Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM với QUÁ TRÌNH đổi mới tư DUY KINH tế GIAI đoạn 1979 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.31 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế là một trong những lĩnh vực rất cơ bản, có tầm quan trọng đặc
biệt đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người . trong xã hội có giai
cấp, cơ sở kinh tế có ý nghĩa quyết định đến kiến trúc thượng tầng chính trị và
tồn tại xã hội. Chính vì vậy, tư duy, đường lối, chính sách kinh tế của mỗi giai
cấp, chính đảng cầm quyền bao giò cũng giữ vị trí nền tảng quan trọng, là nhân
tố xét đến cùng chi phối và quyết định trình độ phát triển kinh tế cua mỗi quốc
gia, dân tộc và mỗi chế độ xã hội.
Đối với Việt Nam, trong quá trình tồn tại và phát triển, chúng ta đã kiến
tạo nên một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước rất đặc trưng của xứ sở
nhiệt đới Đông Nam á. Đặc biệt, từ khi có đảng đến nay, trên cơ sở phát huy
truyền thống, sức sáng tạo của nhân dân trong lao động sản xuất, nền kinh tế
độc lập tự chủ của đất nước ngày càng được xây dựng và củng cố, góp phần to
lớn tạo nên thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho cả nước quá độ lên CNXH.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới trên đất nước ta
đã và đang giành được những thành tựu to lớn, rất quan trọng, đưu nước ta ra
khoie khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước sang thời kỳ phát triến mới, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thắng lợi của cách mang Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân hàng
đầu quan trọng nhất và quyết định nhất là do đảng ta có đường lối độc lập, tự
chủ và sáng tạo. Trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bằng bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng ta đã
thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, hoạch định đường
lối đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.



2

Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta
lâm vào cuộc khung hoảng kinh tế. Nhưng cũng chính vào thời điểm đó, cuộc
cách mạng khoa học- công nghệ trên thế giới phát triễn mạnh mẽ; CNTB hiện
đại có sự điều chỉnh thích nghi và có bước phát triển mới; hệ thống XHCN lâm
vào khủng hoảng, xu hướng cải cách, cải tổ đã diễn ra; chủ nghĩa chống cộng
và các lực lượng thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ điên cuồng chống phá cách
mạng thế giới bằng việc đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn
lật đổ, chĩa mũi nhọn vào các nước XHCN, Việt nam là một trọng điểm…Thực
tiễn lịch sử trên đòi hỏi Đảng ta phải tìm tòi, đổi mới tư duy lý luận và TDKT
nhằm lãnh đạo đất nước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức trước mắt,
tìm kiếm con đường thích hợp đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Thực chất
đây là một qúa trình từng bước chuyển hoá tư duy, đường lối cũ, giáo điều máy
móc sang tư duy mới khoa học biện chứng; từ bảo thủ, trì trệ sang canh tân, đổi
mới. Quá trình đó diễn ra trong suốt những năm 1979-1986, góp phần trực tiếp
hình thành đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình
đổi mới tư duy kinh tế từ năm 1979 đến trước Đại hội VI (12/1986)” làm luận
tốt nghiệp cử nhân, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đổi mới tư duy và TDKT là một vấn đề lớn, quan trọng hàng đầu trong sự
nghiệp đổi mới của Đảng ta. Chínhvì vậy, đây là khía cạnh được nhiều người
quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta có nhiều bài viết về vấn đề này,
tiêu biểu như: Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi đòi hỏi bức thiết của đất
nước và của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội; Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới
tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội; Đào Duy Tùng (1998), Quá trình
hình thành con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn



3

Đức Bình (2003), Về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt N am, Nxb
CTQG, Hà Nội…
Có những công trình nghiên cứu dưới dạng sách chuyên luận, chuyên
khảo, báo chí, tham luận khoa học đề cập đến vấn đề trên, điển hình như: Hữu
Thọ (1987), Đổi mới tư duy-Nông nghiệp phải thực sự là mặt trận kinh tế hàng
đầu, Nxb Sự thật, Hà Nội; Nguyễn Sinh Cúc (1991), Thực trạng nông nghiệp,,
nông thôn và nông dân Việt Nam 1976-1990, Nxb Thống kê, Hà Nội; Lê Đăng
Doanh (1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt
nam, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học kinh tế, Nxb CTQG, Hà Nội…
Dưới góc độ chuyên ngành Lịch sứ Đảng đã có một số đề tài, luận văn,
luận án nghiên cứu về đổi mới kinh tế và TDKT như: Đoàn Ngọc Hải (1995),
Công cuộc đổi mới với sự phát triển nhận thức về con đường xây dựng CNXH
của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986-1994), Luận án Phó Tiến sĩ khoa học
Lịch sử, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Văn Lượng (2001),
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đổi mới từng phần, tiến lên đổi mới toàn
diện,, đồng bộ và triệt để thời kỳ 1979-1986, Luận văn cao học, Học viện
Chính trị quân sự; Nguyễn Văn Sự (2006),Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
công cuộc đổi mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội từ 1986
đến 1996, Luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
Hà Nội… Song, các công trình đó chủ yếu đề cập tới quá trình đổi mới nói
chung, chưa đi sâu luận giải và làm sáng tỏ quá trình đổi mới TDKT với tư
cách là một vấn đề nghiên cứu cụ thể. Tuy vậy, đó cũng là những tài liệu quý
và là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiêm cứu của đề tài
* Mục đích:

Làm sáng tỏ cơ sở khoa học của quá trình đổi mới TDKT, trên cơ sở đó
khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kinh tế do Đảng ta hoạch


4

định và lãnh đạo; đồng thời đúc rút những kinh nghiệm bước đầu ứng dụng vào
các thời kỳ tiếp theo.
* Nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ tính tất yếu của quá trình đổi mới TDKT của Đảng từ 1979
đến 1986.
- Trình bày quá trình nhận thức và chỉ thực tiễn đôir mới TDKT của Đảng
từ 1979 đến trước đại hội VI (12/1986).
- Đánh giá những thành tựu, khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân và rút ra
mọtt số kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới TDKT thời kỳ
1979-1986.
4. Đối tượng, phạm vi ngiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đường lối, chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng trong quá trình đổi mới TDKT.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung làm sáng tỏ quá trình đổi mới
TDKT của Đảng từ 1979 đến trước Đại hội VI (12/1986).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Nghiên cứu trình bày đề tài này,tác dựa trên cơ sở lí luận chủ nghĩa MácLênin,tư tưởng Hồ Chí Minh,đường lối quan điểm và chính sách kinh tế của
Đảng công sản Viêt Nam
*Phương pháp nghiên cứư
Đề tài chủ yếu sử dụng phươnh pháp lịch sử,phương pháp lô gíc và kết
hợp chạt chẽ hai phương pháp đó,Ngoài ra,còn sử dụng một số phương pháp
như:phân tích,tổng hợp,thống kê,so sánh đồng đại,lịch đại,phương phap chuyên
gia…

