Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

Báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 231 trang )





MỤC LỤC


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH






BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007
MÃ SỐ: B. 07 – 42



BÁO CHÍ CHO TRẺ EM
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

CƠ QUAN CHỦ TRÌ: HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS. TS NGUYỄN VĂN DỮNG
THƯ KÝ KHOA HỌC: TS VŨ THỊ KIM HOA







7392
08/6/2009

HÀ NỘI - 2007

3
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA


1. ThS. Nguyễn Đồng Anh,
Đài truyền hình Việt Nam
2. PGS. TS Nguyễn Văn Dững,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Chủ nhiệm đề tài;
3. ThS. Đỗ Thị Thu Hàng,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
4. TS. Vũ Thị Kim Hoa,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Thư ký đề tài;
5. ThS. Nguyền Hà Linh,
Bộ Thông tin và Truyền thông
6. Nhà báo Đặng Nam,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
7. Nhà báo Lan Minh,
Đài Tiếng nói Vi
ệt Nam;
8. Nhà báo Phạm Tài Nguyên,
Hội Nhà báo Việt Nam
9. ThS. Nguyễn Ngọc Oanh,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
10. CN. Nguyễn Thị Hằng Thu,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

4
MỤC LỤC

TÊN CHƯƠNG, MỤC Trang

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7
3. Giả thuyết nghiên cứu 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 10
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 11
8. Kết cấu của công trình 12
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN
CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan vấn đề nghiên cứu
1.2. Công chúng trẻ em với báo chí
1.3. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo với trẻ em
1.4. Vai trò của báo chí-truyền thông trong việc giải quyết
các vấn đề trẻ em

13
15
20
37
Chương II: HIỆN TRẠNG BÁO CHÍ

CHO TRẺ EM HIỆN NAY
2.1. Tổng quan báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay
2.2. Thực trạng báo chí cho trẻ em ở nước ta
2.3. Về giải báo chí “Nhà báo với trẻ
em Việt Nam”


42
44
92
Chương III: BÁO CHÍ CHO TRẺ EM
- NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1. Trẻ em Việt Nam trước những biến đổi của xã hội trong
thời kì hội nhập
3.2. Báo chí với nhu cầu của trẻ em
3.3. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả
tác động của báo chí cho trẻ em
3.4. Những giải pháp nâng cao chất lượng báo chí cho trẻ em


100

109
118
127
KẾT LUẬN
133
Danh mục tài liệu tham khảo
139
Phụ lục 142



5
A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên thông tin, ở đó nhu cầu được
tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng của con người ngày càng
gia tăng mạnh mẽ và toàn diện. Chưa bao giờ báo chí và các phương tiện
truyền thông đại chúng phát triển nhanh chóng và có vai trò quan trọng như
ngày nay.
Mạng internet phát triển, công nghệ số cùng với việc phổ cập giá rẻ các
phương tiệ
n truyền thông đã và đang làm thay đổi tư duy, lối sống và cách
ứng xử của con người với nhau và với hệ thống xã hội nói chung.
Đối với trẻ em, báo chí, truyền hình, radio đã không còn xa lạ, mà trái
lại đã trở thành người bạn đồng hành trong quá trình nhận thức và khám phá
thế giới xung quanh mình. Báo chí và các phương tiện truyền thông, các dạng
thức truyền thông có vai trò to lớn trong quá trình hình thành nhân cách, diện
mạo văn hóa cho trẻ em. Vì vậy để có được những chươ
ng trình, tờ báo hay,
thực sự trở thành người bạn thân thiết đối với các em, ở đó các em có thể chia
sẻ, nói lên tiếng nói của chính mình, đang là thách thức rất lớn đối với đội ngũ
những người làm báo hiện nay.
Ở Anh người ta đã từng thăm dò dư luận và đưa ra những con số thống
kê sau đây: "80% trẻ em cảm thấy các chương trình tin tức chỉ "thỉnh
thoảng”, thậm chí "không bao gi
ờ" đề cập đến vấn đề mà độ tuổi các em
quan tâm; 67% nói rằng các phương tiện truyền thông nên để chính các em
xuất hiện nhiều hơn nữa thay vì mời chuyên gia hay các bậc phụ huynh nói về

