiêu cực và những tệ nạn xã hội như tham nhũng, bn lậu, mại dâm, cờ bạc,
mê tín dị đoan… gia tăng.
Lợi dụng tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam gặp khó khăn, các thế lực thù
địch và nhiều phần tử bất mãn ở trong nước đã tăng cường hoạt động chống phá
cách mạng Việt Nam hòng cản trở và làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của cơng
cuộc đổi mới. Trên bình diện quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
Xơ ngày càng lún sâu vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Các thế lực thù
4
địch tiếp tục tiến hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam. Chúng đã sử
dụng những phương tiện hiện đại, một lực lượng khổng lồ các phương tiện truyền
thông đại chúng vào hoạt động tuyên truyền chống Việt Nam trên diễn đàn quốc tế,
đặc biệt là tại Liên hợp quốc. Chúng tiếp tục nuôi dưỡng các tổ chức phản động
trong một số người Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề Campuchia vẫn tiếp tục là con
bài mà các thế lực đế quốc và phản động quốc tế lợi dụng để chống Việt Nam; quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng do tranh chấp các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa, làm chậm tiến trình bình thường hố quan hệ giữa hai nước.
Được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch từ bên ngoài, bọn phản động
trong nước tăng cường hoạt động trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm
khơi dậy những mâu thuẫn, hận thù dân tộc, kích động tư tưởng địi “tự trị” dưới
các khẩu hiệu “Phục quốc Chămpa”, "Giải phóng Khmer Crơm”, “Người Khmer
hướng về Campuchia” “Giải phóng Cao ngun Đêga”, đòi tự trị cho 16 châu Thái,
gieo rắc sự hồi nghi đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, chia rẽ các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam. Hiện tượng xưng vua ở đồng bào dân tộc
Mông tái xuất hiện. Đầu năm 1988, bọn phỉ FULRO hoạt động trở lại.
Trước bối cảnh khó khăn, thách thức ở trong nước và quốc tế, Đảng Cộng sản
Việt Nam nêu cao bản lĩnh chính trị, tập trung tháo gỡ khó khăn về phân phối lưu
thơng và trong sản xuất. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VI (4-1987) họp bàn về vấn đề phân phối, lưu thông. Hội nghị đề ra những
chủ trương, biện pháp cấp bách về phân phối lưu thông: Về giá, thực hiện cơ chế
một giá; về lương, thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước; xác định mức
lương mới cho khu vực sản xuất, khu vực hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ
trang; về ngân sách, giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt bằng cách tăng
thu, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực.
Đồng thời, Hội nghị ra Nghị quyết về “Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh
tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế”.
Tháng 12-1987, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI họp Hội nghị lần
thứ 4 ra Nghị quyết về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 3 năm
1988 – 1990”. Hội nghị xác định: trong 3 năm (1988 – 1990), phải phấn đấu thực
5
hiện bằng được mục tiêu ổn định một bước tình hình kinh tế - xã hội, chuẩn bị
những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội những năm sau.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước không
ngừng cụ thể hóa, thể chế hóa, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới để từng
bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Nhiều quyết định, nghị quyết,
chính sách mới được ban hành và tổ chức thực hiện như: Quyết định số 217-HĐBT
ngày 14-11-1987 của Hội đồng Bộ trưởng về “Quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế
quốc doanh trong sản xuất kin
Tháng 5 – 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề như xu thế phát triển của
các nước lớn giảm chạy đua vũ trang, đẩy mạnh chạy đua về kinh tế; xu thế đấu
tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hịa bình; tình hình khu vực. Từ sự phân tích sâu
sắc những chuyển biến trong cục diện quốc tế, Nghị quyết xác định phương hướng
ưu tiên là giữ vững hịa bình và phát triển kinh tế; đồng thời, khẳng định chủ
trương: kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế; nhấn mạnh chính sách “thêm
bạn, bớt thù”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự chuyển hướng chiến
lược đối ngoại của Đảng. h doanh”; “Luật đầu tư nước ngoài” được Quốc hội khóa
VIII thơng qua, có hiệu lực từ ngày 1-1-1988; Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị
ngày 5-4-1988 về “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp”, đã quyết định
giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1989) đã nêu
rõ những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới:
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục
tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã
hội với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Chủ nghĩa Mác-Lênin ln ln là nền tảng tưtưởng của Đảng, chỉ đạo toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những
quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ
nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.