6 ý nghĩa đề tài
-Kêt quả nghiên cứu bước đầu của đề tài có thể lam cơ sở tổng kết qua
trình Đảng lãnh đạo và chỉ đạo hoat động kinh tế trong công cuộc đổi mới


5

-Đề tài sẽ là tài kiệu tham khảo phục vụ nghiên cứu,giảng dạy môn lịch
sử Đảng công sản Viêt Nam trong các nhà trương quân sự
7 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo,phụ lục,đề tài
kết cấu thành 2 chương,4 tiết
Chương 1
TÍNH TẤT YẾU VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ CỦA
ĐẢNG TỪ 1979 ĐẾN 1986
1.1 Tính tất yếu đổi mới tư duy kinh tế của Đảng.
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chi Minh về
tư duy kinh tế trong TKQĐ lên CNXH.
TDKT mới, khoa học biện chứng là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong
hoạt động nhận thức và lãnh đạo kinh tế của chính đảng vô sản. Nói đến TDKT
là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật kinh tế khách quan, nói đến việc suy
nghĩ theo đòi hỏi của các quy luật đó và áp dụng phù hợp với điều kiện cụ thể
của đất nước; là quá trình tìm tòi sáng tạo các ý kiến mới, các biện pháp và
cách làm mới nhằm mang lại hiệu quả trong thực tiễn.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, trình độ sản xuất vật
chất hay sức mạnh kinh tế là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ phát triển
của xã hội loài người, đồng thời cũng là nhân tố cơ bản quyết định cuối cùng sự
thắng lợi của một chế độ xã hội nhất định. Và, CNXH muốn chiến thắng được
CNTB, muốn xác lập được sự tồn tại của mình, tất yếu phải tạo ra một năng
suất lao động lớn hơn, phải phát triển một nền kinh tế đạt trình độ cao trên cơ

sở của chính nó.
Ngay từ rất sớm, C.Mác và Ph. Ăngghen đã dự đoán rằng, trong thời đại
ngày nay, khoa học sẽ trở thành LLSX trực tiếp. Vì thế, hai ông đòi hỏi các
đảng cộng sản trong quá trình xây dựng CNXH cùng với việc cũng cố và hoàn
thiện QHSX XHCN, phải ưu tiên phát triển LLSX, khai thác và sử dụng mọi


6

nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quan trọng và quyết định
nhất, đặc biệt với các nước kém phát triển quá độ lên CNXH.
C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cơ sở kinh
tế và sự tác động biện chứng của nó đối với ý thức xã hội, đến TDKT của giai
cấp và nhà nước. Theo các ông, cơ sở kinh tế bao giờ cũng quyết định và chi
phối ý thức xã hội. Vì vậy, yêu cầu khách quan đổi mới TDKT của mỗi giai
cấp, chính đảng và nhà nước bao giờ cũng bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, từ thực
trạng kinh tế của mỗi nước. Bởi vì, khi “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái
kiến trúc thượng từng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng [34,15].
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, C.Mác đã chỉ rõ: “Những người cộng
sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: Xoá
bỏ chế độ tư hữu” [33, 616]. Đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng,
trong khi xem xét tiến trình vận động của lịch sử xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra cho những người cộng sản rằng, việc xoá bỏ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất phải là một sự nghiệp lâu dài và không hề đơn giản.
Chính hai ông đã rất thận trọng trong việc tìm những cách thức phù hợp để xoá
bỏ chế độ tư hữu ở các nước Tây Âu. Theo C.Mác, bên cạnh các biện pháp đột
biến, bằng cách quốc hữu hoá toàn bộ các cơ sở kinh tế lớn của giai cấp tư sản
để tập trung trong tay nhà nước, cũng cần thiết phải tiến hành đồng thời những
biện pháp cải tạo dần dần, từng bước; rằng: Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị
của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản. Xoá bỏ

chế độ tư hữu và sở hữu tư nhân TBCN là một quá trình lịch sử do chính quy
luật khách quan quyết định. Tư tưởng cơ bản đó còn được phản ánh cụ thể
trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, khi trả lời câu hỏi:
“Liệu có thể xoá bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph. Ăngghen
quả quyết: “Không, không thể được, cũng như không thể làm cho LLSX có tăng
lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu; cho
nên... chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo


7

nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi
ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu” [33, 469]. Đối với thời đại sau C.MácPh.Ăngghen sống và đối với các nước trình độ phát triển thấp kém, TDKT trên
đây của các ông vẫn còn sức sống khoa học và giá trị thực tiễn, chỉ khác ở hình
thức, biện pháp thực hiện chủ trương ấy mà thôi. Vì thế lời căn dặn của các ông
rằng “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy sẽ dĩ nhiên khác nhau
rất nhiều” [33, 627], đối với mỗi chúng ta hiện nay - vẫn còn có giá trị thực
tiễn quý báu. Đặc biệt, đối với những nước mà nền sản xuất nhỏ là phổ biến,
tiến lên CNXH thì quá trình xoá bỏ tư hữu, cải tạo các thành phần kinh tế càng
lâu dài và phức tạp hơn. Nếu không nhận thức được vấn đề này mà nóng vội
xoá bỏ ngay, xoá bỏ sớm sở hữu và các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư
nhân TBCN - là trái với quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát
triển của LLSX.
V.I.Lênin, lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tiếp tục
sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã có những dự báo khoa học và phát
triển TDKT mácxít trong TKQĐ lên CNXH.
Trước hết, theo Lênin, đặc điểm kinh tế nổi bật nhất trong TKQĐ là “còn tồn
tại nhiều thành phần kinh tế”, nghĩa là còn tồn tại cả hai kết cấu kinh tế - xã
hội: TBCN và XHCN. Các thành phần kinh tế này đan xen, hổ trợ, tác động lẫn
nhau cả trong sản xuất và lưu thông, cả trên quy mô sản xuất, trình độ kỷ thuật,

lợi ích kinh tế. Khẳng định luận chứng đó, Lênin chỉ ra trong TKQĐ còn tồn tại
năm thành phần kinh tế là: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; Sản xuất hàng
hoá nhỏ; CNTB tư nhân; CNTB nhà nước; CNXH nhà nước [37, 248].
Về hình thức, theo Lênin, quá độ lên CNXH ở những nước khác nhau không
giống nhau. Đối với những nước CNTB trung bình như nước Nga phải có bước
quá độ phức tạp mới đi lên CNXH. Còn đối với những nước tiểu nông sản xuất
nhỏ thì phải quá độ gián tiếp, phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên
qua CNTB nhà nước tiến thẳng lên CNXH. Nếu không có điều kiện đó, theo