các vấn đề của trẻ". Những con số trên phần nào nói lên vị trí khiêm tốn của
trẻ em trong mối quan hệ với truyền thông.
Trong xã hội Việt Nam, trẻ em là nhóm công chúng xã hội đặc thù,
chiếm hơn 30% dân số và luôn được mọi ng
ười quan tâm với những tình cảm
đặc biệt. Bởi vậy, báo chí viết về trẻ em phải vừa bảo vệ được quyền lợi của
các em, giúp các em thực hiện quyền của mình một cách tốt nhất lại phải hay,
hấp dẫn được trẻ.
Năm 1991, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á ký Công ước quốc tế về
quyền trẻ em và ban hành chương trình hành động vì quyền trẻ em. Một thách
th
ức lớn đặt ra đối với các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung là
phải làm sao để trẻ em được hưởng lợi cao nhất, nhiều nhất từ các ấn phẩm
báo chí. Và trong đó việc tạo điều kiện để các em nhỏ được trực tiếp tham gia
trên các phương tiện truyền thông đại chúng, giúp cho trẻ phát huy được hết

6
khả năng cũng như quyền được tham gia của mình là một trong những vấn đề
được quan tâm hàng đầu hiện nay của các nhà báo và những người quan tâm
đến trẻ em.
So với thế giới, chúng ta tự hào có một hệ thống báo chí dành cho trẻ
em với đa thể loại, hình thức và có một đội ngũ nhà báo cho trẻ em khá đông
đảo. Hơn thế nữa, bước đầu chúng ta đã có những mô hình thí điểm trẻ em
làm báo cho trẻ em nhằm đáp ứng sâu hơn nữa nhu cầu thông tin của chính
lứa tuổi các em. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng chúng ta vẫn còn rất
nhiều điều cần phải bàn về việc làm báo cho trẻ em như thế nào cho hay hơn,
hấp dẫn hơn và đạt hiệu quả hơn.
Thực tế ở nước ta, báo chí liên quan đến đề tài trẻ em có hai loại: Báo
chí giành cho trẻ em và báo chí viết về trẻ
em giành cho người lớn. Hướng

vào nhóm công chúng đối tượng khác nhau, báo chí viết về đề tài trẻ em, đều
vì trẻ em, nhưng có cách tiếp cận khác nhau, diện mạo và phong cách khác nhau.
Từ năm 2000 đến nay, với sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của Tổ
chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS), khoa Báo chí, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền đã triển khai dự án “Nâng cao năng lực tác nghiệp của nhà
báo, nhà truyền thông vận độ
ng xã hội về đề tài trẻ em”. Hoạt động này bước
đầu đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi
của các nhà báo, nhà truyền thông trong việc giải quyết vấn đề trẻ em thông
qua báo chí - truyền thông.
Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta còn
nhiều vấn đề cần giải quyết; trong đó, thông qua báo chí - truyền thông để có
thể tác động vào nhận thức, thái
độ và hành vi của các cấp các ngành, của
đông đảo nhân dân là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết.
Thực trạng báo chí cho trẻ em ở nước ta như thế nào là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao, cần nghiên cứu, tìm hiểu để có thống nhất
nhận thức, góp phần hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc
xây dựng chính sách đẩy mạnh sự nghiệp bả
o vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
nước ta trong tình hình và điều kiện mới.
Kết quả nghiên cứu của công trình này sẽ cung cấp thêm tư liệu, lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề báo chí cho trẻ em cho việc nghiên cứu,
giảng dạy báo chí, theo đề tài và theo nhóm đối tượng, tại các cơ sở đào tạo
báo chí hiện nay.
Đây chính là lí do chính để triển khai nghiên cứu đề tài khoa học Báo
chí cho trẻ em ở nướ
c ta hiện nay.