6
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm
tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chun chính
vơ sản.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật,
với ý thức trách nhiệm cơng dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân
chủ đúng hướng. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại
thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ
nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”.
Những nguyên tắc trên đây góp phần làm phong phú nhận thức của Đảng về
công cuộc đổi mới, là sự phát triển nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội,
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết quan trọng:
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (8-1989) ra Nghị
quyết về “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng”; Hội nghị lần thứ 8, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1990) ra Nghị quyết về “Đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12-9-1987về “Cuộc vận động làm trong sạch
và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh
các quan hệ xã hội”; Ban Bí thư ra Chỉ thị số 08-CT/TW, ngày 31-3-1992về “Tăng
cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác báo
chí, xuất bản”...
Trong cơng tác xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VI (6-1988) ra Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây
dựng Đảng”. Hội nghị chủ trương: Phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của
7
Đảng; đổi mới tư duy; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và
phong cách công tác; nâng cao giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất,
kiến thức và năng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ đi đôi với
tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Vượt qua những khó khăn, thách thức trong nước và thế giới, hơn bốn năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng là quá trình thể nghiệm, cụ thể hóa và
từng bước tổ chức thực hiện những định hướng lớn của Nghị quyết Đại hội. Thành
quả quan trọng đầu tiên trong việc thực hiện đường lối đổi mới là giữ vững sự ổn
định chính trị của đất nước. Trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng chính trị
và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Việt Nam
vẫn trụ vững và tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền kinh tế có những chuyển
biến tích cực với những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba
chuơng trình kinh tế. Từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã tự túc được lương thực và năm
1989, đã xuất khẩu khoảng 1,4 triệu tấn gạo. Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Hoạt động đối ngoại mở rộng, đẩy lùi tình trạng bị bao vây, cấm vận. Đời sống của
một bộ phận nhân dân được cải thiện, lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước được khơi phục và củng cố.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày
24 đến 27-6-1991, tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thảo luận và thống nhất những vấn
đề sau:
Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là sự lựa chọn đúng đắn.
Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt con người ở vị trí
trung tâm. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Áp dụng cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trị quan trọng trong cơng cuộc đổi mới trên
cơ sở xác định đúng nội dung, bước đi thích hợp.
8
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động.
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh khẳng định những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và
đúc kết năm bài học kinh nghiệm; xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam:
Do nhân dân lao động làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
tựdo, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”1.
Đại hội đề ra 7 phương hướng xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời,
khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đánh dấu bước trưởng thành mới của
Đảng. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
đặc điểm của Việt Nam và đề ra những giải pháp đưa Việt Nam thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn.
Sau Đại hội VII, Đảng và Nhà nước tập trung xây dựng và phát triển nền kinh
tế theo cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới, chuyển mạnh từ nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung, hành chính, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Tháng 6-1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
đã ra nghị quyết về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Đây là lần đầu tiên
1
9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết chuyên đề về đối ngoại. Trên cơ sở
phân tích tình hình thế giới, Đảng đề ra nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trên tinh thần giữ vững độc lập tự
chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chú trọng đến phát triển nông nghiệp và cơng
nghiệp nhằm khắc phục những khó khan trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (6-1993) họp bàn và
ra Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đến năm
2000”. Hội nghị đề ra ba mục tiêu chủ yếu nhằm đổi mới và phát triển kinh tế - xã
hội nông thơn đến năm 2000, trong đó, nhấn mạnh: Xây dựng nơng thơn mới có kinh
tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã
hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nơng dân, có hệ thống chính trị vững
mạnh; phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đồn kết và ổn định
chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7-1994) ra
Nghị quyết về “Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”.
Hội nghị xác định 6 quan điểm cơ bản của sự nghiệpcơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
(1) Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa; (3) Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là
sự nghiệp của tồn dân, của mọi thành phần kinh tế; (4) Phát huy yếu tố con người
là yếu tố cơ bản của sự phát triển; (5) Khoa học - công nghệ là nền tảng của cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; (6) Hiệu quả kinh tế - xã hội là thước đo của sự phát triển
bền vững.
