Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp bản chất, đặc trưng của quyền lực chính trị liên hệ về tính giai cấp và tính xã hội của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.19 KB, 18 trang )

3
MỞ ĐẦU
Khi con người bắt đầu sống thành cộng đồng, quyền lực cơng cộng xuất
hiện. Đó là nhu cầu tất yếu, khách quan trong đời sống của con người khi đã tập
hợp thành xã hội - nhu cầu phối hợp hoạt động chung, bảo về cộng đồng xã hội
khỏi sự xâm hại từ bên ngoài và phân bổ các giá trị bên trong cộng đồng. Ban
đầu, cơ quan quyền lực công cộng gắn chặt với cộng đồng, vừa trực tiếp sản
xuất và vừa làm chức năng quản lý xã hội. Trong loại hình tổ chức xã hội này,
quá trình thực thi quyền lực công cộng rất minh bạch: cùng bàn bạc, cùng quyết
định, cùng thực hiện và cùng chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, mơ hình như vậy chỉ
có thể tồn tại ở quy mô một thị tộc, hay một cộng đồng nhỏ. Khi sản xuất phát
triển hơn, khi quy mô dân cư tăng lên, khi các mối tương tác nhiều hơn…cũng là
lúc xuất hiện nhiều hơn các hình thức liên kết cá nhân, liên kết các cộng đồng xã
hội. Quyền lực cơng cộng lúc này bao trùm tồn bộ xã hội trong một lãnh thổ
quốc gia có chủ quyền và được gọi là quyền lực cơng.
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân
tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là
sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính
trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Từ khi xuất hiện, chính trị ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển của mỗi
cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trước khi chính trị học ra đời với
tư cách là một khoa học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có
đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có các quan niệm, quan điểm,
thậm chí tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh
của chính trị.
Chính vì vậy, tơi chọn chủ đề: “Bản chất, đặc trưng của quyền lực chính trị.
Liên hệ về tính giai cấp và tính xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm chủ đề
viết tiểu luận tốt nghiệp.



4
NỘI DUNG
I. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm quyền lực
Quyền lực là mối quan hệ diễn ra phổ biến trong đời sống chính trị. Mọi tổ
chức (kể cả tổ chức phi chính trị) đều có thể coi là một tổ chức quyền lực với
phương thức hoạt động riêng (cách thức ra quyết định và thi hành quyết định).
Các nghiên cứu về quyền lực tập trung vào hai vấn đề lớn: Quyền lực trong xã
hội nên dùng để làm gì và cần được tổ chức như thế nào và Quyền lực chính trị
nếu được tổ chức như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả gì?!
2. Một số vấn đề lý luận về quyền lực chính trị, bản chất của quyền lực
chính trị
a. Khái niệm
Trong các nghiên cứu về chính trị, khái niệm quyền lực chính trị được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ cách tiếp cận nghiên cứu.
Từ cách nhìn thể chế, có thể có một số cách định nghĩa về quyền lực chính
trị như sau:
- Quyền lực chính trị là quyền lực của của một giai cấp hay liên minh giai
cấp nhằm thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải
pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ yếu thơng qua đấu
tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của nhà nước, của các đảng phái chính
trị, các nhóm lợi ích, các tổ chức chính trị - xã hội, và của các cơ quan tự quản
địa phương.
Từ cách nhìn hành vi, quyền lực chính trị là khả năng định hình, kiểm sốt
hành vi chính trị của người khác và lãnh đạo, chỉ dẫn họ theo hướng mà cá nhân,
nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ quyền lực chính trị mong muốn. Quyền lực chính
trị là khả năng của một chủ thể chính trị (chẳng hạn một cá nhân, một công dân,



