Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của nam cao trước cách mạng tháng tám 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.96 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
BI KỊCH NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

HUỲNH DƯƠNG

Hậu Giang, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA CƠ BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
BI KỊCH NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Giảng viên hướng dẫn
Ths. Hồ Thị Xuân Quỳnh

Sinh viên thực hiện
Huỳnh Dương


LỜI CẢM TẠ
Sau thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hồn thành luận văn tốt nghiệp. Tơi
xin gửi lời cảm ơn đến thầy cô ở trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo điều kiện


thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, và các thầy cô thỉnh
giảng đã giảng dạy tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tơi xin kính gửi lời cảm ơn tới cô Hồ Thị Xuân Quỳnh, người đã
hướng dẫn tận tình để tơi có thể hồn thành khóa luận một cách tốt nhất.
Đồng thời, tôi cũng gửi lời cám ơn đến gia đình và bạn bè, những người đã
giúp đỡ và động viên tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Trân trọng cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Huỳnh Dương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn do tôi thực hiện không trùng với bất cứ tài liêu nào
đã có, và luận văn là do chính bản thân tơi thực hiện, nghiên cứu, tổng hợp phân
tích.
Sinh viên thực hiện

Huỳnh Dương


MỤC LỤC
Phần một - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………............................................................................1
2. Lịch sử vấn đề…………………………………………………….…………......2
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………....5
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………….….....6
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………….7
Phần hai - Phần nội dung:
CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TÁC GIẢ NAM CAO

1.1 Một số nét về nhà văn Nam Cao (1917-1951)
1.1.1 Tiểu sử…………………………………………………………………………9
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao...................................................................12
1.1.2.1 Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám………………………………...……..12
1.1.2.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám…………………………………………14
1.2 Quan niệm sang tác……………………………………………………………15
1.3 Đề tài người nông dân – một trong những đề tài lớn trong sự nghiệp sáng
tác của Nam Cao. …………………………………………………………………16
1.4 Khái niệm về cái bi ………………………………………………..………….26
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN BI KỊCH CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
2..1 Tình cảnh của người nông dân ……………………...……………………...30
2.1.1 Luôn làm việc vất vả, cực nhọc……………………………………….………30
2.1.2 Ln bị cái đói hành hạ…………………………………………………....…36.
2.2 Biểu hiện bi kịch ....................................................................…………………38
2.2.1 Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người……………………....………………….38
2.2.2 Bi kịch vỡ mộng……………………………………………...……………….46


2.2.3 Bi kịch tự ý thức………………………………………………...…………….48
CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT GĨP PHẦN KHẮC HỌA
BI KỊCH CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN
3.1 Nghệ thuật miêu tả nhân vật
3.1.1 Nghệ thuật miêu tả ngoại hình…..……………………………………………51
3.1.2 Nghệ thuật miêu tả nội tâm….......……………………………………………54
3.1.3 Nghệ thuật miêu tả hành động, cử chỉ………………………………………...58
3.2 Giọng điệu
3.2.1 Giọng điệu kể lể, thống thiết……………………………………………….…60
3.2.2 Giọng điệu cảm thông, chia sẻ.........................................................................64
3.2.3 Giọng điệu trân trọng và trìu mến.....................................................................67

3.2.4 Giọng điệu xót xa và đau đớn...........................................................................68
3.2.5 Giọng điệu lạnh lùng và chua chát....................................................................70
Phần ba - Kết luận
Kết luận
Tư liệu tham khảo


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn 1930-1945 vơ cùng tăm tối và cả
dân tộc chìm đắm trong đêm trường nộ lệ. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khốn khổ, lầm
than. Bằng cảm quan hiện thực nhạy bén và trái tim nhân đạo cao cả, Nam Cao đã hướng
ngịi bút của mình vào tận ngõ ngách, góc khuất để phản ánh cuộc sống tăm tối bần cùng
của xã hội lúc bấy giờ. Vì thế khi nhắc tới sáng tác của Nam Cao là nói đến sự phong phú
và đa dạng của một ngòi bút đầy tài năng. Hai đề tài chính trong sự nghiệp sáng tác của
Nam Cao đó là đề tài người nơng dân, những con người “thấp cổ bé họng” và trí thức tiểu
tư sản.
Người viết chọn đề tài :”Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước
1945” xuất phát từ lòng yêu mến, cảm phục tài năng và quan điểm vì nghệ thuật của Nam
Cao. Nhà văn với thái độ dám nhìn vào sự thật nên đã có những trang viết thật độc đáo và
sâu sắc về cuộc sống của những con người sống trong xã hội đen tối giai đoạn 1930-1945.
Nam Cao suốt đời chiến đấu với cái ác cái xấu để bảo vệ cái tốt đẹp và bảo vệ tuyên ngôn
nghệ thuật mà ông đã đặt ra cho đời mình “ Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng
bằng nó làm cho người gần người hơn.” (Đời thừa). Nam Cao đã góp phần đáng kể vào
việc hình thành nhân cách của những người cầm bút chân chính. Bên cạnh sự u thích
muốn tìm hiểu về tác giả Nam Cao, người viết chọn đề tài này cho thấy được sự mới mẻ và
độc đáo cũng như sự chân thành của ngòi bút hiện thực Nam Cao khi viết về người nông
dân. So với các nhà văn hiện thực cùng thời đều viết về cái khổ, về vật chất nhưng Nam
Cao có phần tiến bộ hơn, khi ơng tìm hiểu cái khổ về mặt tinh thần. người nơng dân sống

trong xã hội thực dân nửa phong kiến không những thiếu thốn về mặt vật chất mà thiếu
thốn về cả mặt tinh thần. cái khổ về vật chất có thể nguôi ngoai được nhưng cái khổ về mặt
tinh thần thì nó lại càng đáng sợ hơn.

1


2.Lịch sử vấn đề
Hai mảng đề tài khơi nguồn bất tận cho biết bao thế hệ độc giả muốn tìm tòi, nghiên
cứu về tác phấm của Nam Cao là đề tài tri thức tiểu tư sản và đề tài người nơng dân . Mỗi
nhà nghiên cứu đều có một cách nhìn, cách cảm riêng khi nghiên cứu về những “đứa con
tinh thần” của Nam Cao. Đặc biệt ở đây người viết muốn tìm hiểu những bài nghiên cứu
về đề tài người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao để lấy đó làm tư liệu q báu cho
q trình nghiên cứu về đề tài: “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao
trước 1945”.
Đầu tiên xin được tìm hiểu những bài nghiên cứu về đề tài người nông dân ở
phương diện nội dung. Trong quyển Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học , năm
1997 của Hà Minh Đức, tác giả nghiên cứu những sáng tác viết về người nông dân của
Nam Cao với những cuộc đời, những số phận bi thảm, đáng thương của những con người
“thấp cổ bé họng” trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Hà Minh Đức đã đi vào phân
tích, đánh giá, đưa ra những dẫn chứng chi tiết đề làm bật nổi lên số phận bi thảm của
người nông dân: “Bằng cách thể hiện chân thật những cảnh đời tủi cực, nghèo khổ nơi
xóm thơn, Nam Cao đã đề cập được q trình bần cùng hóa. Kết quả khốc hại của chế độ
bóc lột người, của một bộ máy thống trị vô cùng hà khắc” [4; tr.52]. Nội dung thể hiện chủ
yếu trong bài viết là nói về nỗi khổ, nỗi đau cùng cực của người nông dân mà nguyên nhân
sâu xa là do chế độ xã hội gây ra. Và làng Vũ Đại như là một hoàn cảnh điển hình trong
những sáng tác viết về người nơng dân của Nam Cao. Vì làng Vũ Đại là nơi bộc lộ những
ung nhọt và những cảnh tượng đáng thương của những kiếp người sống trong xã hội Việt
Nam giai đoạn tiền cách mạng. Hoàng Ngọc Hiến khi nghiên cứu những tác phẩm viết về
người nông dân của Nam Cao, ông cũng có bài viết “Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