Cùng với đổi mới chính sách kinh tế, nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị được
chú trọng thực hiện. Tháng 6-1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII ban hành Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng”. Hội nghị nhấn mạnh cải cách một bước bộ máy Nhà nước và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.
10
Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII của Đảng (1-1994) nêu rõ
quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hội nghị khẳng định
thành tựu đổi mới, đồng thời nêu rõ bốn nguy cơ, thách thức: “Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát
thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi
trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc
phục được những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã
hội khác; âm mưu và hành động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch”.
Hội nghị xác định những nhiệm vụ chủ yếu đến năm 1996: Thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần; xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VII ban hành Nghị
quyết về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Hiến pháp năm 1992
được thực hiện trên cơ sở thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng.
Sau mười năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện (1986-1995) và 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VII (1991-1995), Việt Nam đã vượt qua một giai đoạn
thử thách gay gắt. Trong hồn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân Việt Nam
khơng những đứng vững, mà cịn thu được những thành tựu quan trọng: Hoàn thành
về cơ bản nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra.
Đảng đã lãnh đạo khắc phục được tình trạng đình trệ trong sản xuất và rối ren
trong phân phối, lưu thông. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ tăng tổng sản phẩm
(GDP) bình quân hằng năm giai đoạn 1991-1995 đạt 8,2%. Lạm phát giảm từ
774,7% (năm 1986) xuống 67,1% (năm 1991) và 12,7% (năm 1995). Nhiều cơng
trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng. Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách
đồng bộ và hiệu quả hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ
ngày 28-6-1996 đến ngày 1-7-1996, tại Thủ đơ Hà Nội. Đại hội có nhiệm vụ tổng
11
kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và đề ra phương hướng đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996), Đại hội khẳng định: “Nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm
vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho cơng
nghiệp hóa đã cơ bản hồn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn”. Đại hội tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp
theo trong thời kỳ quá độ.
Thứ hai: chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Thứ ba: coi đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Thứ tư: làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần.
Thứ năm: khẳng định tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ bảy: xác định phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là
quốc sách hàng đầu.
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội ccoong bằng, văn minh”.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VIII, trong những năm 1996 - 2000, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục đưa ra các chủ trương để đẩy mạnh sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII (12-1996)
thảo luận và ra Nghị quyết về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
và chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa”; Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (6-1997)
ra Nghị quyết về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch
12
vững mạnh và Chiến lược cán bộ”. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (12-1997) ra Nghị quyết về “Phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Cùng với việc coi trọng phát triển kinh tế, Đảng chủ trương phải hết sức coi trọng
phát triển văn hóa và thực hiện các chính sách xã hội. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII (7-1998) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đó là chiến lược văn hóa
trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần
chấn hưng nền văn hóa dân tộc. Cùng với chiến lược giáo dục, đào tạo đã được thông
qua tại Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nghị quyết Trung
ương 5, khóa VIII tập trung vào việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Sự phát triển của cơng cuộc đổi mới có nhiều thành cơng, đồng thời cũng bộc lộ
những tiêu cực trong lãnh đạo quản lý ở các cấp trong hệ thống chính trị. Tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu đã gây bất bình trong nhân dân ở một số địa phương.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII họp tháng 1-1999 ra nghị
quyết về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”.
Hội nghị cho rằng, thế và lực của Việt Nam ngày càng được tăng cường, tuy nhiên,
trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng
tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng
phát triển nghiêm trọng; việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm; bộ
máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Từ thực trạng đó,
Hội nghị yêu cầu các tổ chức Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến
cơ sở phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp
tục củng cố, chỉnh đốn để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.