8

Lênin, sẽ không thực hiện thắng lợi bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, xét
trên phương diện kinh tế.
Về thời gian, theo Lênin, TKQĐ là thời kỳ trải qua những “cơn đau đẻ” kéo
dài; càng là nước tiểu nông bao nhiêu thì TKQĐ lên CNXH càng dài bấy nhiêu.
Song, nếu nhận thức được quy luật, xác định mục tiêu, đề ra chính sách đúng
đắn cho từng thời kỳ, biết tranh thủ yếu tố thời đại thì khả năng rút ngắn TKQĐ
về kinh tế là rất có thể. Điều này tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào TDKT của
giai cấp lãnh đạo. Vì vậy, vấn đề mấu chốt có thể rút ra đối với những người
cộng sản từ những chỉ dẫn của Lênin là: Xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật và
cải tạo các thành phần kinh tế trong TKQĐ là một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn,
phức tạp, phải có hình thức, con đường, biện pháp phù hợp, không thể nóng vội
làm trái quy luật.
Cùng với việc chỉ ra đặc trưng kinh tế nổi bật, Lênin còn là người đầu tiên
“thiết kế lý luận”, xác định rõ những nhiệm vụ kinh tế cơ bản mà nhà nước
XHCN phải tiến hành trong TKQĐ, đó là:
- Sử dụng và cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng CNXH;
- Xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH bằng cách tiến hành công nghiệp
hoá XHCN;

- Xây dựng hệ thống kinh tế và quản lý kinh tế trong TKQĐ.
TDKT mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH của giai cấp vô sản còn
được minh chứng sinh động qua thực tiễn nước Nga. Sau Cách mạng Tháng
Mười, Lênin và Đảng Bônsêvích thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến”
(1918- 1920), một giải pháp tình thế để thích ứng với tình trạng không bình
thường của nền kinh tế mà nhờ đó, nước Nga đứng vững được trước vô vàn thử
thách. Song việc áp dụng quá lâu chính sách đó đã chứa đựng những sai lầm về
lý luận mà sau này chính Lênin đã dũng cảm tự phê phán và quyết tâm từ bỏ.
Mùa xuân 1921, TDKT mới của Đảng Bônsêvích Nga được hình thành với việc
áp dụng “Chính sách kinh tế mới” (NEP) thay cho “Chính sách cộng sản thời


9

chiến” vốn chứa đựng nhiều yếu tố không phù hợp và kìm hãm sản xuất, mở
đầu thời kỳ cải cách.
Trong NEP, Lênin đã chỉ ra những sai lầm trước đó của Đảng Bônsêvích trong
lãnh đạo kinh tế, đó là: Đã áp dụng phương thức mệnh lệnh hành chính tập
trung quan liêu, chỉ thiên về ý chí chủ quan và quyền lực nhà nước để xây dựng
cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH theo kiểu trực tiếp, đi ngay tới chủ nghĩa
cộng sản; không tính đến sự chế ước của hoàn cảnh lịch sử của nước Nga lạc
hậu; không chú trọng thực hiện lợi ích của người lao động - mà họ là cả một
biển lớn những người tiểu nông đang mong đợi lợi ích thường nhật hằng ngày
sau cách mạng. Rõ ràng, nhận thức sai quy luật, hoạt động không đúng quy luật
khách quan thì tất yếu nền kinh tế sẽ trì trệ và khủng hoảng sẽ phát sinh.
Lênin đã chỉ rõ: Cần phải chuyển sang mô hình quá độ gián tiếp cho phù hợp
với sự phát triển rút ngắn bằng cách quan tâm đến lợi ích thiết thân của người
lao động, phát triển sản xuất, kinh tế hàng hoá, dùng đòn bẩy lợi ích kinh tế, áp
dụng các biện pháp táo bạo vào mục đích xây dựng CNXH. Tuy nhiên, “chính
sách kinh tế mới không thay đổi kế hoạch kinh tế thống nhất của nhà nước và

không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó, nhưng thay đổi biện pháp thực
hiện kế hoạch đó” [37,131]. Lênin đặc biệt đề cao vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước và nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng mặt tích cực của kinh tế tư
bản nhà nước để xác lập cơ sở kinh tế trong TKQĐ lên CNXH.
Như vậy, với NEP, những người cải cách như Lênin đã thay đổi căn bản những
quan niệm trước đây về CNXH. Và, những tư tưởng cơ bản của Lênin về NEP
vẫn là những chỉ dẫn lý luận cần thiết; kinh nghiệm thực hiện NEP ở nước Nga
vẫn là sự “khai sáng” cho các nước đang trong tiến trình xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật của CNXH, trong đó có nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở kế thừa và phát triển TDKT khoa học biện
chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã hình thành những tư tưởng kinh tế
mới trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam. Ngay từ thời kỳ cùng Trung ương Đảng


10

lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc chống thực dân Pháp xâm lược,
Người đã chủ trương phải phát triển một nền kinh tế quốc gia vững mạnh với
sáu thành phần, đó là:
“- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô;
- Kinh tế quốc doanh có tính chất XHCN;
- Kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông
thôn, có tính chất XHCN;
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ;
- Kinh tế tư bản tư nhân;
- Kinh tế tư bản quốc gia” {30,229}
Chủ trương phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần như vậy, theo Người
nhằm hai mục đích căn bản: Một là, về kinh tế, thực hiện củng cố mối quan hệ
sản xuất giữa các giai cấp, thành phần nhằm đôi bên cùng có lợi; hai là, đoàn
kết và phát huy tối đa sức mạnh kinh tế của toàn dân phục vụ kháng chiến và về

lâu dài nhằm xây dựng chế độ mới dân chủ nhân dân theo con đường XHCN.
Quan niệm về sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần còn được Người
phát triển rõ thêm trong hiện thực xây dựng CNXH ở miền Bắc. Người chỉ rõ
đặc điểm “to nhất” của miền Bắc khi đi lên CNXH là từ một nền nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN.
Căn cứ khách quan đó quy định tính chất phức tạp, khó khăn của sự nghiệp cải
tạo và xây dựng kinh tế CNXH. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
đến việc tìm kiếm và lựa chọn hình thức, bước đi phù hợp trong phát triển kinh
tế XHCN: “Chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo
tốc độ nào để tiến dần lên CNXH” [31, 494]. Người đòi hỏi phải có kế hoạch rõ
ràng, kế hoạch lập ra phải chắc chắn và cân đối; chớ đem chủ quan của mình
thay cho thực tế. Về cách làm, “muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm,
thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh
nghiệm ấy một cách sáng tạo” [31, 494]; chống dập khuôn, giáo điều, chủ quan


11

duy ý chí. Người đưa ra kết luận: Nếu muốn công nghiệp hoá gấp thì là chủ
quan; cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp; làm trái với Liên Xô
cũng là mácxít. Mặt khác, theo Người, chúng ta cũng không máy móc theo kinh
nghiệm của Trung Quốc: “Trước mắt, chúng tôi không định tổ chức “công xã
nhân dân”. Chúng tôi có kế hoạch hợp tác nông thôn, tăng gia sản xuất và cải
thiện hơn nữa đời sống của nhân dân” [38, 308- 309]. Trong chỉ đạo phát triển
kinh tế, Người luôn nhắc nhở phải có cách làm thiết thực, không nên tổ chức
quá to, vì quá to khó làm, mà làm sẽ chệch choạc dễ thất bại.
Trong tiến trình xây dựng cơ sở kinh tế cho CNXH, Hồ Chí Minh coi phát triển
khoa học và kỹ thuật là một trong những điều kiện then chốt để xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu. Người nhận định rằng: “Thời đại chúng ta bây giờ là thời đại
vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển rất mạnh, thời đại