của truyện Chí Phèo” trong quyển Văn học và văn học, Nxb Văn học – H năm 1997.
Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét “Trong “Chí Phèo” qua cuộc sống của làng Vũ Đại, tác
giả đã làm nổi bật một số nét cơ bản trong hoàn cảnh lớn của nông dân Việt Nam thời bấy
giờ. Bọn thống trị cũng như người lao động bị tha hóa, những chất độc ở ngay trong sự
sống thấm vào máu từng người, vùi dập những gì tốt đẹp và kích thích những gì nhỏ nhen,
xấu xa trong con người” [14; tr.196]. Hay trong quyển Nam Cao – Đời văn và tác phẩm ,
2


Nxb Văn học năm 1998, Nguyễn Văn Hạnh khi nghiên cứu về đời sống của người nông dân
thông qua những sáng tác của Nam Cao thì ơng có nhận định sau: “Họ thuộc thế giới của
những người cùng khổ ở “dưới đáy” của xã hội, những con người bị tha hóa, bị què quặt,
cả về thể xác lẫn tinh thần, bị áp bức, bị hành hạ vì tối tăm mặt mũi lo chạy ăn từng bữa ,
vì sự bế tắt mục ruỗng của xã hội, vì sự hèn nhát, sợ hãi của chính mỗi người” [15; tr.179].
Cũng nói về vấn đề nhân cách của người nông dân khi phải đối mặt với cái đói cái nghèo
thì Lê Đình Kỵ đã viết: “Nam Cao đã diễn tả với một sức mạnh lạ thường q trình lưu
manh hóa của một số quần chúng cơ bản trong hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bốc lột của xã
hội cũ” [16; tr.108]. Đau xót và thương cảm trước nỗi đau bị tước đoạt nhân phẩm của
người nông dân, Vũ Dương Quỹ đã đi vào nghiên cứu về những quá trình đi tìm lại nhân
cách bị đánh mất: “Miêu tả số phận người nông dân chính là q trình đi tìm nhân cách
của họ” [16; tr.185]. Tác giả đã định nghĩa con đường tìm nhân cách mà nhà văn Nam Cao
hướng nhân vật của mình vươn tới: “Chí Phèo – Con đường tìm nhân cách của người
thanh niên Chí Phèo là đi tìm lại cuộc đời” [16; tr.185] hay “Con đường thứ hai đi tìm
nhân cách là con đường của Lão Hạc (trong truyện ngắn Lão Hạc) xin tạm gọi là con
đường của tình thương và danh dự” [16; tr.186 – 187]. Từ nguyên nhân nghèo khổ, bị xã
hội áp bức, người nông dân đã khơng giữ được nhân phẩm của mình trước hồn cảnh nên
họ bị biến chất, bị tha hóa và lâm vào bi kịch của những con người bị bần cùng hóa, bị lưu
manh hóa. Lê Đình Kỵ đã xót xa, thương cảm đối với q trình con người bị tha hóa biến
chất và ông đã cảm thông sâu sắc với nỗi đau của họ: “Quần chúng nghèo khổ dù hiện ra
dưới màu sắc sáng sủa hay u ám, ý nghĩa khách quan của truyện ngắn Nam Cao vẫn là

một: phải cứu lấy cuộc sống, phải cứu lấy con người” [16; tr.110].
Tiếp theo người viết đi vào tìm hiểu những ý kiến và những cơng trình nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu về phương diện nghệ thuật trong những truyện ngắn viết về người
nông dân trước cách mạng tháng tám 1945 của Nam Cao. Trong quyển Văn học Việt Nam
hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997, Phong Lê cũng tìm tịi
và nghiên cứu về giá trị tố cáo xã hội qua những tác phẩm của Nam Cao. Phong Lê không
đi vào hai mảng đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao là viết về người nơng dân và trí
thức tiểu tư sản, ở đây Phong Lê đi sâu vào nghiên cứu những cái nghịch dị trong những
sáng tác của Nam Cao. Ông đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm Chí Phèo và Sống mòn. Qua
3


việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật người nơng dân của Nam Cao thì
Phong Lê đã phát hiện được những nét mới trong những sáng tác của Nam Cao là ông đã đi
sâu với những cái vặt vãnh của cuộc sống đời thường: “Nam Cao và Sê Khơp đều tìm về
một chủ nghĩa hiện thực của đời thường, soi chiếu các giá trị phổ quát của đời sống vào
“những chuyện không muốn viết”, vào những điều tưởng như chi li vặt vãnh” [17; tr.252].
Tuy nhiên, từ những chi tiết nhỏ nhặt, đời thường mang những nét rất riêng đã có một ý
nghĩa khái quát thật sâu sắc: “Vũ Đại – không chỉ gợi một đơn vị làng với những ao
chuôm, những lũy tre, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự biểu hiện
chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể dân cư nào đó, cả
nơng thơn và thành thị” [17; tr.255]. Từ những hình ảnh của những người nông dân trong
những sáng tác của Nam Cao, chúng ta như thấy được cả một xã hội đang ngột ngạt đen tối
và đang quằn quại trong đêm trường nô lệ dưới sự thống trị của thực dân nửa phong kiến.
Cuộc sống của những người nông dân vô cùng nghèo đói, khổ cực và tủi nhục. Nhà văn
Nam Cao đã thấy được cảnh nghèo túng, bần cùng của họ và ơng có một cái nhìn rất trân
trọng và cảm thông đối với những người nông dân. Hay trong quyển Văn học Việt Nam
1990 – 1945, Nxb Giáo dục năm 1997, Phan Cự Đệ đã có nhận xét về ngòi bút hiện thực
của Nam Cao “Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống ngột
ngạt, đen tối của xã hội thực dân phong kiến, và thể hiện sinh động thân phận khổ đau, bế

tắc của những người tiểu tư sản nghèo và nông dân những năm 1940 – 1945” [18; tr.471]
và Nam Cao là “Người thư kí trung thành của thời đại, với một bút pháp riêng đầy sáng
tạo, Nam Cao đã đặt ra trước người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua
chát, những bi kịch đau đớn, vật vã. Thông qua những sáng tác của mình, Nam Cao đã
phản ánh cái khung cảnh ngột ngạt, tâm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng
tám” [18; tr.475]. Một nhận định cũng không kém phần quan trọng cảu Trần Đăng Suyền
“Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn” – Tạp chí văn học
số 6 năm 1998, ông viết “Nam Cao là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời
gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông để
lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật
điêu luyện, độc đáo” [19; tr.63]. Và trong quyển Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa
4