7
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, hệ thống dữ liệu báo chí nước ta ở trong tình trạng thiếu thốn,
không thống nhất và thiếu hệ thống. Ngay cả báo cáo của Cục Báo chí - Bộ
Thông tin Truyền thông cũng chỉ tương đối khi nói về số đầu báo và tạp chí;
còn số chương trình phát thanh, truyền hình hầu như càng tương đối hơn. Liên
quan đến đề tài nghiên cứu báo chí cho trẻ em, mới chỉ
có một số khóa luận
tốt nghiệp cử nhân báo chí tại khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Bởi vì trong dự án về “Nâng cao năng lực tác nghiệp của nhà báo về
đề tài trẻ em trên cơ sở tăng cường tập huấn đào tạo về quyền trẻ em ” đã
có lồng ghép giảng dạy chuyên đề báo chí với trẻ em cho sinh viên các lớp
năm cuối. Do đó, kiến thức, kỹ năng về x
ử lý đề tài trẻ em của sinh viên được
trang bị, lòng yêu thích đề tài này cũng thúc đẩy các em nghiên cứu và tích
lũy kiến thức chuẩn bị ra trường.
Ở cấp độ khác, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (UBDSGD&TE)
trước đây cũng có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến trẻ em, nhưng chỉ
tập trung vào vấn đề xã hội tác động đến trẻ em mà chưa có nghiên cứu nào
về báo chí cho trẻ em.
3. Giả thuyết nghiên cứ
u
Thứ nhất, nước ta là cộng đồng dân số trẻ, với gần 36% là trẻ em và đã
hình thành một hệ thống-diện mạo báo chí cho trẻ em với đủ các loại hình
(báo in, phát thanh, truyền hình, mạng điện tử) đã và đang cố gắng đáp ứng
nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng đa dạng, phong phú, đã tích lũy được
những kinh nghiệm quý báu, nhưng còn những bất cập, cần được nghiên c
ứu
và tìm kiếm giải pháp tháo gỡ;
Thứ hai, có mối liên hệ giữa số lượng và chất lượng sản phẩm báo chí

cho trẻ em và không phải loại hình báo chí nào cho trẻ em cũng thỏa mãn và
đáp ứng được nhu cầu và mong đợi của trẻ. Mối liên hệ này cần được tổng
kết, phân tích một cách khoa học, chỉ ra nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp
ứng xử phù hợp;
Thứ ba, trong một xã hội đang phát triển như n
ước ta, nhiều vấn đề liên
quan đến trẻ em đã được báo chí chú ý đúng mức, nhưng năng lực và hiệu quả
tác động do báo chí tạo ra có cả mặt tốt và chưa tốt, chưa được như mong đợi,
cần được nghiên cứu, tổng kết;
Thứ tư, đội ngũ nhà báo làm báo cho trẻ em hiện nay khá đông đảo,
nhiệt tình, trách nhiệm cao; nhưng quan điểm tiếp cân, kiến thức và kỹ n
ăng
nghiệp vụ còn những bất cập;

8
Thứ năm, trên tổng thể, chúng ta đã thu được nhiều kinh nghiệm làm
báo cho trẻ em - kể cả hay và chưa hay, tốt và chưa tốt, cần được nghiên cứu,
phân tích khoa học để góp phần tổng kết thực tiễn hoạt động báo chí cho
nhóm công chúng đối tượng đặc thù là trẻ em.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực trạng báo chí cho trẻ em, phân tích
kinh nghiệm thực tế, công trình này nhằm mục đích:
- Cấp một cái nhìn tổng quan về diện mạo báo chí cho trẻ em ở nước ta
trong thời kỳ hội nhập phát triển;
- Phân tích kinh nghiệm thực tế-kể cả kinh nghiệm hay và chưa hay, tốt
và chưa tốt, làm báo cho nhóm công chúng-đối tượng đặc thù là trẻ em;
- Nêu lên những vấn đề cần quan tâm và bước đầu đề xuất giải pháp
phát triển loại báo chí này c
ũng như nâng cao năng lực và hiệu quả tác động

của nó đối với xã hội nói chung, nhóm công chúng đối tượng là trẻ em nói riêng.
4.2. Nhiệm vụ
- Phác thảo diện mạo báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay;
- Tìm hiểu khả năng tiếp cận của trẻ em với các phương tiện truyền
thông đại chúng nói riêng và báo chí nói riêng;
- Tìm hiểu mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin và mức độ hài lòng của
trẻ em với hình ả
nh mình trên các phương tiện truyền thông đại chúng, từ đó
đưa ra một số nhận xét về hiệu quả tác động của truyền thông đối với trẻ em;
- Phân tích kinh nghiệm nghề nghiệp về hoạt động báo chí cho trẻ em
hiện nay; và
- Phát hiện những vấn đề đặt ra, đề xuất giải pháp kiến nghị khoa học
nhằm phát triển và nâng cao năng lực, hiệu quả tác động của báo chí cho trẻ em.
5. Đố
i tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các ấn phẩm báo chí cho trẻ em;
- Đề tài trẻ em, cách thức viết cho trẻ em trên báo chí;
- Mô hình trẻ em viết báo cho trẻ em thông qua câu lạc bộ Phóng viên nhỏ;
- Mức độ đáp ứng nhu cầu của các loại hình báo chí cho trẻ em.
5.2. Đối tượng khảo sát của đề tài nghiên cứu này là một số ấn phẩm
báo chí cho trẻ em, tức là sán xuất cho trẻ em tiếp nhận, hưởng thụ
, như báo