5
một nhóm lợi ích, một đảng phái, hoặc chính phủ...) tác động, tạo ra sự thay đổi
hành vi của các chủ thể chính trị khác
Có thể đưa ra một định nghĩa về quyền lực chính trị như sau: Quyền lực
chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của
mình đối với tồn xã hội.
Như vậy có thể coi quyền lực chính trị là quyền lực tiềm năng, quyền lực
nhà nước là quyền lực thực tế vì tính chính đáng của quyền lực nhà nước với tư
cách là quyền lực công cộng (được xã hội ủy quyền và thừa nhận dù từ nhiều lý
do khác nhau cả về lịch sử, văn hóa và sự hợp lý).
b. Bản chất của quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp (hay liên minh giai cấp),
của một lực lượng xã hội. Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ sức mạnh
giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước, hoặc chí ít
là gây áp lực đối với quyền lực nhà nước.
c. Cơ sở xã hội khách quan của quyền lực chính trị
Trong thế giới tự nhiên, mỗi cá nhân không thể tồn tại nếu sống đơn độc,
mà cần có sự phối hợp với những cá nhân khác để tìm kiếm thức ăn, duy trì sự
sống, do đó, cộng đồng ra đời. Để đảm bảo sự an toàn cho mỗi cá nhân tồn tại
và phát triển, nhất thiết cần có một quyền lực cơng - với tư cách là quyền lực
chung của cộng đồng, để điều hoà các xung đột, mâu thuẫn giữa các cá nhân có
thể phát sinh trong q trình chung sống. Nói cách khác, bất kỳ hoạt động chung
nào của con người cũng địi hỏi có người tổ chức, người chỉ huy và người phục
tùng. Đây cũng là điểm xuất phát cũng như nội dung trung tâm của phạm trù
quyền lực.
Quyền lực chính trị xuất hiện là một tất yếu. Tính tất yếu xuất phát từ hoạt
động sản xuất, phân công lao động xã hội. Đây là hoạt động cho nhu cầu sống,
do vậy, là hoạt động quan trọng nhất. Từ nhu cầu tự nhiên phải phối hợp sản
xuất, xuất hiện sự cần thiết phải phục tùng một sự chuyên chế, áp đặt, chỉ huy,
quản lý, hay thuyết phục thực sự, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào.



6
Chính vì vậy, mà “một quyền uy nhất định, khơng kể quyền uy đó đã được
tạo ra bằng cách nào, và mặt khác, một sự phục tùng nhất định, đều là những
điều mà trong bất cứ tổ chức xã hội nào, cũng đều do những điều kiện vất chất
trong đó tiến hành sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho trở nên tất yếu đối
với chúng ta” (Ăng-ghen - Bàn về quyền uy).
Nói cách khác, quyền lực ra đời từ nhu cầu khách quan là cần tuân thủ kỷ
luật lao động khách qua của quá trình sản xuất. Sự phân công sản xuất sẽ quyết
định cách thức tổ chức quyền lực. Khi sự phân công sản xuất thay đổi, phương
thức tổ chức quyền lực chính trị cũng thay đổi. Cách thức cấu trúc quyền chính
trị thể hiện cấu trúc kinh tế xã hội ẩn dưới.
Mác nhìn nhận quá trình phát triển xã hội như sự thay đổi của các hình thái
kinh tế - xã hội. Ơng quan niệm động lực của lịch sử chính là vật chất, mọi biến
cố lịch sử đều bị điều kiện vật chất chi phối. Trong số các điều kiện vật chất,
phương thức sản xuất chính là yếu tố quyết định đã cấu tạo nên nền tảng kinh tế
của xã hội. Nền tảng này chính là hạ tầng cơ sở mà trên đó sẽ xây dựng một
thượng tầng kiến trúc gồm phong tục, chính trị, luật pháp, đạo đức, tơn giáo,
nghệ thuật, …
Sự gắn bó con người thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên, và cũng
qua xã hội, bằng xã hội (không ở đâu khác) mà con người mưu cầu hạnh phúc.
Xã hội vận động, phát triển đến trình độ nhất định dẫn đến phân hóa giai cấp và
tất yếu xã hội được tổ chức thành nhà nước.
Khi nói tới quyền lực chính trị là nói tới các mối quan hệ kiểm sốt lẫn
nhau giữa những người nắm giữ quyền lực công và mối quan hệ giữa họ với
người dân. Nhà nước là một loại cộng đồng rộng lớn, trong đó có nhiều thành
phần giai cấp, ổn định, sống trong một vùng lãnh thổ được khẳng định chủ
quyền, gọi là biên giới quốc gia. Trong điều kiện như vậy, xuất hiện nhu cầu về
một loại quyền lực công cộng rộng lớn, bao trùm toàn xã hội và toàn bộ lãnh

thổ quốc gia. Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị được tập trung thành