học xã hội năm 2008 của Trần Đăng Suyền, ông đi vào khám phá thế giới nghệ thuật trong
những sáng tác của Nam Cao “Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ
bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm
thông lớn lao đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo
khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ.
Trong những hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm
sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí
và tính cách của nhân vật. Chủ nghĩa tâm lí của sự trần thuật đã chi phối mạnh mẽ và sâu
sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu, xung đột đến không gian và
thời gian nghệ thuật” [20; tr.41 – 42]. Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên của các tác giả
thì đều có điểm chung là: đều nói về cái khổ về cuộc sống vật chất và cái khổ về cuộc sống
tinh thần của người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao. Các tác giả đưa ra hàng
loạt những cái khổ của người nông dân khi sống trong chế độ thực dân phong kiến. Và
những tác động ghê gớm của cơ chế xã hội đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của
những người nông dân và ảnh hưởng đến cả một bộ mặt xã hội nông thơn Việt Nam lúc

bấy giờ. Nó đã đẩy đời sống của người dân rơi vào cảnh bần cùng, ngõ cụt và khơng lối
thốt. Đồng thời các tác giả cịn làm bật nổi lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà
văn Nam Cao trong những sáng tác viết về đề tài người nơng dân.
3.Mục đích nghiên cứu:
Hình ảnh người nông dân được các nhà văn khắc họa một cách chân thật, sinh động qua
ngồi bút hiện thực đầy sáng tạo và độc đáo. Mỗi nhà văn có cái nhìn riêng về người nơng
dân. Các nhà văn hiện thực phê phán tuy cùng cảm quan hiện thực nhạy bén nhưng việc
thành cơng của những trang viết cịn phụ thuộc rất nhiều vào tài năng, tấm lòng và sự nhiệt
huyết của từng ngồi bút. Đặc biệt Nam Cao có những trang viết về người nông dân rất đa
dạng, phong phú và chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ơng. Khi viết về
người nơng dân thì Nam Cao thường viết về người nông dân rất đa dạng, phong phú và
chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ơng. Khi viết về người nơng dân thì Nam
Cao thường viết về những cái khổ, những bi kịch về số phận của những người nông dân
sống trong xã hội thuộc địa nữa phong kiến. Người nông dân bị đàn áp, bị xô đẩy vào
5


những sự cùng cực và rơi vào bi kịch của số phận những người nghèo khổ bất hạnh.Vì thế
nhà văn Nam Cao được xem là một trong những nhà văn hiện thực có nhiều sáng tác hay
và độc đáo khi viết về mảng đề tài người nông dân. Đặc biệt viết về những cái khổ, cái tủi
nhục và những kết cục bi thảm của những số phận bất hạnh của người nông dân. Khi
nghiên cứu về đề tài “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách
mạng tháng Tám 1945” người viết dựa trên bình diện so sánh, đối chiếu với những sáng tác
của Ngô Tất Tố, Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi
Hiển…cũng như những tác phẩm của những nhà văn Tự lực văn đồn khi viết về đề tài
người nơng dân như: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…để thấy được
những điểm khác biệt giữa các nhà văn khi viết về người nông dân. Đồng thời, người viết
vận dụng cái bi – một phạm trù mĩ học vào việc luận giải cái bi của những cuộc đời các
nhân vật nông dân mà Nam Cao đã miêu tả trong những truyện ngắn trước Cách mạng
tháng Tám -1945. Từ đó thấy được giá trị hiện thực đặc biệt là giá trị nhân đạo sâu sắc

trong truyện ngắn viết về đề tài nông dân trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam
Cao. Và việc nghiên cứu về đề tài này, người viết nhằm mục đích là để lại tư liệu quý giá
cho bản thân trong q trình cơng tác sau này.
4.Phạm vi nghiên cứu
Từ một nhà văn chân chất, hiền lành và rồi trở thành một người lính anh dũng đã chiến
đấu và đã hi sinh vì quê hương Tổ Quốc. Nam Cao đã để lại cho đời những tác phẩm có giá
trị vừa mang tính nhân văn về quyền sống của con người, đặc biệt là người nơng dân (Lão
Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Nghèo, Dì Hảo…) và vừa mang tính tun ngơn và quan điểm
nghệ thuật (Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn…). Nam Cao đã viết nhiều về hai đề tài về
nơng dân và trí thức tiểu tư sản đã tạo nên nét riêng trong phong cách sáng tác của Nam
Cao. Những sáng tác của Nam Cao thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán ln thu hút
nhiều người thích nghiên cứu, tìm tịi và khám phá. Những cơng trình nghiên cứu về tác gia
Nam Cao của những nhà nghiên cứu sẽ góp phần làm cho những thế hệ hơm sau và mai
sau sẽ hiểu sâu sắc, đúng đắn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu
của nhà văn Nam Cao. Với tư cách là một người nghiên cứu, người viết chọn nghiên cứu
về nhà văn Nam Cao, một phần là muốn đóng góp một ít sự hiểu biết mới mẻ của bản
ong về nội dung “bi kịch” được thể hiện trong những sáng tác viết về người nông dân.
6


Đồng thời người viết nghiên cứu về Nam Cao vì muốn tri ân về những đóng góp to lớn và
rất ý nghĩa của nhà văn đối với văn học. Và phạm vi nghiên cứu của người viết là những
truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao trước cách mạng tháng tám – 1945: Chí
Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Đoàn chồng, Mua danh, Một bữa no, Một đám cưới, Tư cách mỏ,
Trẻ con khơng biết đói, Lan Rận, Nửa đêm,…Từ nội dung của những tác phẩm đó, người
viết đi sâu vào tìm hiểu những bi kịch trong số phận của những người nông dân sống trong
xã hội thực dân phong kiến. Qua đó ta sẽ thấy được giá trị phản ánh hiên thực một cách
chân thực và rất cụ thể của Nam Cao. Cũng thơng qua đó ta cũng thấy được giá trị hiện
thực, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo và những bài học triết lí mà nhà văn gởi gắm vào
trong tác phẩm. Do có rất nhiều tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài nghiên cứu nhưng

người viết cũng gặp nhiều khó khăn trong q trình nghiên cứu. Vì có nhiều người viết về
tác giả Nam Cao, viết về những tác phẩm của ông và có nhiều bài viết hay về nhà văn nên
người viết e rằng đơi khi có sự lập ý hoặc lập lại những điều mà người khác đã nói trong
những bài nghiên cứu trước của họ. Nhưng thay vào đó bằng những cố gắng cũng như
ong yêu quí chân thành đối với tác gia Nam Cao thì người viết hi vọng sẽ đạt được nhiều
thành công trong đề tài nghiên cứu này và có thể hồn thành sớm học phần luận văn của
mình.
5.Phương pháp nghiên cứu:
Mỗi cơng trình cứu thì tác giả đều lựa chọn cho mình một phương pháp nghiên cứu cụ
thể. Vì thế khi người viết chọn nghiên cứu về đề tài: “Bi kịch người nông dân trong truyện
ngắn của Nam Cao trước 1945” thì người viết đã chọn cho mình những phương pháp
nghiên cứu phù hợp với đề tài. Vì phương pháp là vũ khí, là cơng cụ để vạch ra hướng đi,
đường lối đúng đắn trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống. Và trong lĩnh vực khoa học cũng
vậy, muốn đạt được hiệu quả cao cho những cơng trình nghiên cứu ta phải vạch ra những
phương pháp đúng đắn cho cả quá trình nghiên cứu. Phương pháp và mục đích chính là
điều kiện đầu tiên và quan trọng trong mọi hoạt động. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học
thì phương pháp được xem là yếu tố quyết định trong việc đánh giá nhìn nhận vấn đề vì
nhờ phương pháp mà chúng ta có thể thấy được những q trình tìm tịi, nghiên cứu và
sáng tạo của họ trong những cơng trình nghiên cứu đó. Trong đề tài nghiên cứu về “Bi kịch
người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước 1945” thì người viết đã vận dụng
7