9
Thiếu niên Tiền phong, Hoa học trò, nhóm báo Khăn quàng đỏ (thành phố Hồ
Chí Minh), chương trình phát thanh thiếu niên của Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam và một số website cho trẻ em.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện cho phép, phạm vi nghiên cứu của đề tài này

được bao quát bốn loại hình báo chí là báo in, báo phát thanh, truyền hình và
báo mạng điện tử. Đối tượng khảo sát giới hạn ở một số nhóm báo như báo
Thi
ếu niên Tiền phong, báo Khăn quàng đỏ, báo Hoa học trò, Ban Phát thanh
Thanh, thiếu niên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,
website
và các tác phẩm đoạt giải “Nhà báo với trẻ
em Việt Nam”, một số câu lạc bộ phóng viên nhỏ. Thời gian khảo sát trong
năm 2007.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài dựa vào hệ thống quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về báo chí và vai trò của nó trong xã hội, về trẻ em và
sự nghiệp bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em. Trong đó bao gồm cả hệ
thống quan đ
iểm được thể hiện trong văn kiện Đảng, các văn bản pháp luật
liên quan đến trẻ em; trong đo chú trọng cách tiếp cận vấn đề trẻ em dựa trên
quyền trẻ em.
Các văn kiện pháp lý quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em và
các văn bản hướng dẫn, các tài liệu chia sẻ của các tổ chức quốc tế và của các
nước có hoàn cảnh và trình độ
gần gũi với nước ta.
Từ sự vận dụng các hướng tiếp cận xã hội học, các phương pháp nghiên
cứu chung của khoa học xã hội-nhân văn, công trình chú trọng các phương
pháp sau đây:
- Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các văn
kiện Đảng, văn bản pháp luật có liên quan; phân tích các số liệu thống kê,
phân tích các văn bản, đọc và so sánh những tài liệu khoa học có liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện gặp gỡ và phỏng vấn sâu một
số nhà báo chuyên làm báo cho trẻ em, các phóng viên nhỏ và những đối

tượng liên quan vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (an-két) chủ yếu được dùng
nghiên cứu các nhà báo và nhóm đối tượng tiếp nhận ấn phẩm báo chí trẻ em.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - nghiên cứu trường hợp trong quá
trình thực hiện dự án “
Nâng cao năng lực tác nghiệp của đội ngũ nhà báo
về đề tài trẻ em dựa trên Công ước quốc tế về quyền trẻ em và pháp luật

10
Việt Nam có liên quan” của khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Báo chí và truyền thông đại chúng phát triển theo xu hướng vừa đại
chúng hóa vừa phi đại chúng hóa. Có nghĩa là, các ấn phẩm báo chí - truyền
thông vừa hướng tác động tới đông đảo công chúng xã hội, xã hội hóa rộng
rãi trên phạm vi không gian rộng lớn, lại vừa hướng mạnh vào các nhóm đối
tượng riêng biệt, ngày càng chuyên sâu. Như vậy, công chúng xã hộ
i của báo
chí vừa phát triển như một tổng thế phức hợp với nhu cầu và nguyện vọng
phong phú, vừa bị chia nhỏ, bị phân tách ra từng nhóm nhỏ, bị lôi kéo vào
những ấn phẩm chuyên sâu với đề tài, phong cách thể hiện đặc thù.
Do vậy, có thể nói đây là công trình đầu tiên nghiên cứu báo chí giành
cho nhóm công chúng trẻ em nói riêng, cho nhóm công chúng xã hội chuyên
biệt theo nhóm tuổi nói chung. Cách tiếp cận này là xu hướng và yêu cầu phát
triển báo chí và công nghệ đào tạo báo chí hiện đạ
i.
Với ý nghĩa ấy, công trình này mang đến một cái nhìn khoa học như là
phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu báo chí hiện đại. và từ đó, có thể làm
cơ sở cho việc nghiên cứu báo chí cho các nhóm công chúng xã hội khác. Kết