7
quyền lực nhà nước. Trong xã hội có giai cấp thì quyền lực nhà nước là quan
trọng nhất.
Chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể hiện bản chất của
nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng của nhà nước được đề
cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là
cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là cơng cụ chun chính của một giai
cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ cơng cụ, biện pháp
nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Cịn chức năng xã hội
của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số
công việc chung của toàn xã hội.
Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những
nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Trong các xã
hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay mình, giai cấp
thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc
chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều
kiện để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp
cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới
hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực
hiện vai trị thống trị giai cấp của nó. Thực hiện chức năng quyền lực cơng là địa
vị chính danh của nhà nước. Song về thực chất, quyền lực cơng đó cũng bị một
giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất định chi phối.
Vì vậy, quyền lực chính trị của giai cấp thống trị ln có hai chức năng:
Chức năng chính trị (giai cấp) và cơng quyền (xã hội). Quyền lực sẽ chuyển dần
từ chức năng chính trị sang chức năng công quyền. Trong tương lai, quyền lực
sẽ mất đi tính chính trị, chỉ cịn tính chất quản lý (nhà nước tiêu vong).

d. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
- Tính khách quan, tất yếu. Quyền lực chính trị là khách quan tất yếu trong
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Khi con người sống thành


8
cộng đồng, quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã hội phân chia thành các giai
cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực công được trao cho một giai cấp hoặc
một lực lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực
hiện sự quản lý xã hội thông qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thơng luật
pháp. Q trình đó là khách quan, tất yếu dựa trên nhận thức của con người về
nhu cầu hình thành quyền lực, quyền lực chính trị như một tất yếu khách quan
để duy trì sự tồn tại của xã hội.
- Tính giai cấp. Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp trong việc giành,
giữ và thực thi quyền lực, cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính
trị là quyền lực của một giai cấp để thực hiện lợi ích khách quan của mình. Vì
vậy, quyền lực chính trị ln mang tính giai cấp. Đặc trưng này khác với quyền
lực cơng là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành viên xã hội, ở cả những
giai cấp, lực lượng xã hội khác nhau. Cịn quyền lực nhà nước, về hình thức bao
giờ cũng thể hiện là quyền lực công nhưng về thực chất, quyền lực nhà nước
luôn bị nắm, bị chi phối bởi một giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất định
(giai cấp thống trị).
- Quyền lực chính trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng xã
hội giữ địa vị thống trị về kinh tế. Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất
của quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển
các lợi ích mà căn bản và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng xã
hội nắm quyền. Do vậy, giành, giữ quyền lực chính trị ln là mục tiêu trực tiếp,
trọng yếu của giai cấp, lực lượng xã hôi thống trị về kinh tế. Giai cấp nào thống
trị về kinh tế sớm muộn sẽ thống trị về chính trị và nếu một giai cấp, lực lượng
xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà khơng xây dựng và giữ được địa vị

chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ khơng thể duy trì được quyền lực
chính trị. Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm bảo quyền lực về chính trị. Quyền
lực về chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền lực về kinh tế.
- Việc nắm giữ và thưc thi quyền lực chính trị phải đảm bảo sự hài hịa
giữa lợi ích giai cấp với lợi ích chung của cộng đồng. Mục đích của giai cấp, lực