những phương pháp nghiên cứu khoa học để truyền tải nội dung mà người viết muốn trình
bày về cơng trình nghiên cứu của mình. Cụ thể những phương pháp nghiên cứu tiêu biểu và
có hiệu quả mà người viết đã sử dụng trong bài nghiên cứu gồm có những phương pháp
sau: Đầu tiên người viết đọc kỹ những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của Nam
Cao, đặc biệt là những truyện ngắn thể hiện “bi kịch” trong đó để nắm được nội dung
chính và giá trị của từng tác phẩm cụ thể; thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài để hiểu rõ
hơn về “bi kịch” và nhất là những “biểu hiện của bi kịch” trong tác phẩm viết về đề tài

người nông dân của Nam Cao. Từ đó, người viết tập trung vào phân tích từng loại bi kịch
qua số phận của người nơng dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đồng thời,
người viết cịn ghi nhận những đóng góp, những nhận định có tính chất khách quan chính
xác của những nhà nghiên cứu trước đó để làm cơ sở nền tảng cho việc đưa ra những dẫn
luận chung về “bi kịch” là những “buổi hiện của bi kịch” trong sáng tác văn học. Để từ đó
người viết đi vào lý giải vấn đề cái bi thông qua từng tác phẩm cụ thể viết về người nơng
dân do đó, ở đề tài này người viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp cùng
với những thao tác chứng minh, phân tích, giải thích, bình luận. Đồng thời người viết còn
vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để làm bật nổi vấn đề mà người viết muốn đề cập
đến và để làm sáng tỏ những luận điểm mà người viết đã nêu. Người viết cũng đưa ra
những dẫn chứng và lý lẽ, kiến thức, kinh nghiệm sống để chứng minh, lập luận những vấn
đề tiêu biểu mà người viết trình bày.

8


Phần hai - PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TÁC GIẢ NAM CAO
1.1. Mấy nét về cuộc đời của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao (1917 - 1951)
1.1.1. Tiểu sử
Nam Cao tên thật Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1915. Quê ở làng Đại Hoàng, phủ
Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nam Cao sinh
trưởng và lớn lên trong một gia đình trung nơng lúc trước có kết hợp bn bán ít nhiều
nhưng về sau bị phá sản. Ơng thân sinh Nam Cao có mở một hiệu đồ gỗ ở phố hàn Tiện –
Nam Định, sau vì thua lỗ nên cửa hàng vỡ, lại trở về làm ruộng. Gia đình Nam Cao sống
khá chật vật, đơng anh em và chỉ có một mình Nam Cao được đi học. Từ nhỏ Nam Cao đã
được lên Nam Định đi học. Năm 1934, Nam Cao thi trượt Thành Chung. Đầu năm 1935,
Nam Cao trở về quê để chữa bệnh. Cũng như đa số thanh niên thời bấy giờ, Nam Cao cưới
vợ khi anh mười tám tuổi. Và đó là ngày 2/10/1935 Nam Cao đã lập gia đình với bà Trần
Thị Sen. Vợ ông kém hơn ông một tuổi. Hai gia đình ở cùng xã đều sống bằng nghề nơng

nghiệp nhưng so về kinh tế thì gia đình bên vợ của Nam Cao có phần khá giả hơn. Vợ của
Nam Cao là một người vợ hết mực yêu chồng và lo lắng cho chồng nhưng lắm khi cũng
khổ vì chồng. Khi vừa cưới vợ xong được một tháng Nam Cao lên Nam Định đi tàu về Sài
Gòn sống và làm việc cho một người cậu là ông Ba Lễ, chủ một cơ sở may đồ Tây cho
Pháp. Nam Cao là một cậu học trò hiền lành nhút nhát nhưng cũng có nhiều điều mơ mộng
nên Nam Cao quyết định theo người cậu vào Sài Gòn sinh sống ấp ủ bao nhiêu ước mơ
muốn theo đuổi việc học tập của mình với hi vọng sẽ được sang Tây du học nhằm để mở
rộng tằm hiểu biết và để học hỏi “Y sẽ vào Đại học đường, y sẽ sang Tây, y sẽ thành vĩ
nhân đem những đổi thay lớn lao đến xứ sở mình” (Sống mịn). Và trong những năm sống
ở Sài Gòn, Nam Cao phải lăn lộn vất vả để kiếm sống, ngồi việc làm chính thì Nam Cao
cịn làm rất nhiều nghề khác như chích thuốc ở nhà thương, sống chung với phu phen, thợ
thuyền. Chính những năm tháng lao động đầy cực khổ này đã giúp cho Nam Cao nhìn thấy

9


đã hiểu biết về đời sống khổ cực bị đọa đày cả về vật chất lẫn tinh thần của những người
lao động mà đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản và nơng dân lao động nghèo. Nhưng bao hồi
bão bao khát vọng của Nam Cao chưa thực hiện được thì bệnh tật lại đến và hành hạ thân
xác Nam Cao. Nam Cao quay về làng cũ lúc này thì hồn cảnh gia đình lâm vào tình trạng
túng quẫn “Lũ em lúc nhút rất đông không được học,không được mặc, thường thường
không đến cả ăn, gầy guộc, rách rưới, bẩn thỉu” (Sống mịn), và một ơng bố nát rượu. Đến
năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng do bệnh tim và tê thấp nên ơng từ Sài Gịn trở ra Bắc.
Đứng trước bao chông gai và trở ngại của cuộc sống nhưng bằng sự kiên cường và lòng
quyết tâm đã tiếp thêm sức mạnh cho Nam Cao mạnh dạn ôn lại vốn học cũ và đi thi đậu
bằng Thành Chung. Sau đó Nam Cao xin làm cơng chức nhưng vì sức khỏe yếu nên không
được nhận vào làm. Và lúc này ông xin vào làm dạy học trong trường tư thục Cơng Thanh.
Chính mơi trường dạy học nhiều vất vả của một thầy giáo trường tư nên Nam Cao một
phần nào hiểu rõ hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo dưới chế độ
thực dân nữa phong kiến. Năm 1940, khi phát xít Nhật xâm lược Đơng Dương thì lúc này