XHCN” [38, 174]; cho nên, muốn “xây dựng CNXH phải có máy móc, phải có
kỹ thuật...” [39, 621]. Năm 1946, trong cuộc họp báo tại biệt thự Roayan
Môngxô (Pháp), Người nói: “Muốn cho CNCS thực hiện được cần phải có kỹ
nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển khả năng của mình.
Ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ” [40, 272].
Hồ Chí Minh đánh giá cao tầm quan trọng của nông nghiệp trong phát triển
kinh tế XHCN. Theo Người, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật của nền công
nghiệp phải hướng vào sự phát triển nông nghiệp, làm cho nông nghiệp phát
triển toàn diên, vững chắc, bảo đảm lương thực cho toàn xã hội. Người chỉ rõ:
“Muốn ăn no, muốn xây dựng CNXH, phải chú trọng nông nghiệp. Vì không có
ăn chẳng làm gì được, như tục ngữ có câu: “Có thực mới vực được đạo”, cho
nên chúng ta xây dựng CNXH, phải chú trọng xây dựng nông nghiệp và công
nghiệp” [t10, 590].
Những quan điểm, TDKT của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong TKQĐ là những vấn đề có giá trị lý luận rất lớn đối với các đảng cộng
sản trong quá trình xây dựng nền kinh tế XHCN. Nhận thức được những tư


12

tưởng đó, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế đã có sự
đổi mới TDKT, từ đổi mới từng phần đến đổi mới toàn diện, góp phần quyết
định đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và đạt được nhiều thành tựu to
lớn.
1.1.2. Tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, phức tạp đòi hỏi Đảng ta
phải đổi mới TDKT.
Trong suốt thập niên 70 đến nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, lịch sử thế
giới đã trải qua một thời kỳ mà sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị,
kinh tế, văn hoá đến khoa học và công nghệ... đều diễn ra với một nhịp độ
nhanh chóng khác thường. Loài người thực sự đang chứng kiến những đổi thay

to lớn mang tầm vóc và dấu ấn của một thời đại cách mạng.
- Trước hết, đó là sự bùng nổ và phát triển mau lẹ của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại, tạo bước chuyển biến căn bản và thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn cầu.
Cuộc cách mạng này bắt đầu từ giữa thế kỷ XX và phát triển cho đến ngày nay.
Xét đến cùng, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là sự nhảy vọt về
chất trong tiến trình phát triển của LLSX, làm cho khoa học trở thành LLSX
trực tiếp. Năng suất lao động, khối lượng sản phẩm ngày càng cao hơn và chất
lượng tốt hơn, bảo đảm ngày càng nhiều nhu cầu đời sống con người. Hàm
lượng chất xám và trí tuệ khoa học của con người được kết tinh trong sản phẩm
hàng hoá nhiều hơn; lao động trí óc thay thế lao động chân tay, máy móc dần
thay thế sự hiện diện của con người trong quá trình sản xuất. Nói về cuộc cách
mạng này, có người đánh giá như là “sự phát minh ra nông nghiệp trong thời
đại đồ đá mới”, và hậu quả của nó sẽ sâu đậm hơn bất kỳ sự thay đổi xã hội nào
mà chúng ta đã trải qua; làm rung động cả bề mặt và chiều sâu của nhân loại,
tác động một cách toàn diện, sâu sắc và mạnh mẽ không chỉ đến tự nhiên, xã
hội mà ngay cả con người.


13

Dưới sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ của cuộc cách mạng đó, “thế giới ngày
nay đang lao vào cuộc chạy đua kinh tế sôi nổi, xu thế quốc tế hoá ngày càng
trở thành xu thế chi phối sự vận động của thế giới không chỉ về mặt kinh tế mà
cả về chính trị- xã hội” [6, 18-19]. Tình hình này dẫn đến sự tác động hai mặt:
Một mặt, sẽ tạo ra những thời cơ, thuận lợi cho những nhiều quốc gia, dân tộc
nếu biết nắm bắt và tận dụng sức mạnh của nó; mặt khác, cũng tạo ra nhiều khó
khăn thách thức gay gắt, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với
những nước kém phát triển, nếu không biết kịp thời điều chỉnh chiến lược kinh
tế cho phù hợp với xu thế phá triển của LLSX thời đại.

Cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ
cả về quy mô và chiều sâu của nó đã gây nên những tác động, ảnh hưởng toàn
diện và to lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Bước vào TKQĐ với điểm xuất phát
thấp, sự nghiệp xây dựng CNXH trong bối cảnh chịu sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học- công nghệ hiện đại đã đặt ra cho đất nước ta một nguy cơ, thử
thách lớn - nguy cơ tụt hâu xa hơn về kinh tế so với thế giới đương đại. Tình
hình đó là cơ sở thực tiễn trực tiếp đặt ra cho Đảng ta cần có sự nhận thức đúng
đắn về vai trò của khoa học- công nghệ trong phát triển LLSX, xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của CNXH; phải đổi mới chính sách kinh tế nhằm thực hiện
thắng lợi, nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng XHCN.
- Sự điều chỉnh chiến lược, chích sách kinh tế của CNTB nhằm thích nghi
với điều kiện mới.
Sau cuộc khủng hoảng năng lượng dầu mỏ năm 1973, nhằm kiềm chế và
khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, các nước TBCN đã
có sự thay đổi rất căn bản về TDKT bằng việc nhanh chóng nắm bắt xu thế
phát triển của thời đại, tận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học - công
nghệ áp dụng vào sản xuất theo quy mô chiều sâu ngày càng hiện đại. Xét về
phương diện kinh tế, sự điều chỉnh, thích nghi của CNTB không chỉ về LLSX
mà cả QHSX xã hội.


14

Về LLSX, các dây chuyền sản xuất đã đạt trình độ tự động hoá rất cao, máy
móc tham gia vào các khâu, các quá trình của nền sản xuất; xuất hiện và ứng
dụng nhanh, có hiệu quả các dạng công nghệ mới như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, công nghệ vật liệu mới... Mặt khác cơ
cấu kinh tế ngành cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng hàm
lượng chất xám, tỷ trọng và khối lượng sản phẩm của công nghiệp, dịch vụ, các
ngành then chốt mũi nhọn, giảm mạnh tỷ trọng nông nghiệp; đẩy mạnh đầu tư