9
lượng xã hội nắm giữ quyền lực chính trị là sử dụng quyền lực để duy trì và bảo
vệ một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp, lực lượng mình. Tuy nhiên, việc thực
thi quyền lực chính trị bao giờ cũng phải thơng qua hình thức quyền lực cơng.
Do đó, khi nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị, lại cần đảm bảo mức độ nhất
định sự cơng bằng xã hội. Quyền lực chính trị là cơng cụ phục vụ cho lợi ích của
một giai cấp, một lực lượng xã hội nhất định, phải trên cơ sở thực hiện chức
năng cơng quyền, nó chỉ có thể tồn tại dưới hình thức là quyền lực cơng. Một
khi sự bất cơng vượt q một giới hạn nào đó sẽ dễ xuất hiện sự bất bình trong
các bộ phận thành viên của xã hội. Điều này cho thấy, bất cứ giai cấp, lực lượng
nào đang cầm quyền muốn duy trì, củng cố quyền lực chính trị của mình khi
thực hiện quyền lực công, quyền lực nhà nước cũng luôn nhân danh là thực hiện
công bằng xã hội và cũng phải thực hiện ở mức độ nhất định công bằng xã hội.
- Quyền lực chính trị mang tính chính đáng. Quyền lực khơng bao giờ là
tuyệt đối, vì ln cần sự chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng như
mọi loại quyền lực, sự chấp thuận của xã hội là yếu tố chính của việc đảm bảo
việc thực thi quyền lực chính trị. Trong thực tiễn hoạt động chính trị, tính chính
đáng càng cao càng cần ít chi phí cưỡng chế, và càng đạt hiệu quả cao trong
thực thi quyền lực.
- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm sốt.
Quyền lực chính trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều: quan hệ
mệnh lệnh giữa chủ thể với đối tượng và quan hệ tuân phục giữa đối tượng và
chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ thực sự là quyền lực khi mệnh lệnh

của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt để. Khi quyền lực
khơng được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc khơng ra được quyết định
hoặc quyết định khơng có hiệu lực thi hành thì khi đó thực chất chủ thể quyền
lực đã mất quyền hoặc khơng có quyền lực trên thực tế.
Mặt khác, cùng với việc tập trung quyền lực thì cũng phải có cơ chế kiểm
sốt nó. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ máy quyền lực
nhà nước nhằm ngăn ngừa sự tha hóa của quyền lực.


10
III. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1. Tổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam, quyền lực được tổ chức về cơ bản khác với các nước khác.
Quyền lực chính trị được tập trung vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đời
sống chính trị đất nước, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất cầm quyền. Quan
hệ Đảng - Chính phủ tại Việt nam, cũng có thể thấy nguyên tắc song trùng trực
thuộc cũng đã chi phối trong thời gian dài.
Theo đó, nguyên tắc “song trùng” nghĩa là tổ chức đảng cũng có các bộ
phận như chính phủ. Ngun tắc “Trực thuộc” có nghĩa các ban chấp hành đảng
chỉ đạo trực tiếp các cơ quan chính phủ cùng cấp. Chính quyền là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền pháp lý điều hành, tuy nhiên lại chịu sự lãnh đạo của BCH
đảng bộ, và cả sự điều hành của các chính quyền cấp trên (ngành dọc).
Do vậy, quyền lực bị phân tán với nghĩa là ra quyết định cần sự đồng thuận
của nhiều cơ quan. Thể chế như vậy cho thấy có rất nhiều cơ quan, nhân vật tuy
khơng có quyền quyết nhưng là có quyền phủ quyết trên thực tế. Ngồi ra cịn
có mâu thuẫn giữa cấp độ quyền lực và thẩm quyền pháp lý (mà bản chất là sự
ủy nhiệm của người dân) vẫn chưa được giải quyết: người có quyền quyết định
cao nhất lại không phải do người dân ủy quyền.
Về nguyên tắc, quyền lực chính trị được trao cho 3 chủ thể quan trọng với
cơ chế hoạt động: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ (thơng

qua các tổ chức chính trị - xã hội). Cơ chế này còn được biết đến ở phương diện
khác như là một cơ chế vận hành, nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị ở
Việt Nam. Nội dung của cơ chế được thể hiện rất cụ thể ở trên cả bình diện lý
luận và thực tiễn, có thể mơ tả một cách khái qt nhất như sau:
Hiến pháp 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của
giai cấp công nhân,….., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4).
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách, chủ trương lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng, chủ trương lớn
này của Đảng cần được sự đồng thuận của nhân dân. Nhân dân có quyền và