Trường Cơng Thanh bị chúng lấy để làm chuồng ngựa. Lúc này Nam Cao đành lui về sống
một cuộc sống đói khổ, cơ cực và tủi nhục cùng với những người nông dân lao động nghèo
ở làng Đại Hoàng. Để trang trải cuộc sống và để phần nào giảm nhẹ gánh nặng cho gia
đình Nam Cao phải viết văn để kiếm sống. Đồng thời qua tác phẩm đó Nam Cao cũng
muốn gửi gắm những tâm tư, tình cảm và cái nhìn của mình đối với thực tại của xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ.
Năm 1943, Nam Cao tiếp thu đường lối đúng đắn của Đảng Cộng Sản Đơng Dương
qua đề cương văn hóa 1943 và sự giới thiệu của Tơ Hồi, Nam Cao tham gia vào nhóm văn
hóa cứu quốc bí mật cùng với Tơ Hồi, Ngun Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình
Thi…Và từ đó, Nam Cao đã xác định và quan điểm lập trường tư tưởng của mình trong
sáng tác gắn liền với “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi cơ sở Văn hóa cứu quốc và Phong trào
Cách mạng thanh niên bị giặc khủng bố Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt
minh ở địa phương. Khi cả nước bước vào cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đầy cam
go và ác liệt, Nam Cao cũng tham gia vào phong trào cướp chính quyền của phủ lý nhân và
Nam Cao được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó, Nam Cao được lên Hà Nội và cơng tác ở hội
Văn hóa cứu quốc. Có Thời kỳ Nam Cao được làm thư kí tịa soạn Tạp chí Tiên phong.
10


Đây là cơ quan ngôn luận của Hội cứu quốc. Cuộc Cách Mạng tháng Tám thành công rực
rỡ, cả dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ chuyển sang thân phận làm chủ đất nước.
Nhưng niềm vui thống nhất đất nước khơng trọn vẹn thì bọn thực dân Pháp đã điên cuồng
quay đầu lại xâm lượt đất nước ta một lần nữa. Vào ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi của
chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước cùng đứng lên chiến đấu chống lại thực dân Pháp
và kháng chiến chống Pháp toàn nước bùng nổ. Nam Cao theo tiếng gọi của quê hương
theo đoàn Nam tiến vào Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc, những năm kháng
chiến chống Pháp đầy gian khổ chính là lúc Nam Cao sống và chiến đấu hết mình vì quê
hương và tổ quốc. Nam Cao đã tham gia cuộc chiến,va chạm cuộc sống thực tế của cuộc
chiến để có những tác phẩm mang giá trị hiện thực và phản ánh đúng cuộc chiến mà cả dân
tộc Việt Nam đang đấu tranh chống thực dân pháp. Nam Cao vừa làm biên tập cho báo

Cứu quốc Việt Bắc, báo Cứu quốc Trung Ương, vừa là cộng tác viên tuyên truyền thông
tin: viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn
địch vận,…Năm 1948, Nam Cao được vinh dự kết nạp vào hàng ngũ của Đảng Cộng Sản
Đông Dương, đây là niềm vinh dự và niềm vui lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của nguời chiến sĩ cộng sản Nam Cao.
Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao
bị một tốn địch phục kích và bắn chết gần bốt Hồng Đan, Ninh Bình. Nam Cao ngã
xuống giữa lúc ông đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương. Chuyến đi đó nhà văn lấy
tư liệu hồn chỉnh về tác phẩm Làng nhưng ơng khơng kịp thực hiện được hoài bão và khát
vọng của cuộc đời mình .
Về con người của nhà văn, Nam Cao là một con người hiền lành, trầm mặc, nhút
nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nam Cao rất khổ tâm về cái tật “hãi
người” và “cái mặt không chơi được” (tên một truyện ngắn) của Nam Cao. Con người
“mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ơn tồn nhiều khi rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang
trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt”. Trước Cách mạng tháng Tám Nam Cao luôn
sống trong tâm rạng đau khổ, u uất, bất đắc chí. Phần vì ốm yếu, thất nghiệp nên Nam Cao
sống lay lắt qua ngày bằng nghề viết văn và dạy học – là hai nghề bạc bẽo khi đó. Nam
Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần mười năm
viết văn trước cách mạng, Nam Cao hầu như khơng có vị trí trên văn đàn đương thời. Hầu
11


hết những truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi vứt đi vào một xó nào đó
cho đến khi bản thảo bị thất lạc.
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
1.1.2.1. Thời kì trước cách mạng tháng Tám 1945
Năm 1936, Nam Cao mới bước vào văn đàn hiện thực phê phán, đây là giai đoạn
diễn ra quá trình đấu tranh quan điểm tư tưởng nghệ thuật, cũng như khuynh hướng sáng
tác cho mình. Và đây cũng là thời kì mà Nam Cao đang phiêu bạt ở đất lạ q người. ở sài
gịn ơng làm đủ nghề để kiếm sống vừa viết báo cho Kịch bóng, tiểu thuyết thứ 7, Ngày

nay. Nội dung của những tác phẩm thời kì này xốy sâu vào cuộc sống của những người
kiếm sống bằng nghề mua vui cho người khác “Cảnh cuối cùng” nói về cơ đào hát hát đam
mê ca hát, suốt đời chỉ biết nghệ thuật nhưng cuối cùng cô đã gục trên sân khấu với cả
giọng hát của mình. Và truyện “Hai xác chết” kể về một diễn viên nghèo bị tình phụ và anh
ta đã giết chết người tình của mình trong lúc biểu diễn cùng nhau. Những tác phẩm thời kì
này chưa được đánh giá cao vì chúng chưa đạt đến độ sắc xảo về nội dung và nghệ thuật.
lúc này Nam Cao lấy bút danh là: Nguyệt, Thúy Rư, Xuân Du, Nhiêu Khuê. Năm 1937,
ông gửi in trên Tiểu thuyết Thứ bảy: Nghèo, Đui mù. Trên báo Hữu Ích: những cánh hoa
tàn, một bà hào hiệp. thông qua nội dung của những tác phẩm này ta thấy được ngòi bút
Nam Cao đang đi vào khai thác bản chất của cuộc sống và phản ánh hiện thực cuộc sống.
Đây chính là dấu hiệu chuyển mình về khuynh hướng sáng tác trong sự nghiệp sáng tác của
nhà văn Nam Cao.
Từ năm 1940, khi phát xít Nhật tràn vào Việt Nam âm mưu bành trướng sở hữu Đông
Dương, trường Tư thục Công Thanh nơi mà Nam Cao đang dạy học bị chiếm đóng. Nam
Cao buộc thơi dạy phải về quê và viết truyện ngắn Cái chết của con mình gửi cho báo Hà
Nội Tân văn với bút danh Xuân Du. Năm 1941, là năm đánh dấu sự thành công vang dội
và khẳng định tên tuổi của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực phê phán khi Nam Cao
đem trình làng tập truyện ngắn Đơi lứa xứng đơi( bên trong bản thảo là cái lò gạch cũ, sau
dược đổi tên la Chí Phèo). Khi tác phẩm này ra đời đã dược sự đón nhận nồng nhiệt của
cơng chúng chính sự đón nhận ấy đã tiếp thêm nghị lực và niềm tin cho Nam Cao tiếp tục
sang tác theo khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Xã hội Việt Nam trong thời kỳ
12


này đang đắm chìm trong đêm trường nơ lệ, nhân dân phải sống trong tối tăm, u tối dưới
chế đọ thực dân nữa phong kiến. Bọn thực dân phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau nhằm
bóp nghẹt đời sống của nhân dân ta, làm cho nông dân sống trong cảnh bằng cùng, cơ cực
và nghèo đói. Chúng cịn tranh nhau bốc lột nhân dân ta làm cho nhân dân ta ngày càng
bần cùng hóa. Đây chính là thời điểm mà Nam Cao cần phát huy hơn nữa ngồi bút hiện
thực của mình. Năm 1942, Nam Cao trở về làng và sáng tác hàng loạt các truyện ngắn