cho các vùng, các khu kinh tế trọng điểm...nhằm khai thác triệt để, có hiệu quả
các lợi thế so sánh của nền kinh tế quốc gia.
Về QHSX, CNTB có sự điều chỉnh toàn diện cả ba mặt của nó là quan hệ sở
hữu, quan hệ tổ chức quản lý và điều chỉnh phân phối sản phẩm lao động; áp
dụng rộng rãi các biện pháp cổ phần hoá, quốc tế hoá về kinh tế; tiến hành điều
chỉnh, sửa đổi một số chính sách xã hội như chú trọng giải quyết việc làm, tăng
tiền lương cho người lao động, sử dụng một phần tài chính cho hoạt động phúc
lợi xã hội và trợ cấp thất nghiệp...
Như vậy, trong thời kỳ mới của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, CNTB
hiện đại đã nhanh chóng đổi mới tư duy, đường lối và chính sách kinh tế. Nhờ
sự điều chỉnh, thích nghi đó, nền kinh tế TBCN không những đã vượt qua được
khó khăn, trì trệ, khủng hoảng chu kỳ, mà còn hình thành và phát triển một nền
sản xuất hiện đại. Chưa có thời kỳ nào trong lịch sử CNTB mà trình độ sản
xuất vật chất đạt khối lượng kếch sù và chất lượng cao như thời kỳ này. Mâu
thuẫn xã hội tư bản có phần dịu bớt, chặn đứng cơn bão suy thoái và khủng
hoảng kinh tế chu kỳ, kéo dài thêm sự tồn tại và sức sống của CNTB trên hành
tinh chúng ta. Có thể nói: “Sự điều chỉnh, thích nghi của CNTB được xem là
những gợi suy cho các đảng cộng sản về sự điều chỉnh chiến lược kinh tế – xã
hội của mình cho phù hợp để CNXH đứng vững, phát triển trong điều kiện
mới” [6, 20].


15

- Sự tác động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và xu hướng cải cách,
cải tổ ở các nước XHCN.
CNXH hiện thực từ một nước (Liên Xô) trở thành hệ thống thế giới, với lịch sử
tồn tại hơn 70 năm (1917 – 1991), đả trải qua một thời kỳ phát triển huy
hoàng, đạt nhiều thành tựu to lớn, là nhân tố thúc đẩy tiến trình phát triển của
cách mạng thế giới và tiến bộ lịch sử. Tuy nhiên, từ cuối những năm 70 của thế

kỷ XX và kéo dài suốt nhiều năm sau đó, hệ thống XHCN thế giới lại lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng và ké dài. Đó là sự khủng hảng
dây chuyền theo hiệu ứng “Đô-mi-nô”: từ khủng hoảng ở một nước, một số
nước đến cả hệ thống. Khởi đầu ở Hung-ga-ry (1956), Tiệp Khắc (1968) đến
Đại cách mạng văn hoá vô sản ở Trung Quốc (1966- 1968); từ Liên Xô, Đông
Âu cho đến Việt Nam và châu Mỹ Latinh cũng không ngoại lệ. Nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng “đại trà” này có nhiều, song suy cho cùng là do các đảng
cộng sản quá lạc hậu về nhận thức lý luận, chậm đổi mới TDKT, lại duy trì
quá lâu cơ chế, mô hình kinh tế cũ (rập khuôn theo mô hình kinh tế “thời
chiến” của Liên Xô); không biết nắm bắt và vận dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ vào sản xuất...Do vậy, tình hình kinh tế các nước XHCN
ngày càng suy thoái, sản xuất vật chất XHCN giảm mạnh so với tốc độ phát
triển nhanh chóng của nền sản xuất TBCN; năng suất lao động trong các nước
Hội đồng tương trợ kinh tế chỉ bằng 50% các nước khối thị trường chung châu
Âu EEC; đời sống nhân dân ngày càng khó khăn hơn bao giờ hết.
Tình hình trên đặt các nước XHCN đứng trước sự lựa chọn con đường: hoặc là
tiếp tục xây dựng kinh tế theo tư duy cũ giáo điều, máy móc, lạc hậu; hoặc là,
nghiêm khắc tự phê phán, đổi mới TDKT cho phù hợp xu thế thời đại và sự
phát triển của LLSX. Nếu vẫn đi theo con đường thứ nhất, nghĩa là không có
những đổi thay cơ bản về TDKT, thì hậu quả là đẩy cơn sốt khủng hoảng kinh
tế ngày càng đến đỉnh điểm của nó, rất có nguy cơ dẫn đến sự tự sụp đổ từ bên


16

trong. Vậy, chỉ còn con đường thứ hai là “lối thoát duy nhất” để các nước
XHCN “bứt ra” khỏi vòng khủng hoảng trầm trọng lúc này.
Thực vậy, yêu cầu bức xúc, cấp thiết phải đổi mới TDKT của các đảng công
sản lúc này đã trở thành trào lưu chung, là xu thế tất yếu khách quan. Quá trình
đổi mới TDKT bắt đầu từ cuối những năm 70 kéo dài suốt những năm 80, diễn

ra ở các nước XHCN với những tên gọi khác nhau. Trung Quốc là nước XHCN
đầu tiên “dũng cảm” đổi mới TDKT (từ tháng 12/1987 và kéo dài những năm
sau đó), đã mang lại những khởi sắc rất đáng ghi nhận. ở Liên xô, công cuộc
cải tổ kinh tế bắt đầu từ tháng 4/1985 với chiến lược “tăng tốc”; sau đó làn
sóng cải tổ kinh tế lan toả khắp các nước Đông Âu XHCN. Như vậy, cải cách,
cải tổ, đổi mới cả về nhận thức lý luận và hành động thực tiễn, cả về đường lối
chính trị lẫn TDKT đã và đang thự sự là xu thế khách quan đối với hệ thống
XHCN hiện thực. Cải cách, cải tổ, đổi mới nghĩa là “cách mạng”, không đổi
mới nghĩa là “chết”. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô tại Đại hội lần thứ XXVII (3/ 1986) nhấn mạnh: Chính tình
hình kinh tế và chính trị cụ thể mà chúng ta đang sống, chính giai đoạn đặc biệt
của quá trình kịch sử mà xã hội xô-viết và toàn thế giới đang trải qua đều đòi
hỏi những người cộng sản phải có tinh thần sáng tạo, đổi mới, phải tìm cách
vượt qua khỏi khuôn khổ những khái niệm quen thuộc nhưng đã lỗi
thời...Chúng ta không thể tiến lên được một bước nào nếu không tập làm việc
theo lối mới, không khắc phục được thói bảo thủ và hũ hậu với mọi biểu hiện
của chúng, nếu mất lòng dũng cảm đánh giá tình hình một cách tỉnh táo, nhìn
nhận sự vật đúng như nó tồn tại [27,11-12].
1.1.3. Tình hình kinh tế nước ta trước năm 1979
Với Đại thắng mùa Xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành
thắng lợi hoàn toàn, mở ra một trang sử mới của cách mạng Việt Nam, kỷ
nguyên cả nước độc lập thống nhất cùng đi lên CNXH. Tuy vậy, bước vào
TKQĐ lên CNXH nước ta chịu sự quy định, chi phối bởi những đặc điểm rất