11
nghĩa vụ tham gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn kiện của Đảng
trước khi ban hành. Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu
tú của mình để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không phải
lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng bên trên
Nhà nước bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà
nước; phù hợp với sự phát triển của nền dân chủ XHCH nói chung và việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta nói riêng. Đảng phải phát huy vai
trị và trách nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của Đảng, được nhân dân
tín nhiệm bầu, nhân dân chính thức giao quyền.
Cần thực hiện tốt phương thức lãnh đạo thông qua đảng viên nắm giữ các
cương vị chủ chốt của Nhà nước ở các cấp, đượcbầu cử dân chủ với các quy chế
pháp lý chặt chẽ, ràng buộc trách nhiệm của những người này trước Đảng và
trước nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục và chứng minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong
đường lối, quyết sách của mình. Đảng tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo

Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ” (Điều 8). Như vậy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là chủ thể chính trị chính yếu trong thực thi quyền lực chính trị
ở Việt Nam. Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành
chính sách, pháp luật; trực tiếp thực thi quyền lực chính trị thơng qua hệ thống
chính sách, pháp luật của mình.
Để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, Nhà nước phải
được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm “lao
động” quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt
chẽ, hiệu quả. Nguyên tắc ở đây là Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân dân.
Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ quyền công dân,


12
quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể được đo lường bằng số
lượng những quyền cơng dân, quyền con người mà một cơng dân bình thường
có thể thực hiện được trên thực tế.
Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà
nước đều từ nhân dân và vì nhân dân. Người dân khơng chỉ thực hiện quyền làm
chủ của mình thơng qua các đại biểu do mình bầu ra, mà họ cịn tự mình thực
hiện những quyền đó. Người dân cịn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn
theo quy định của pháp luật để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của mình.
Cũng thơng qua các tổ chức của mình, người dân sẽ thực hiện quyền giám
sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng
những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Như vậy, điều cần nhấn
mạnh ở đây là, người dân thực hiện quyền làm chủ của mình khơng chỉ thơng
qua bộ máy nhà nước, mà họ cịn tự mình thực hiện quyền ấy trên cơ sở các tiêu
chí, yêu cầu mà luật pháp đã quy định.
Nhưng cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chỉ

có thể vận hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, nhân dân được phân định rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ
thể thông qua một hệ thống thể chế và quy chế.Về nguyên tắc, quyền hạn phải
ln gắn với trách nhiệm cùng với nó là các biện pháp kiểm soát quyền hạn.
Trong bối cảnh hiện nay, có sự chia sẻcác chức năng quyền lực giữa 3 chủ
thể này. Sự tham gia của người dân thông qua các tổ chức xã hội dân sự gày
càng có tác động mạnh mẽ đến các quyết định chính trị quan trọng của đất nước.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà
nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân
chủ hiện đại.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,


13
tư pháp. Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối việc thiết kế mơ hình tổ chức quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải dẫn dắt,
nhưng không phải với tư cách một sự áp đặt quyền lực từ bên ngồi. Thay vào
đó, Đảng phải là và phải hành động như một cơ chế hữu cơ để mang tính tiền
phong.
2. Những nhân tố đảm bảo thực thi hiệu quả quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay
a. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả
- Cương lĩnh, đường lối, chính sách
+ Một chính sách đúng phải đảm bảo mục tiêu của giai cấp phải phù hợp
với xã hội, hướng phát triển của dân tộc và nhân loại;
+ Phải tạo ra liên minh, thậm chí chia sẻ quyền lực với lực lượng giai cấp
khác để giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị;
+ Chính sách đó phải giải quyết được những vấn đề bức xúc của đời sống

xã hội; phải phù hợp với đặc điểm truyền thống văn hố dân tộc;
+ Các chính sách phải tạo ra được sự ổn định trong xã hội, tạo ra và củng
cố niềm tin của dân đối với hệ thống chính trị và đối với người cầm quyền, đem
lại sự phát triển cho quốc gia và cộng đồng.
- Hệ thống tổ chức có hiệu quả:
Mỗi giai cấp đang nắm giữ quyền lực nhà nước phải xây dựng cho mình
một hệ thống tổ chức hiệu quả gồm:
Một đảng chính trị vững mạnh - bộ tham mưu lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành quyền lực chính trị. Sau khi giành được chính quyền, đảng chính trị trở
thành đảng cầm quyền, xây dựng đủ năng lực lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính
trị, xây dựng nhà nước và các tổ chức chính trị khác, đảm bảo cho hệ thống
chính trị vững mạnh và có hiệu lực. Xây dựng và phát triển các tổ chức chính trị
của quần chúng, mặt trận thống nhất làm cơ sở xã hội cho quyền lực chính trị
của giai cấp mình.
Một hệ thống hành chính hiệu quả, minh bạch, tinh gọn.