quả thu nhận được có giá trị tham khảo cho việc triển khai nghiên cứu và đào
tạo, đào tạo lại đội ngũ nhà báo theo đề tài và theo nhóm đối tượng tác động.
Ý nghĩa thực tiễn
Việt Nam là n
ước có cộng đồng dân số trẻ, có gần 40% dân số là trẻ em.
Do vậy, trong khi vai trò, tác động và chi phối của báo chí đối với xã hội ngày
càng to lớn, việc nghiêm cứu báo chí cho trẻ em có ý nghĩa nhận thức vừa
khoa học vừa thực tiễn hết sức quan trọng. Khi tìm kiếm nguyên nhân và giải
pháp cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em, nhất là trẻ em làm
trái pháp luật, hay trẻ em xung đột với pháp luật (trước đây g
ọi là trẻ em
phạm pháp, trẻ em phạm tội), người ta thường đề cập tới ba nhóm vấn đề liên
quan là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong ba nhóm giải pháp mang tính
chủ thể ấy, báo chí tác động và chi phối đến tất cả và nhất là tác động đến trẻ
em. Do vậy, đề tài này được giải quyết sẽ có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn
đối với việc giải quyết vấn đề trẻ em hiện nay và mai sau:
-
Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan báo chí, các nhà báo, những
người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy báo chí trong quá trình hoạt
động, trong tác nghiệp cũng như trong giảng dạy và nghiên cứu báo chí.

11
- Giúp cho các cơ quan báo chí, đặc biệt là các toà soạn báo cho trẻ em
có những thay đổi để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình.
- Cấp một cái nhìn của trẻ em về báo chí và các phương tiện truyền
thông đại chúng hiện nay đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị và góp phần
tổng kết kinh nghiệm để có thể làm báo cho trẻ em tốt hơn trong tương lai.
8. Kết cấu của công trình
Ngoài phần mở
đầu và kết luận, công trình được bố trí thành ba chương:

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu trình bày
cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề báo chí cho trẻ em. Đó là hệ thống khái
niệm công cụ và phương pháp tiếp cận vấn đề, những quan điểm của Đảng và
Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về trẻ em và báo chí cho trẻ em; là cơ
sở
pháp luật liên quan đến trẻ em như Công ước quốc tế quyền trẻ em và pháp
luật Việt Nam có liên quan. Đồng thời, chương này cũng phân tích cơ sở thực
tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương II: Trình bày hiện trạng báo chí cho trẻ em hiện nay, chủ yếu
phác thảo bức tranh tổng quát về diện mạo báo chí cho trẻ em, những vấn đề
đặt ra, kinh nghiệm tác nghiệp
Chương III: Tập trung phân tích nh
ững vấn đề đặt ra và giải pháp
khuyến nghị nhằm tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo
chí cho trẻ em trong tình hình và điều kiện mới.








12
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN - THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm trẻ em
a. Định nghĩa theo Công ước quốc tế

Tại điều 1, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc quy
định: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quốc
gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn".
Định nghĩa này là sự nhắc lại điều đã nêu trong Tuyên ngôn về Quyền
trẻ
em năm 1959: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được
bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước
cũng như sau khi sinh ra đời".
Theo Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá UNESCO và Quỹ Dân số
UNFA, "Trẻ em được xác định là người dưới 15 tuổi"
b. Định nghĩa theo pháp luật Việt Nam
Tại điề
u 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam
(năm 1991) quy định: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi".
Còn trong Bộ luật Dân sự (năm 1995), một trong những bộ luật quan
trọng trong hệ thống Pháp luật nước ta, điều 20 có quy định: "Người từ đủ 18
tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên".
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì khái ni
ệm trẻ em và người chưa
thành niên có sự khác nhau. Theo định nghĩa này, về độ tuổi, trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Như vậy, các khái niệm trẻ em, chưa thành niên
có sự khu biệt. Sự khu biệt này rất phức tạp, xét từ các bình diện pháp lý (luật
hình sự), tâm lý (thành niên, chưa thành niên) và xã hội (nghĩa vụ và quyền
lợi xã hội). Theo luật lao động, trẻ em đủ 14 tuổi có quyền được lao động.
Do điều kiệ
n kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta còn trong quá trình phát
triển và phát triển trình độ thấp, cho nên ngay cả định nghĩa về trẻ em trên các
bình diện khác nhau cũng khá phức tạp.
Việc phân biệt về khái niệm như trên dẫn đến những khó khăn trong
cách tiếp cận và giải quyết vấn đề.

Trên bình diện báo chí - truyền thông, với tư cách là nhóm công chúng
xã hội, đối tượng tác động, lôi kéo và chi phối, chúng tôi đề xuất khái niệm
trẻ em là người dướ
i 18 tuổi.