17

cơ bản, đó là: đất nước đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn
phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN; hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới để lại

còn hết sức nặng nề...Những đặc điểm đó tạo ra không ít khó khăn, thử thách in
đậm dấu ấn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh
tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) của Đảng, trên cơ sở nắm vững
và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin, học tập kinh nghiệm các nước
XHCN anh em, kế thừa tư duy về cách mạng XHCN trong 20 năm ở miền Bắc,
đã đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế ở nước ta trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, sau vài năm triển khai thực hiện đường lối đó, nền kinh tế nước ta
đã rơi vào tình trạng trì trệ, suy thoái, khủng hoảng xuất hiện với quy mô và
tốc ngày càng tăng cao. Những khó khăn, trì trệ và dấu hiệu ban đầu của khủng
hoảng kinh tế ở nước ta thời kỳ 1976 - 1979 biểu hiện trên những khía cạnh chủ
yếu sau đây:
- Một là, nền sản xuất tăng trưởng chậm và thiếu ổn định
Hầu như các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980 trên thực tế đều không đạt
được. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ tăng rất khiêm tốn với 0,6%,
trong khi kế hoạch đề ra là 16 ữ 18%. Năm 1980, thu nhập của một số sản
phẩm chủ yếu như: than, vải, giấy, xi-măng, cá biển, phân bón hoá học...còn
thấp kém hơn so với năm 1976. Trong nông nghiệp, sản lượng lương thực năm
1980 là 14,4 triệu tấn, chỉ đạt hơn 2/3 so với kế hoạch đề ra là 21 triệu tấn;
trong khi tốc độ tăng dân số tự nhiên hằng năm là 2,24%. Lương thực thiếu
nghiêm trọng, bình quân đầu người giảm từ 274,4 kg (1976) xuống còn 263,2
kg (1980) [26, 35]. Tình hình tương tự cũng diễn ra trên lĩnh vực nông nghiệp:
Máy móc chỉ sử dụng khoảng 50% công suất thiết kế, chất lượng sản phẩm
kém; các chỉ tiêu Đại hội IV đề ra đều không đạt (thường gọi là “đạt thấp”: điện
đạt 72%; than: 52%; vải lụa: 39%; giấy: 37%; xi măng: 32%...) [1,75].


18

Xét chung trên phạm vi cả nước, trong những năm 1976-1979, mặc dù đầu tư

cho nông nghiệp không ngừng tăng lên, đạt mức cao nhất (chiếm tỉ trọng từ 1923%), song năng suất lúa lại giảm đến mức thấp nhất: từ 22,3 tạ/ha (1976)
xuống 19,4 tạ/ha (1977), 17,5 tạ/ha (1978)...[26,49]. Như vậy, tốc độ sản xuất
và năng suất lao động giảm theo thời gian, đó là dấu hiệu của sự trì trệ, đi
xuống của nền sản xuất. Trong bối cảnh đó buộc nhà nước phải nhập khẩu
lương thực ngày càng lớn, tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân. Thực
tiễn khắc nghiệt đó đòi hỏi nông nghiệp phải tìm một hướng đi mới cho phù
hợp và hiệu quả hơn.
Hai là, nền kinh tế quốc dân luôn ở trong tình trạng thường xuyên thiếu hụt,
quy mô giảm sút ngày càng mở rộng.
Đây là một khó khăn lớn của nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ. Nguyên nhân là
do sản xuất tăng trưởng chậm, trong khi nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng
tăng, vì thế hầu hết các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời
sống đều phải nhập khẩu. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là, không chỉ các loại
hàng hoá công nghiệp cao phải nhập ngoại, mà ngay cả các loại hành hoá vốn
là thế mạnh của Việt Nam (gạo, vải mặc, giấy...) cũng mua từ ngoài vào. Tình
cảnh đó tạo nên sự mất cân đối trong cán cân xuất - nhập khẩu, trong đó tình
trạng nhập siêu là phổ biến và chủ yếu. “Tính chung cả nước thời kỳ 19761980, nền kinh tế luôn ở tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng: thu nhập quốc dân
trong nước chỉ bằng 80- 90% thu nhập quốc dân nói chung, toàn bộ quỹ tích
luỹ và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ nước ngoài” [24, 16].
Đến năm 1979, tình hình kinh tế nước ta trở nên khó khăn gay gắt hơn bao giờ
hết. Sự trì trệ của nền sản xuất khiến nhiều nhu cầu tối thiểu trong đời sống
nhân dân không được đáp ứng. “Năm 1980 nhập 1576000 tấn lương thực; hàng
hoá tiêu dùng thiếu gay gắt... Bình quân lương thực đầu người năm 1976: 274
kg, năm 1980: 268 kg. Nhiều sản phẩm công nghiệp giảm hoặc tăng không


19

đáng kể” [26, 50]. Bảng so sánh một số sản phẩm những năm 1976- 1980 dưới
đây sẽ cho thấy rõ hơn khó khăn của nền kinh tế đất nước.

Tên sản phẩm
Giấy

Sản lượng năm 1976
750000 tấn

Sản lượng năm 1980
48500 tấn

Sữa hộp

63 triệu hộp

18 triệu hộp

Săm xe đạp

4 triệu 9

5 triệu

Xà phòng giặt

23400 tấn

22400 tấn

Thuốc đánh răng

33, 6 triệu hộp


36 triệu hộp.
[26, 50]

- Ba là, nền kinh tế lâm vào tình trạng mất cân đối kéo dài, giá cả tăng vọt.
Đó là một điển hình phản ánh sự khó khăn dai dẳng của nền kinh tế nước ta
thời kỳ trước đổi mới. Biểu hiện cụ thể là sự chênh lệch cán cân xuất- nhập
khẩu, sự mất cân đối thu- chi, sự tăng vọt của giá cả tiêu dùng... Theo tính toán
của các chuyên gia kinh tế thì ở nước ta thời kỳ trước năm 1980, nhập gấp 4
đến 5 lần xuất; điển hình năm 1979 nhập 1526 triệu rúp - đôla, xuất 320 triệu
rúp - đôla. So sánh thu chi mất cân đối nghiêm trọng. Giá cả leo thang, năm sau
tăng so với năm trước: Năm 1976: 128%; năm 1987: 117%; năm 1978:
120,9%; năm 1979: 119,4%; năm 1980: 125% [26, 50]. Sản xuất trì trệ. Mỗi
năm giá cả tăng trên dưới 20% trong khi thu nhập quốc dân tăng bình quân
0,4%, như vậy là đạt mức lạm phát cao. Cơn sốt giá cả leo thang từng ngày,
càng về sau càng tụt khỏi sự quản lý của nhà nước. Tốc độ lạm phát tăng nhanh
đã tác động xấu đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến cuối những năm 70,
nền kinh tế nước ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng nặng nề.
- Bốn là, kinh tế đối ngoại lâm vào tình trạng cô lập, khép kín.
Sau tháng 4/1975, Mỹ và phương Tây thực hiện đã thực hiện chính sách bao
vây, cấm vận về kinh tế đối với Việt Nam. Do đó, nhiều nguồn viện trợ lớn mà
các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế đã hỗ trợ giúp nước ta khôi phục và phát
triển kinh tế nay bị cắt giảm rõ rệt. Đây thực sự là một khó khăn lớn đối với
nước ta sau chiến tranh vốn rất cần tài chính để vực nền kinh tế đi lên.