Những năm 1996-2000, là giai đoạn toàn Đảng, toàn dân bước vào sự nghiệp
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Trong hoàn cảnh phải đối diện
với 4 nguy cơ, đồng thời, phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; khách quan
phát sinh từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực từ nửa cuối năm
1997 cùng những thiệt hại to lớn do thiên tai gây ra nhưng với những phương
hướng phát triển đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những
13
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, tạo thế và lực của đất nước lên một tầm cao
mới.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế thế giới được
tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt. Năm 1998, Việt Nam tham gia
Diễn đàn kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Năm 2000, Liên hợp quốc ra
Tuyên bố thiên niên kỷ với 8 mục tiêu.Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện các
mục tiêu thiên niên kỷ, đặc biệt là mục tiêu xóa bỏ tình trạng đói nghèo cùng cực.
Tồn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII. Nhiều quyết sách, nhất là về chiến
lược cán bộ, xây dựng Đảng đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong thực
hiện các nhiệm vụ giai đoạn 1996-2001, đồng thời, có tầm ảnh hưởng và định
hướng lâu dài cho các giai đoạn sau. Nền hành chính nhà nước tiếp tục được cải
cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục được đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động. Một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân
chủ của nhân dân bước đầu được thực hiện.
Những thành tựu đạt được củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo nền tảng
vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần cho sự phát triển của đất nước trong thiên
niên kỷ mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô
Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001. Đại hội đã tổng kết và khẳng định ba thắng
lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và dự báo sự
phát triển trong thế kỷ XXI.
Đại hội chủ trương phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
nhằm xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Đại hội xác định mơ hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ là kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội đề ra Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
14
hóa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX (8-2001) chủ
trương tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước. Trung ương Đảng chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 tại Hội nghị
lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX (11-2001). Đặc biệt, nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX (3-2002) ban hành một số nghị
quyết quan trọng về: “Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”;
“Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh
tế tư nhân”; “Đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn”;“Đổi mới, nâng cao vai trị hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn”; “Tăng cường cơng tác lý luận trong tình hình mới”…
Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, (phần 1),
11-2002, Trung ương Đảng đã quyết định về các dự án Thủy điện Sơn La, Cụm khí
- điện - đạm Cà Mau và Hội nghị (phần 2) ban hành Nghị quyết về “Phát huy sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”; và Nghị quyết về “Công tác dân vận, công tác tôn giáo”, Nghị
quyết về “Đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai”. Trên cơ sở đó, năm 2003,
Quốc hội ban hành Luật đất đai mới. Đảng và Nhà nước coi trọng cơng tác với
người Việt Nam ở nước ngồi với những chính sách cụ thể.
Tiếp đó, Phương hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được
đề ra tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX (7-2003)
với ba phương châm và sáu nhiệm vụ cơ bản.
Trong 5 năm (2001-2005), Việt Nam đã vượt qua thời kỳ suy giảm kinh tế, tốc
độ tăng trưởng GDP đạt 7,51%. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 640
USD. Chương trình 135 của Chính phủ và Chương trình 134 đạt hiệu quả tích cực.
Văn hóa - xã hội đạt được những tiến bộ nhiều mặt; phát triển kinh tế gắn với giải
quyết các vấn đề xã hội và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Chính trị, xã hội
ổn định, quốc phịng - an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát
triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả
ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
15
tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực. Cơng tác
tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về đổi mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa
được chú trọng, nhất là tổng kết 20 năm đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 25-42006, tại Thủ đô Hà Nội. Tổng kết 20 đổi mới, Đại hội khẳng định: Nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ; hệ thống
luận điểm về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đại hội tiếp tục
khẳng định chủ trương phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng
cuộc đổi mới, đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để chuẩn bị cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , Đại hội tiến hành thảo luận để bổ sung các đặc
trưng mới và bổ sung, phát triển nội dung 6 đặc trưng đã được xác định từ năm 1991.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng
Năm 2006, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển thắng lợi, tăng trưởng kinh
tế tiếp tục ở mức cao. Ngày 7-11-2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện quan trọng này mở ra cơ hội để Việt
Nam hội nhập sâu rộng với thế giới và tạo điều kiện để phát huy mọi tiềm năng, thế
mạnh của đất nước.