như:Cái mặt không chơi được, Nhỏ nhen,Con mèo, Những truyện không muốn viêt, Nhìn
người ta sung sướng, Trẻ con khơng dược ăn thịt chó…đồng thời trong thời gian này ơng
cịn in nhiều truyện ngắn viết cho thiếu nhi: Con mèo mắt ngọc, Những kẻ khốn nạn, Người
thợ rèn, Nụ cười, Ba người bạn. Những truyện viết về thiếu nhi thường tập trung miêu tả
những cảnh đời lưu lạc, những mảnh đời bất hạnh, những đứa trẻ đầu đường xó chợ thiếu
thốn vật chất lẫn tinh thần. Nam Cao đã viết bằng cả trái tim cảm thơng thương xót đói với
những cảnh đời bất hạnh của những trẻ thơ vô tội.
Tháng 4/1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và cho ra đời các tác phẩm như:
Mua nhà, Quai dị, Từ ngày mẹ chết, Làm tổ, Thơi đi về, Truyện tình, Mua danh, Một truyện
xuvonia, Sau lại như thế này, Mong mưa, Tư cách mõ, Bài học quét nhà, Chuyện buồn giữa
đêm vui, Một bữa no, Đời thừa…In trên Tiểu thuyết Thứ bảy. Năm 1944 in truyện ngắn
lang rận, Một đám cưới và một truyện dài: Truyện người hàng xóm được in trên tờ Trung
Bắc chủ nhật, chia ra làm nhiều kì. Bản thân nội dung của những tác phẩm này không phản
ánh xã hội nhưng thông qua những cảnh đời cơ cực, những số phận bi thảm những con
người sống trong cảnh đói rách, nghèo khổ sau cùng phải lâm vào tình cảnh bế tắc bần
cùng hóa, bị tha háo về tiinh thần lẩn nhân cách cho ta thấy được giá trị tố cáo của tác
phẩm này rất cao. Qua đó, Nam Cao đã vạch trần bộ mặt xã hội thối nát đã gây cho người
nông dân biết bao nhiêu nỗi mất mát và chua cay vơ cùng to lớn. đó là sự căm hờn đối với
những chế độ áp bức, bất công và đàn áp cuộc sống con người của các thế lực thống trị.
Vào tháng 10/1944, Nam Cao hoàn thành tiểu thuyết “chết mòn”(sau đổi tên thành sống
mòn). Bộ tiểu thuyết này là cả một q trình “sống mịn” của người trí thức tiểu tư sản
giữa một xã hội mà suốt ngày phải sống trong cảnh “áo cơm ghì sát đất”, sống trong mối
quan hệ xấu tốt giữa con người với con người. Qua sống mòn chúng ta thấy được sức mạnh
tố cáo xã hội gay gắt cũng như thấy được khát khao thay đổi cuộc sống tù túng đó. Cuộc
13


sống chặt vật hằng ngày được thể hiện qua những mâu thuẩn và đời sống nội tâm của nhân
vật Thứ trong tác phẩm; “ Lòng Thứ đột nhiên hé lên một tia sáng mong manh: Thứ tự thấy
hi vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dễ chịu hơn, cơng bình

hơn, dễ chịu hơn” (sống mòn).
1.1.1.2 Sau cách mạng tháng Tám 1945
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Nam Cao tiếp tục tham gia hoạt động cách
mạng. Năm 1946, ơng tham gia vào đồn qn Nam tiến và tiếp tục viết Nỗi truân chuyên
của khách má hồng, Đường vô Nam, Cười. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, trong thời
kì này ơng sáng tác Nhật kí ở rừng. Cuối năm 1947, tiếp tục viết nhật kí Ở rừng và cho ra
mắt tác phẩm Đơi Mắt. Tác phẩm có ý nghĩa như một tun ngơn nghệ thuật đanh thép.
Tác phẩm nói về cách nhìn nhận vấn đề của các thế hệ nhà văn lúc bấy giờ. Nhà văn phải
có cái nhìn đúng đắn và tích cực. Tháng 7/1948, ông viết về Vài ý nghĩ về văn nghệ được
đăng trên báo Cứu quốc.
Năm 1948 – 1949, Nam Cao đi thực tế ở vùng đồng bằng, sáng tác truyện ngắn Bốn cây số
cách một căn cư địch. Tháng 5/1950, ông nhận công tác và làm việc ở tạp chí Văn nghệ
Việt Nam, ơng đã viết tiểu thuyết Trận đầu về du kích đồng bằng nhưng ơng phải bỏ dở
dang vi ông chưa thu thập tài liệu thực tế để viết. Sau đó ơng đi chiến dịch và viết truyện
Chuyện biên giới. Năm 1951, in tập truyện kí Chuyện biên giới và kịch bản Đóng góp.
Ngày 23/9/1951, Nam Cao cùng Nguyễn Huy tưởng dự hội nghị liên khu Ba. Sau đó, ơng
lên liên khu Bốn, rồi tham gia vào đồn cơng tác thuế nơng nghiệp vào vùng địch khu ba.
Nam Cao có dự định vừa đi làm nhiệm vụ vừa thu thập tài liệu thêm đề hoàn thành cuốn
tiểu thuyết thai nghén của mình nhưng chưa thực hiện được mong ước của mình thì ơng đã
bị kịch phục kích và hy sinh ngày 30/11/1951.
Cả hai thời kì trước và sau cách mạng Tháng Tám 1945 thi Nam Cao đều có những sáng
tác xuất sắc. Tuy ở thời kì đầu còn ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn nhưng sau đó Nam
Cao nhanh chóng chuyển ngịi bút của mình sang chủ nghĩa hiện thực. Vì thế khi nhắc tới
Nam Cao người ta thường nghĩ vai trị của ơng la một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc
giai đoạn 1930 – 1945.
Cuộc đời của Nam Cao tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại cho chúng ta những tác phẩm hết sức
xuất sắc góp phần to lớn vào kho tàng văn học nước ta. Chiến tranh đã cướp đi Nam Cao,
14