14
Đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất, tạo được sự tín nhiệm và lịng
tin trong nhân dân và đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đất nước.
- Cán bộ lãnh đạo: Các nhà lãnh đạo cần có những tố chất đặc biệt để tạo
ra sức mạnh chung, tạo ra động lực phát triển cho quốc gia, tạo ra sự gắn kết
trong dân cư, tạo ra niềm tin của người dân vào chính quyền, và đặc biệt là dẫn
dắt quốc gia đó vượt qua những thăng trầm trong quá trình phát triển, giải quyết
một cách hợp lý, tinh tế và sáng tạo các tình huống có vấn đề; một mặt để bảo vệ
sự ổn định và an ninh bên trong quốc gia, mặt khác, bảo vệ quốc gia khỏi các
mối đe dọa từ bên ngoài.
b. Các yếu tố đảm bảo tínhhiệu lực
- Tính khoa học. Để quyền lực chính trị được thực thi một cách hiệu quả,
vấn đề đặt ra là việc tổ chức và thực thi quyền lực đó trong thực tiễn phải hiệu

quả, khoa học, nghĩa là hiệu quả thực thi quyền lực chính trị phải rõ ràng và bền
vững, việc tổ chức và thực thi quyền lực chính trị phải được luận chứng chặt chẽ
và đảm bảo mức độ thành cơng cao.
- Tính đại diện lợi ích. Tính đại diện lợi ích thể hiện đòi hỏi giai cấp nắm
giữ quyền lực nhà nước phải tuyển lựa được các đại biểu ưu tú của nhân dân và
của giai cấp mình vào đội ngũ cán bộ. Ngoài ra, trong tổ chức và họat động của
hệ thống chính trị, cần cần có sự tham gia tích cực của đơng đảo quần chúng
nhân dân. Điều này có thể được thực hiện thông qua:
Một hệ thống bầu cử dân chủ, khoa học, phù hợp và hiệu quả với mục tiêu
chính trị
Có các cơ chế tham khảo rộng rãi ý kiến của nhân dân
Có cơ chế phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân
Mở rộng và nâng cao chất lượng của các hình thức dân chủ, đặc biệt là
khuyến khích dân chủ tham gia.
- Tính hợp pháp, hợp lệ. Tính hợp pháp, hợp lệ thể hiện ở hình thức lựa
chọn người lãnh đạo và ra quyết định. Sự lựa chọn lãnh đạo phải tạo ra được sự
thừa nhận và đồng thuận trong xã hội và việc ra quyết định phải được thực hiện


15
thơng qua một q trình cơng khai, minh bạch được luận chứng rõ ràng và được
thừa nhận, ít nhất là về mặt pháp lý.
Những nhân tố trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong
quá trình phát triển và hồn thiện. Việc hồn thiện các nhân tố trên biểu hiện sự
trưởng thành của giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội.
Để đảm bảo các nhân tố này có thể vận hành hiệu quả, cần tăng cường tính
pháp chế trong tồn xã hội và trong nền chính trị của đất nước.
3. Vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Việc kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam bắt nguồn từ nguồn gốc của
quyền lực và từ nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị. Đây là nhu cầu

khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền.
Việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xã hội càng trở
nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm soát. Đây là một yêu cầu khách quan do sự phân cơng lao động xã
hội, do tính chun nghiệp hóa của hoạt động quyền lực.
Với những đặc điểm và những biến đổi của quyền lực chính trị trong xã hội
hiện đại, cách thức kiểm soát quyền lực cũng phải thay đổi: cách thức kiểm sốt
bên trong là khơng đủ mà cần có sự kết hợp các hình thức kiểm soát khác nhau.
Cơ chế kiểm soát bên trong hệ thống nhà nước, thực hiện dựa trên sự phân
công quyền lực trong nội bộ bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực bên trong tổ
chức quyền lực nhà nước (giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước: giữa
lập pháp, hành pháp và tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và địa
phương). Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước.
Cơ chế kiểm sốt bên ngồi hệ thống nhà nước là q trình nhân dân kiểm
sốt quyền lực nhà nước dựa trên mối liên hệ giữa nhân dân (chủ thể của quyền
lực nhà nước) và nhà nước (chủ thể nhận ủy quyền, thực hiện quyền lực nhà