Để nâng cao sức chiến đấu, đòi hỏi phải xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (7-2006) ra
Nghị quyết về “, lãng phí” với những quan điểm chỉ đạo và những phương pháp cơ
bản. Ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về mở cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Khi Việt Nam trở
thành thành viên WTO, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X
(1-2007) ra Nghị quyết về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững”, Nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”
làm cho Việt Nam thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
16
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (7-2007) ban hành Nghị quyết về
“Cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, nêu rõ những nội dung
lớn trong nghiên cứu, tổng kết lý luận; Nghị quyết về “Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng”; về “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị”, về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước”.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức đặt ra nhiều vấn đề về tổ chức và
hệ thống pháp luật. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (12008) ra Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”; về “Tiếp tục hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (7-2008) ban hành Nghị
quyết về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Nghị quyết về “Nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thơn”; Nghị quyết về ‘Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (10-2008) quyết
định nhiều vấn đề quan trọng để ổn định kinh tế-xã hội. Trong đó, chú trọng phát
triển sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, mở rộng thị trường trong nước, phát
huy nội lực để vượt qua khó khăn. Năm 2008, vị thế của Việt Nam trong quan hệ
quốc tế được đề cao khi Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc và đảm nhiệm Chủ tịch Hội đồng bảo an luân phiên. Năm
2010, Việt Nam hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và 25 năm
tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan
trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Nền kinh tế Việt Nam vượt
qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mơ cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ
tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên. Tốc độ tăng trưởng bình
17
quân 5 năm (GDP) của Việt Nam đạt 7%; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần năm 2000. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi; chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng
cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề
quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 12
đến ngày 19-1-2011 tại Thủ đô Hà Nội. Tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 10 năm
thực hiện Chiến lược kinh tế- xã hội 10 năm (2001- 2010), Đại hội khẳng định:
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém
phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình.
Đại hội thảo luận và đưa ra những quyết sách quan trọng, trong đó có các văn
kiện: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, Báo
cáo Chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết những thắng lợi và những bài học chủ yếu
của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX; nêu bật quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Từ
thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011 nêu rõ:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
18
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh xác định: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước
ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Cương lĩnh nêu tám phương hướng để xây dựng và phát triển đất nước, trong
đó, nhấn mạnh đến việc nắm vững và và giải quyết các mối quan hệ lớn: Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội;
giũa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ…
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 làm rõ hơn những vấn đề về hệ thống
chính trị và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó, khẳng định vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng và
trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết sâu sắc, tồn diện q trình tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và là bước phát triển mới cả về thực tiễn và
nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Cương lĩnh dẫn dắt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới và
bảo đảm cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đã
cụ thể hóa và lãnh đạo thực hiện Cương lĩnh và Chiến lược kinh tế - xã hội do Đại
hội XI đề ra. Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI (72011) cho ý kiến về vấn đề sửa đổi Hiến pháp 1992. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, khóa XI (10-2011) quyết định những vấn đề kinh tế, xã hội
5 năm (2011-2015) và quyết định những vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ
hình tăng trưởng kinh tế, nhất là cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống
ngân hàng.
19
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI (12-2011) ra
nghị quyết về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ” và Nghị quyết “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết chỉ rõ: kiên quyết đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền.
Năm 2012, tồn Đảng và cả hệ thống chính trị đã tiến hành tự phê bình và phê
bình theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI kết hợp chặt chẽ với thực
hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Hội nghị lần thứ 5 (5-2012) ra kết luận chỉ đạo vấn đề sửa đổi Hiến pháp 1992;
về“Chính sách, pháp luật đất đai và sửa đổi Luật đất đai; vấn đề phịng, chống
tham nhũng, lãng phí” và “Một số chính sách xã hội và tiền lương 2012-2020”.
Hội nghị lần thứ 6 (10-2012) ra các Nghị quyết về: Cơ cấu lại các doanh nghiệp
nhà nước, tập đoàn kinh tế;“Phát triển khoa học và cơng nghệ phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” .Hội nghị lần thứ 7 (6-2013) ra Nghị quyết số
23/NQ-TW về “Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác dân
vận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 24/ NQ-TW về “Chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu,tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” . Hội nghị
lần thứ 8 (11- 2013) ra Nghị quyết về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hội nghị lần thứ 9 (62014) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Từ ngày 21 đến ngày 27-1-2016, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia (Thủ đô Hà
Nội), diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
20