20

Đồng thời với những khó khăn do bị bao vây, cấm vận là tình trạng cô lập của
kinh tế đối ngoại. Chúng ta biết rằng,, chủ yếu được thực hiện với các nước

XHCN. Nhưng nay, do nội tình các nước anh em cũng đang ở hoàn cảnh khó
khăn, có dấu hiệu khủng hoảng, bất thường, vì vậy kinh tế đối ngoại của nước
ta càng khó khăn hơn. Tính chung thời kỳ 1976 - 1980, tổng giá trị kim ngạch
xuất - nhập khẩu chênh lệch và mất cân đối theo hướng nhập siêu ngày càng
lớn (tỷ lệ xuất/ nhập ước tính khoảng 1/4).
- Năm là, đời sống xã hội gặp nhiều khó khăn, động lực sản xuất trong nhân
dân bị kìm hãm và giảm sút lớn.
Đây là một thực tế đáng buồn và là một hệ quả tất yếu. Vì sao vậy? Bởi vì,
đáng lẽ ra sau giải phóng, nhân dân khát khao được cởi trói để lao động sản
xuất để phát triển kinh tế thì nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách mới nhằm
khuyến khích phát triển. Song thực tế không phải như vậy mà ngược lại, cơ chế
cũ tập trung quan liêu, bao cấp vẫn còn duy trì, tạo thành lực cản vô hình kìm
hãm động lực phát triển kinh tế. Tình trạng thất nghiệp ngày càng nhiều, thiếu
việc làm ngày càng phổ biến. Điều đáng chú ý là: Nếu trong chiến tranh gian
khổ, người nông dân cần mẫn lao động sản xuất phục vụ kháng chiến- kiến
quốc thì sau giải phóng, họ lại không thiết tha với đồng ruộng; đất đai hoang,
hoá nhiều trong khi đời sống nhân dân khó khăn, thiếu thốn...
Thực trạng nêu trên của nền kinh tế nước ta bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Trong đó, chúng ta không thể không thừa nhận rằng,
Đảng ta còn phạm những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế do sự lạc
hậu về nhận thức lý luận và ấu trĩ về TDKT. Đó là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân.
Để tìm lối thoát cho nền sản xuất đã và đang bị cơ chế cũ trói buộc, trong khi
Trung ương chưa có những biện pháp và chính sách đột phá thì ở địa phương
cơ sở, những tìm tòi thí điểm của quần chúng đã diễn ra và dần trở thành phong
trào cách mạng rộng khắp. Đó là hiện tượng “khoán chui” trong nông nghiệp ở


21


xã Thổ Tang, Ngũ Kiên (Vĩnh Phú) đầu những năm 70; ở Đồ Sơn (Hải Phòng)
đầu những năm 80. Đó là phong trào “xé rào” của nhiều xí nghiệp quốc doanh
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm 1979 - 1980... Trong
thương nghiệp, tỉnh Long An đã tiến hành thí điểm cơ chế “một giá” trên toàn
tỉnh, mở đường cho cải cách giá và thương nghiệp trong những năm sau đó.
Như thế, có thể thấy “những kinh nghiệm, phương pháp, cách làm và lối tư duy
cũ đã không đủ để giúp chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ
mới...Đổi mới tư duy, do đó đang trở thành mệnh lệnh của cuộc sống trong
thời điểm hiện nay của nước ta” [27, 17- 18]. Những quan niệm cũ, hiểu biết cũ
về cơ cấu và các thành phần kinh tế, về cơ chế quản lý và giá cả - tiền lương, về
quan hệ hàng hoá - tiền tệ và kế hoạch - thị trường... đang trói buộc chúng ta,
cản trở sự phát triển kinh tế. TDKT cũ nay rõ ràng là không còn phù hợp với
thực tiễn và yêu cầu cuộc sống. Chủ quan, nóng vội và bảo thủ cũng nảy sinh
từ tư duy lạc hậu đó.
Cách mạng chuyển giai đoạn mới và nhiệm vụ giải phóng mọi năng lực sản
xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng đất nước để phát triển mạnh mẽ LLSX
đòi hỏi bức bách phải có TDKT mới. Bởi vì, có đổi mới TDKT chúng ta mới
dám thừa nhận và thay đổi những chủ trương, chính sách đã bị cuộc sống bỏ
qua, mới hình thành những cách làm đúng đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi.
Có đổi mới TDKT mới vận dụng đúng đắn quan điểm và chủ trương của Đảng,
với những hình thức và bước đi thích hợp làm cho QHSX luôn luôn phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX ở mỗi thời kỳ [

, ]. Đúng như đồng chí

Trường Chinh nói: “Chỉ có đổi mới cách nghĩ cách làm, đổi mới tư duy, nhất là
TDKT...chúng ta mới có khả năng thoát khỏi tình hình khó khăn gay gắt hiện
nay” [2,66].
1.2. Quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng từ 1979 đến 1986.
1.2.1. Thời kỳ 1979-1981.



22

* Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV (8/1979) với chủ trương “làm cho sản
xuất bung ra” mở đầu quá trình đổi mới TDKT của Đảng
Hội nghị đã thông qua 2 nghị quyết quan trọng là: Nghị quyết về “Tình hình và
nhiệm vụ cấp bách” và Nghị quyết về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”. Trên cơ sở nhận thức
rõ nhu cầu cấp bách của đời sống nhân dân, Hội nghị đã đề ra những quan
điểm, chủ trương và chính sách mới nhằm khai thông bế tắc, tháo gỡ khó khăn,
tạo đà cho sản xuất phát triển. Hội nghị đã hé mở những TDKT mới của Đảng,
thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, thẳng thắn chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo phát triển
kinh tế của Đảng trong những năm qua.
Thực vậy, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện đường lối kinh tế của Đại
hội IV và các Nghị quyết Trung ương khoá IV trước đó, chúng ta đã phạm
nhiều sai lầm, khuyết điểm khiến nền kinh tế đất nước khó khăn, trì trệ. Đúng
như hội nghị đã thẳng thắn kiểm điểm: “Việc xây dựng kế hoạch kinh tế vẫn
tập trung quan liêu, thiếu căn cứ thực tế và khoa học, chưa kết hợp chặt chẽ kế
hoạch hoá với sử dụng thị trường, chưa chú ý đầy đủ tăng cường và phát huy
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, và cũng chưa chú ý sử dụng đúng đắn các
thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc (ở miền Nam). Chậm khắc phục
tình trạng trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế,
tài chính để khuyến khích phát triển sản xuất... Có những biểu hiện nóng vội,
giản đơn trong công tác cải tạo XHCN ở miền Nam” [ ,358-359].
Hai là, hội nghị đã xác định những chủ trương cụ thể, ban hành các chính sách
kinh tế mới nhằm “cởi trói” cho sản xuất phát triển.
Hội nghị chỉ rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là động viên cao độ và tổ
chức toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư

nghiệp, nhằm trước hết bảo đảm vững chắc lương thực và thực phẩm, đồng
thời cung ứng nhiều nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản


23

xuất hàng tiêu dùng và tăng nhanh hành xuất khẩu” [t40, 360]. Để làm tốt
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đó, Chính phủ cần ban hành các chính sách
cụ thể khuyến khích mạnh mẽ sức sản xuất trên các lĩnh vực chủ yếu:
Trước hết, đó là những chính sách thiết yếu trên lĩnh vực nông nghiệp. Theo
đó, cần giữ vững sự ổn định mức nghĩa vụ bán lương thực trong 5 năm; phần
còn lại bán cho Nhà nước với giá thoả thuận và được lưu thông tự do; khuyến
khích các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và gia đình xã viên, nông dân cá thể tận
dụng diện tích ruộng đất, hồ, ao còn bỏ hoang hoặc bỏ hoá. Khuyến khích các
cơ sở quốc doanh, tập thể va gia đình đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, ổn
định mức bán thịt lợn; phần còn lại bán cho Nhà nước với giá thoả thuận hoặc
lưu thông tự do [t40, 362]. Chính phủ cũng cần sửa đổi lại biểu thuế nông
nghiệp nhằm khuyến khích thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích; sửa lại giá
lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản xuất và
mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước; khuyến khích xuất khẩu nông sản của
các địa phương và cơ sở sản xuất; sửa đổi các phân phối, ăn chia trong nội bộ
hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất định lượng, bảo đảm
nguyên tắc phân phối theo lao động...Về nhiệm vụ cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp ở miền Nam, “phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện
nay phải nhấn mạnh vững chắc. Ở những nơi đã có hợp tác xã hoặc tập đoàn
sản xuất, phải kịp thời cũng cố. Tổ chức nông dân và hợp tác xã hoặc tập đoàn
sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân
chủ” [t40, 363]. Đồng thời chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép, mệnh
lệnh, làm ồ ạt gây ra thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Trong lĩnh vực công nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, Nghị quyết chỉ rõ: Phải

dựa chắc vào cơ sở sản xuất trong nước, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự
viện trợ từ bên ngoài; phải tận dụng các thành phần kinh tế quốc doanh, công ty
hợp doanh được kinh doanh hợp pháp. Cần khuyến khích phát triển tiểu thủ
công nghiệp và thủ công nghiệp, bỏ thuế lợi tức vượt cấp; các ngành và các địa


24

phương phải phấn đấu rất cao để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường đầu tư, mở
rộng các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là những mặt hàng ta có thế
mạnh. Về cải tạo XHCN đối với thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam,
“phải khẩn trương kiểm tra, rút kinh nghiệm, uốn nắn những nhận thức lệch
lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về năm thành phần kinh tế ở miền
Nam để tận dụng mọi khả năng về lao động, kỹ thuật, quản lý nhằm phát triển
sản xuất” [t40, 366].
Ba là, về vấn đề cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế.
Hội nghị chủ trương: Phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và
tập thể, công tư hợp doanh, cá thể được kinh doanh hợp pháp; cần căn cứ vào
thực tế cụ thể của từng ngành nghề, từng mặt hàng và lấy hiệu quả kinh tế làm
thước đo để từ đó vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất sao cho
phù hợp; cái gì hợp tác xã, cá nhân làm tốt thì không được vội vàng thay thế
bằng quốc doanh. Một số mặt hàng hiện do quốc doanh sản xuất, nay nếu xét
để cho tiểu, thủ công nghiệp và tư bản tư nhân sản xuất có điều kiện phát triển
thuận lợi hơn thì cần mạnh dạn giao lại cho tiểu, thủ công nghiệp và tư nhân
làm. Đặc biệt, trong thời gian trước mắt, phải ra sức cũng cố vững chắc cơ sở
từ các hợp xã đến xí nghiệp nhằm bảo đảm trên thực tế quyền chủ động trong
sản xuất, kinh doanh, quyền tự chủ về tài chính của các địa phương, cơ sở, bảo
đảm mọi hoạt động sản xuất tuân thủ nguyên tắc hoạch toán kinh doanh
XHCN.
Bốn là, Hội nghị chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,

chuyển sang cơ chế quản lý mới theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh XHCN.
Cơ chế cũ vốn đã ăn sâu bám rễ lâu dài trong đời sống xã hội và cản trở, kìm
hãm động lực sản xuất bấy lâu nay; giờ đây lần đầu tiên Đảng ta chủ trương
xoá bỏ nó, thực sự là điều kiện tiên quyết và quan trọng để thúc đẩy sản xuất
vươn lên. Từ đây, Đảng thừa nhận sự tồn tại khách quan và vai trò to lớn của
các thành phần kinh tế “phi” XHCN; thừa nhận sự tồn tại của nền sản xuất


25

hàng hoá, tiền tệ và cơ chế thị trường trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Hội
nghị cũng đưa ra tiêu chí của một chính sách kinh tế đúng là: Năng suất lao
động tăng; nền kinh tế phát triển cân đối; đời sống nhân dân được cải thiện...Đó
là bước tiến quan trong trong TDKT của Đảng.
Có thể nói, Hội nghị Trung ương 6 là bước “đột phá đầu tiên” mở đầu sự
nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới TDKT nói riêng của Đảng. “Những chủ
trương, giải pháp mà Hội nghị đặt ra không chỉ nhằm khắc phục những khuyết
điểm, sai lầm, khó khăn trước mắt mà cón được ví như những giải pháp chiến
lược của Lênin trong “Chính sách kinh tế mới” (NEP)...Đó chính là sự điều
chỉnh có tính chiến lược từ nội dung, cơ chế, chính sách đến nhịp độ, bước đi
để xây dựng CNXH cho sát với tình hình thực tế” [6,26].
* Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư (01/ 1981) về khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, Đảng ta tiếp tục có
những đổi mới quan trọng về TDKT nhằm khắc phục khó khăn, vực nền kinh
tế đi lên. Chỉ thị 100 (hay còn gọi là khoán 100) là một điển hình của quyết tâm
đó của Đảng. Nội dung cơ bản của chỉ thị này là vạch ra những nguyên tắc và
chế định mới trong việc cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán đối với xã viên
trong các hợp tác xã nông nghiệp, các đội, tổ đổi công...
Trước hết, chỉ thị nêu rõ mục đích của công tác khoán là: “Khuyến khích hơn

nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các
khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp tác xã, gắn bó với sản phẩm
cuối cùng, do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất và
xây dưng, củng cố hợp tác xã”[ , ]. Đây là một điểm mới căn bản trong nhân
thức và tư duy của Đảng trên lĩnh vực nông nghiệp. Sự đổi mới đó nhằm hai
mục tiêu: Một là, chăm lo giải quyết lợi ích thiết thân cho người nông dân; hai
là, giải phóng mạnh mẽ và tối đa năng lực sản xuất trong một bộ phận lớn lao
động của xã hội. Trước đây, đặc biệt là những năm sau chiến tranh thực hiện


×