16
nước). Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy
nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý.
Ngồi ra, cịn cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước bởi đảng chính trị cầm
quyền (kiểm sốt quyền lực dựa trên quan hệ lãnh đạo - quản lý). Xuất phát từ
bản chất của hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nên kiểm soát quyền lực
nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước
quản lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất yếu lịch sử và khách quan ở

nước ta.
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế cả về lý luận và thực tiễn. Chúng ta không thiếu cơ chế kiểm sốt
quyền lực mà chính là cơ chế kiểm sốt quyền lực được xây dựng và thực thi
cịn hình thức và kém hiệu quả. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn
mờ nhạt, sức ảnh hưởng đối với các chủ thể bị giám sát không lớn. Hiệu lực sau
giám sát chưa cao, chế tài chưa đủ mạnh. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên trong việc giám sát, phản biện chưa thực sự được coi trọng
đúng mức, tiếng nói của các tổ chức này có sự ảnh hưởng khơng lớn, khơng đủ
khả năng bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các thành viên mà nó đại diện. Các
phương tiện thơng tin đại chúng cịn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động giám
sát, quyền tiếp cận thơng tin cịn bị hạn chế; các thiết chế làm chủ của nhân dân
cịn hình thức, chung chung và khó thực hiện.
Có thể thấy, ở Việt Nam, kiểm soát quyền lực nhà nước là chưa đủ mà
kiểm sốt quyền lực chính trị cịn phải là kiểm sốt quyền lực chính trị từ cơ
quan cao nhất (kiểm sốt quyền lực của Đảng).Quốc hội với tư cách là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất (cũng tức là quyền lực dân cử cao nhất) sẽ có quan
hệ với Đảng (quyền lực thực sự cao nhất) như thế nào?Thực tiễn cho thấy, Đảng
ta là đảng duy nhất cầm quyền, thực hiện vai trị cầm quyền. Thế nhưng việc
kiểm sốt quyền lực ngay trong Đảng cịn bất cập, làm cho tình trạng quyền lực
tập trung quá mức mà không bị kiểm sốt chặt chẽ, dẫn đến khơng ít trường hợp


17
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, sự chuyên quyền, độc quyền trong Đảng,
can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trên thực tế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta phản ứng rất
chậm với những hành vi tiêu cực của các cơ quan và công chức nhà nước.Một xã
hội dân chủ cần sự kiềm chế và cân bằng quyền lực để ngăn chặn sự lạm quyền.
Mục đích các tổ chức xã hội công dân đặt ra là khắc phục khuynh hướng tập

trung hoá cao độ quyền lực nhà nước, chuyển một bộ phận quyền lực đó cho sự
tự quản của cộng đồng, xã hội.
Các tổ chức của xã hội công dân giữ cho việc thực thi quyền lực của nhà
nước được cân bằng trong xã hội, không thiên vị hay tạo ra đặc quyền cho một
nhóm người hay bất cứ một tầng lớp xã hội nào; thể hiện sự phản biện của xã
hội đối với chính sách của nhà nước để nhà nước đó đáp ứng được nhu cầu, lợi
ích của người dân. Các tổ chức xã hội cơng dân cịn giám sát các chính sách,
hành động của chính phủ và kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống hành chính.
Khi lựa chọn những người đại diện cho mình điều hành cơng việc nhà
nước, nhân dân có quyền kiểm tra giám sát nhà nước, các đại biểu của mình
bằng nhiều hình thức, trong đó, phương thức hữu hiệu nhất là thông qua các tổ
chức của xã hội công dân. Đây là một cách thức quan trọng để người dân thực
hiện quyền dân chủ của mình. Việt Nam cần cân nhắc kiểm sốt quyền lực
thơng qua các tổ chức xã hội công dân để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám
sát quyền lực chính trị.