cướp đi nhân tài của tổ quốc nhưng những giá trị nghệ thuật những Tác phẫm văn học của
ông sẽ sống mãi trong lòng của mỗi con người Việt Nam. Và để ghi nhận những đóng góp
lớn lao của Nam Cao cho nền văn học hiện đại Việt Nam, năm 1996 Nam Cao được nhà
nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1)
1.2 Quan niệm sáng tác
Trong những truyện ngắn của Nam Cao, ông đề cặp tới cảnh ngộ đau khổ trong xã
hội của những kiếp người lầm than như: Một cô đào hát chết gục trên sân khấu ( Cảnh cuối
cùng ). Một diễn viên nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (
Hai xác chết). Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội chủ nghĩa cũng đã rõ nét ở
Nam Cao như trong truyện ngắn Nghèo, Đui mù… chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng
định ở truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Suốt cuộc đời lao động văn chương
nhà văn luôn suy nghĩ “sống và viết” Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm
của thứ văn thơ “Thơm tho” tràn trề “Những ánh trăng lừa dối”. Ông đã kiên quyết đoạn
tuyệt với thứ văn chương đó và đi đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam Cao từ bỏ chủ nghĩa
lãng mạn tức là từ bỏ con đường thốt li hưởng lạc ích kỷ; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có
nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo khổ ruột thịt. Nhà văn xác
định được vai trị, vị trí của mình đối với việc hản ánh hiện thực với những bất công ngang
trái. Những tác phẩm hiện thực của ông phần lớn tái hiện lại làng q của ơng. Đó là hình
ảnh của người bà, người mẹ, người dì mà nhà văn đã gắn bó từ thưở thiếu thời. Vì vậy, nó
như là một tri ân của ông đối với những người nông dân nghèo khổ. Trong Trăng sáng
Nam Cao đã xác lập được sứ mệnh cao quí của nghệ thuật trong xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, đầy rãy những áp bức bất công thời ấy là “nghệ thuật phải hướng tới tâm hồn
vào đời sống của quần chúng lao khổ dưới tầng đáy xã hội” bằng việc lắng nghe và đưa
những “ Tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” vào trong sáng tác. Những tác
phẩm đều mang nhịp đập của trái tim dạt dào tình cảm nhân đạo của người nghệ sĩ, trong
đó có nhà văn “Chứ khơng phải là món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã nghả
mình trên những chiếc xích đu nhún nhảy” (Trăng sáng). Đây cũng là một tuyên ngôn cảm
động, đanh thép của quan điểm “ Nghệ thuật vị nhân sinh” cũng là lời chân niệm chân
thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nhân dân lao động
nghèo khổ. Là nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ

15


thuật. Với ông nghệ thuật phải thực hiện trong cả nội dung và hình thức. tiểu thuyết của
Nam Cao hình như khơng có sự hư cấu. Vì vậy khi đọc truyện ngắn, Nam Cao cho ta thấy
được tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm có sức thuyết phục mạnh mẽ. Nam Cao
nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, phê phán sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự “bất
lương” là sự “đê tiện”. Nam Cao thấy được trách nhiệm của người cầm bút phải có ý thức
trách nhiệm với xã hội, để “ Hiểu biết, khám phá, sáng tạo”.
1.3 Đề tài người nông dân – một trong những đề tài lớn trong sự nghiệp sáng tác của
Nam Cao.
Bối cảnh xã hội trước cách mạng tháng Tám 1945 vô cùng rối ren, tăm tối. Bủa vây
xung quanh nông thôn là những hủ tục lạc hậu của làng xã mà đại diện là hương lí, hương
hào, những chức sắc “cầm cân nảy mực” bênh vực quyền lợi của người nông dân theo kiểu
“ chuồn chuồn đạp nước”, phủ kín và chằng chịt mọi con hẻm làng quê Việt Nam là dây
thép gai của những chính sách “bảo hộ” của bọn thực dân phong kiến bằng những thứ thuế:
thuế than, thuế ruộng, … Tất cả tạo nên khơng khí ngột ngạt, oi bức và ảm đạm đén ghê sợ
mà nông thôn việt nam phải gánh chịu. cuộc sống của nông dân vốn cực khổ, phải lao
động vất vả “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mới có chén cơm manh áo đầy vất vả và
cực nhọc bên cạnh đó họ cịn bị bọn phong kiến thực dân bốc lột đến tận xương tủy làm
cho giai cấp nông dân trở nên bần cùng hơn. Gia đình Ngơ Tắt Tố quanh năm phải vay nợ
lãi cắt cổ của những người giàu có trong vùng, cịn Vũ Trọng phụng sinh ra và lớn lên
trong một gia đình nơng dân nghèo, một thứ “nghèo gia truyền”, đối với gia đình đơng con
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc phải lâm vào tình cảnh đói khổ, bệnh tật thường xun
như gia đình Nam Cao.. Những người khổ ấy phải chịu những lời miệt thị, lời mặc sát, cai
nghiệt của bọn nhà giàu và cịng lưng ra đóng lãi cho chúng.. chính những điều này lam
cho họ có thể viết nhiều và viết hay về đề tài người nông dân Việt Nam trong giai đoạn
này.
Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng… là
những nhà văn gần gũi với nông dân và họ cũng viết rất hay về người nơng dân. Dưới ngịi

bút của các nhà văn hiện thực phê phán thì hình ảnh người nơng dân hiện lên một cách
chân thật và cụ thể. Là một nhà văn cuối mùa Ngơ Tất Tố phải chịu cảnh đói nghèo triền
16


miên và hơn hết quê hương ông là vùng quê nghèo đói, cuộc đời của người dân q suốt
đời chơn chặt trong vịng vây của đói khát, bóc lột, chà đạp… Nhắc đến Ngơ Tất Tố thì ai
cũng nhớ đến tiểu thuyết Tắt đèn, bộ tiểu thuyết đã gây tiếng vang và giáng một đòn mạnh
mẽ vào chế độ thực dân phong kiến. Tắt đèn ra đời trong hoàn cảnh Bắc Ninh gánh chịu
đợt lũ lụt dữ dội và khủng khiếp đã cuốn trôi đi bao ruộng lúa của cải và cả tính mạng con
người “Hai năm trước khi Tắt đèn ra đời một nạn lụt khủng khiếp đã ngàn ngập sáu huyện
thuộc Bắc Ninh làm 146634 người dân thất cơ lỡ vận, khơng có kế sinh nhai.Trong đó thực
dân chỉ chọn 33161 người khỏe mạnh đi phu đắp đê, số cịn lại thì đi ăn xin lang thang
đầu đường xó chợ” [21;tr. 44]. Qua Tăt đèn, Ngơ Tất Tố muốn tố cáo một “ thứ giặc” cịn
ác ơn hơn cả thực dân Pháp tại làng Đông xá. Tiếng vang của mõ, trống, tù inh ỏi trong
những ngày sưu thuế như là những tiếng giục giã, dồn thức và đẩy người nông dân vào con
đường cùng. Cũng xuất phát từ ý nghĩa tố cáo xã hội và lịng cảm thơng sâu sắc tới người
nông dân mà. Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan tái hiện lại bề rộng , khái quát từ
cuộc sống. Hiện thực của Bước đường cùng là tất cả bộ mặt thối nát của xã hội gây nên cho
người nông dân bao tai họa khủng khiếp như nạn Tây đoan bắt rượu lậu, nạn sưu cao thuế
nặng, nạn cường hào ác bá nạn cho vay nặng lãi, cảnh lũ lụt đói kém… Nhân vật Pha trong
tác phẩm là một người nông dân chân chất hiền lành nhưng bị tên Nghị lại thâm độc lập
mưu để cuớp ruộng đất. Các nhà văn hiện thực thường xây dựng hình ảnh người nông dân
đáng thương trong thế đối lập với bọn thống trị đầy mưu mô nham hiểm. Một chị Dậu hiền
lành, đảm đang, tháo vát lại phải đối dầu với Nghị Quế tên trọc, dốt nát bủn xỉn,.. Một anh
Pha, chân chất cần cù với một Nghị lại ngu xuẩn, ốm yếu, thâm độc… Đây là những tác
phẩm viết về sức mạnh của quần chúng đại diện tiêu biểu là chị Dậu và anh Pha được phản
ánh hiện thực trên bình diện hiện thực của xung đột, mâu thuẫn của giai cấp và nhằm đã
kích vào bọn thống trị. Mặc dù là hành động tự phát, riêng lẻ, rời rạc, cũng cho thấy cái
nhìn tiến bộ của nhà văn hiện thực về người nông dân, về những mâu thuẫn tất yếu của thời