18
KẾT LUẬN
Là một quân nhân, tôi nhận thức sâu sắc rằng: Được phục vụ trong QĐND Việt
Nam - Quân đội Anh hùng của dân tộc Anh hùng, là một niềm vinh dự, tự hào, nhưng
cũng là trách nhiệm trước Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Là người quân nhân cách
mạng, điều cần thiết và quan trọng nhất - là trung thành, trung thành tuyệt đối và vô
hạn với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân.
Bản thân là sỹ quan quân đội, tôi nhận thức sâu sắc rằng: “Sỹ quan QĐND Việt
Nam là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hịa XHCN Việt
Nam”. Là Phó Chủ nhiệm Chính trị Trung đồn, đang cơng tác tại Bộ Chỉ huy Quân
sự tỉnh Phú Thọ, Quân khu 2; là cán bộ của Đảng, Nhà nước, tôi luôn thấm nhuần lời
dạy của Bác: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ
không được kêu mình đói; Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ khơng được kêu mình rét;

Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ khơng được kêu mình mệt”. Và đặc biệt, cán bộ phải là
tấm gương sáng, mẫu mực về phẩm chất, đạo đức, lối sống và phương pháp tác phong
công tác để cán bộ, chiến sĩ cấp dưới học tập, noi theo: “Hành động của người cán bộ
là mệnh lệnh không lời đối với người chiến sĩ”.
Là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tơi ln tích cực, tự giác học tập, rèn
luyện đạo đức cách mạng. Bởi: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”; “Cũng
như sông cần phải có nguồn, khơng có nguồn thì sơng cạn; cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức. Nếu khơng có đạo
đức thì cho dù có tài giỏi đến mấy cũng khơng thể lãnh đạo được cách mạng,
không thể lãnh đạo được nhân dân”.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục, suốt đời: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó
được hình thành do đấu tranh, rèn luyện và củng cố bền bỉ mà có; cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.”
Bản thân tôi luôn khắc sâu lời dạy của Bác: “Đảng viên đi trước, làng nước
theo sau”; “Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam là những người giàu sang
khơng thể cám dỗ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, ũy vũ không thể khuất


19
phục”; “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Đối với công tác tổ chức xây dựng Đảng, bản thân luôn chấp hành nghiêm nền nếp
sinh hoạt Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ; ln đề cao thực hiện tự phê bình và phê
bình góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Chi bộ.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quy luật,
đặc biệt là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Bên cạnh đó,

phải bám sát mục tiêu xây dựng nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị và mơi
trường hịa bình, tạo điều kiện để đất nước phát triển nhanh, bền vững thực hiện
thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đối với bản thân trong thời gian tới cần xác định được trách nhiệm và
nhiệm vụ của mình, ln phấn đấu hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, nắm được những
vấn đề lý luận chung về quyền lực chính trị: khái niệm, đặc điểm, cơ sở khách
quan, quá trình thực thi quyền lực chính trị; những biến đổi của quyền lực chính
trị trong xã hội hiện đại; cách thức tổ chức và thực thi quyền lực chính trị ở Việt
Nam và các vấn đề cấp bách hiện nay. Trên cơ sở đó, vận dụng khn khổ lý
thuyết về quyền lực để phân tích và giải quyết các tình huống, các quan hệ
quyền lực chính trị cụ thể trong cuộc sống, khách quan trước những biến đổi
trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, kiên định lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước về quyền lực
chính trị và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay./.


20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) J. Mills. Luận về tự do, Nxb, Chính trị Quốc gia, H., 2005.
2) Joseph S. Nye Jr, Quyền lực để lãnh đạo, NXb KHXH 2015
3) Joseph S. Nye Jr, Tương lai của quyền lực, NXB Thông tin và Truyền
thông, 2016.
4) Joseph S. Nye Jr, Soft Power: The Means To Success In World
Politics, Hachette UK, 2009
5) Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi,
H., 1998.
6) Viện Chính trị học, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Tập 9, Chính
trị học, Nxb Lý luận Chính trị, 2017.




×