đại cần giải quyết. Không phải chỉ các nhà văn hiện thực phê phán mới viết về đề tài người
nông dân mà các nhà văn lãng mạng cũng viết về đề tài này. Nhưng dưới ngòi bút của họ
thì người nơng dân Việt Nam và hình ảnh người nông dân không giống với những nhà văn
hiện thực phê phán. Các nhà văn lãng mạn cũng viết về đề tài người nông dân là do phong
trào cách mạng dân chủ không chỉ ảnh hưởng đến các nhà văn hiện thực mà nó cịn ảnh
17


hưởng đến trào lưu lãng mạn đặc biệt là cây bút trong Tự lực văn đoàn . Các nhà văn này
cũng có đóng góp có phần tích cực cho lợi ích của quần chúng . Hội Ánh Sáng do Nhất
Linh làm Chủ tịch được sự đỡ đầu của Chatel, mặc dù bề mặt của Hội là cơ quan bù nhìn
phát ngôn cho bọn thực dân nhưng những hành động cứu tế dân ở Bắc Ninh, thi hành
những cải cách, xây dựng những trường học phát thuốc ,đào giếng…Những hoạt động đó
xét cho cùng có ích cho dân mặc dù nó xuất phát tự những chiêu thức muốn tạo sự tin
tưởng , ngụy biện vào những chính sách hữu nghị của thực dân Pháp nhằm đánh lạc hướng
nhân dân của Chatel. Và những tác phẩm như: Giấc mộng Từ Lâm, Con đường sang , Gia
đình Hai vẻ đẹp… Được ra đời trên cơ sở tiền đề của hội Ánh Sáng tổ chức nhằm đem lại
niềm tin cho người dân, cho đất nước. Những hoạt động mà các nhà văn muốn hướng đến
là muốn nâng cao trình độ cho dân, giáo hóa dân. Nhưng hầu hết như những tư tưởng của
họ điều thực hiện bằng tư tưởng cải lương, ảo tưởng. Chẳng hạn như Giấc mộng Từ Lâm,
Nhất Linh đã nêu mơ ước đứng lên lập trường địa chủ, đại khái là xây dựng những ngôi
trường , tậu ruông, lập hư viện đồn điền… để giáo hóa cho dân : “ Người thời làm trong
đồn điền có nhiều hoa lợi cho dân khỏi đói, người thì dạy nghề cơng nghệ , người thì dạy
học, cốt làm cho họ biết ăn ở với nhau cho hòa hợp, biết yêu cảnh thiên nhiên…” Nhất
Linh mơ ước xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân dựa vào lòng tốt của dịa
chủ tân học mà điều đó thì q xa rời khi địa chủ và nông dân là hai lực lượng đối kháng,
không thể dung hịa. Đó vẫn mãi là một giấc mộng đẹp.
Các nhà văn lãng mạn ln thi vị hóa cuộc sống và trong họ luôn xuất hiện hai cực
đầy mâu thuẫn giữa lãng mạn và hiện thực. Còn Thạch Lam thì viết văn bằng một trái tim
chân thành tha thiết. Dường như còn văng vẵng đâu đây tiếng còi tàu đem lại ánh sang

niềm tin cho chị em Liên và cho cả phố huyện buồn tẻ ( Hai đứa trẻ) . Cách nhìn của
Thạch Lam đối với người lao động là cái nhìn hiện thực giàu tính nhân đạo.
Dịng văn học văn học hiện thực phê phán đã tạo nên một sức sống vững chãi. Nó
phế phán những quan niệm thoát li, trốn chạy cuộc sống. Nam cao là thế hệ nối tiếp của
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng nêu cao tinh thần chủ nghĩa hiện thực.
Nam Cao ln địi hỏi văn chương nghệ thuật phải trở về từ cuộc sống hiện thực, phản ánh
tình trạng thống khổ của của hàng triệu nhân dân lao động “nghệ thuật chỉ có thể là tiếng
đau khổ thốt ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sang). Và khi giở lại những trang viết về
18


nơng thơn Việt Nam của dịng văn học hiện thực ta khơng khỏi xót xa trước những cảnh
đời, số phận của người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao. Ông đi vào miêu tả những
số phận, mảnh đời đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật của làng quê Việt Nam những
nổi khổ vặt vãnh, tủn mủn đang gặm nhắm và đang băng hoại nhân cách của con người.
Qua những truyện ngắn đặc sắc viết về nông dân, Nam Cao đã tiếp thu được những tích
cực của các nhà văn hiện thực trước đó và tạo được sự khác biệt làm nên những thành
công không thể nhầm lẫn với bất kì ai trong dịng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao là
một trong những người suốt đời hy sinh vì nghệ thuật.
Khi nhắc tới Nam Cao người đọc không thể không nhớ đến những trang viết đầy bi
phẫn và xót xa cho số phận của những người tri thức tiểu tư sản nghèo như: Hộ, Thứ,
Điền… trong xã hội thực dân phong kiến. Và khi nhắc tới Nam Cao, người đọc cũng không
thể cầm long được trước những số phận bi thảm của người nông dân trong xã hội cũ. Có
thể nói ơng vừa là nhà văn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa là nhà văn của nông dân
Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945. Ở đề tài nào ơng củng có đóng góp đáng kể.
Nam Cao cũng đi vào đề tài trí thức tiểu tư sản và nông dân nhưng khác với những
nhà văn trước đó. Nam Cao đã tìm cho mình một lối đi riêng để khắc họa một bức tranh
hiện thực đòi sống một cách cụ thể và chân thật nhất. Thông thường các nhà văn trước đi
vào khai thác cái đói vật chất cịn Nam Cao thì khía thác cái đói về tinh thần. Đây là dặc
điểm tạo nên nét riêng, nét đặc sắc ở ngòi bút Nam Cao. Nam Cao khi viết về đề tài người

nơng dân thì ơng đã lấy tư liệu từ cuộc sống của làng Vũ Đại của nhà văn để đưa vào trong
những sáng tác của mình. Đề tài nơng dân cũng có rất nhiều nhà văn nổi tiếng viết như:
Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn công Hoan với Bước đường cùng… Đây là những cây bút
tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán những năm cuối thập niên 1930. Nhưng
hình ảnh người nông dân hiện lên trong tác phẩm của Nam Cao hoàn toàn mới mẻ và độc
đáo đã khẳng định được tài năng sáng tạo của nhà văn. Nông thôn Việt Nam hiện lên trong
tác phẩm của ông không bao la, rộng lớn như những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, mà nông thôn trong sáng tác của ông chỉ là bối cảnh cụ thể của làng Vũ Đại. Bối
cảnh xã hội không hạn hẹp về những sự kiện, những hoạt động mà còn mở ra cho người
đọc thấy được rất nhiều vấn đề bao quát của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.
Làng Vũ Đại là nơi diễn ra những cuộc phân chia ngôi thứ, phân chia bè phái để bóc lột
19


×