13
1.1.2. Khái niệm báo chí
Theo Từ điển tiếng Việt, báo chí là báo và tạp chí xuất bản một cách
định kì. (Từ điển Tiếng Việt 2006, Hoàng Phê chủ biên, Viện Ngôn ngữ).
Theo luật báo chí Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin đại chúng
thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng,
của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn củ
a nhân dân (Luật Báo
chí năm 1989, trang 192).
Báo chí theo nghĩa hẹp, là báo và tạp chí xuất bản định kỳ. Theo nghĩa
rộng, báo chí là những sản phẩm xuất bản định kỳ hoặc thường xuyên, hướng
tác động vào đông đảo công chúng xã hội nhằm tập hợp và thuyết phục đông
đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội đã và đang xảy ra.
Với trẻ em, báo mạng điện tử càng có vai trò
đặc biệt quan trọng. Các
nhà giáo dục trên thế giới thì than phiền: Chỉ cần 1 đoạn phim phản giáo dục
trên YouTube (www.youtube.com), là “đi toi” cả vài năm công sức giáo dục
của hệ thống giáo dục nhà trường. Thực tế này đang tạo ra những dư luận cản
trở việc phát triển các trang báo điện tử (Online Journalism) và các trang tin
điện tử (Website) về đề tài trẻ em- một kênh thông tin có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong đời sống tr
ẻ em thời hội nhập. Đây cũng là thách thức với
việc xây dựng các sản phẩm truyền thông đáp ứng quyền được tiếp cận thông
tin thích hợp của trẻ em- trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng
Theo điều 1, chương 1, Nghị định số 51/2002/NĐ-CPcủa Chính phủ

ngày 26/4/2002, quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí: “
Báo điện tử là tên gọi loại hình báo chí thực
hiện trên mạng thông tin máy tính (Internet, Intranet)”. “Trang tin điện tử
(website) là loại hình bản tin thực hiện trên mạng Internet” (Quy chế quản lý
và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet.
Ban hành kèm quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT 10/10/2002 ).

Ngày nay, khi khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển
như vũ bão, khái niệm báo chí gắn liền với khái niệm truyền thông đại chúng.
Truyền thông đại chúng là hệ thống các phương tiện truyền thông
hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền,
cả nước, khu vực hay toàn bộ thế giới) nhằm thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo
và tập hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải
quyế
t các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra.
Trong khái niệm nêu trên đây có thể thấy vai trò trung tâm, nền tảng của
báo chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Báo chí có
vai trò chi phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh hướng của truyền

14
thông đại chúng. Cho nên, trong nhiều trường hợp, người ta dùng thuật ngữ
báo chí để chỉ các phương tiện truyền thông đại chúng; mặt khác, nói đến
truyền thông đại chúng, trước hết là nói đến báo chí.
Từ những cách hiểu trên đây có thể hiểu báo chí cho trẻ em là những
ấn phẩm báo chí (bao gồm báo in, chương trình phát thanh, chương trình
truyền hình, báo mạng điện tử) dành cho nhóm công chúng - đối tượng dưới
18 tuổi, nhằm tuyên truyền những chủ tr
ương chính sách của Đảng và nhà
nước về các vấn đề trẻ em và diễn đàn, sân chơi cho trẻ em, phản ánh đời

sống sinh hoạt và đời sống tinh thần của trẻ em, đáp ứng nhu cầu học tập và
giải trí cho các em, góp phần hướng dẫn, giáo dục và hình thành nhân cách,
diện mạo văn hóa cho trẻ em.
Báo chí cho trẻ em - sản phẩm báo chí giành cho nhóm công chúng-đối
tượng trẻ em - những người dưới 18 tuổi, khu biệt v
ới báo chí về trẻ em. Báo
chí về trẻ em giành cho hai nhóm công chúng đối tượng: báo chí cho trẻ em
và báo chí viết về trẻ em giành cho người lớn. Từ sự khu biệt này, trong công
trình này, chúng tôi tập trung nghiên cứu báo chí cho trẻ em.
1.2. Công chúng trẻ em với báo chí
1.2.1. Nhóm công chúng trẻ em
Công chúng nói chung là một khái niệm được làm quen và sử dụng ở
nước ta trong mới khoảng 20 năm nay và được dùng trên nhiều bình diện
khác nhau. Công chúng báo chí có thể được hiểu là nhóm đối tượng chịu tác
động trực tiếp, giản tiếp ho
ặc có khả năng ảnh hưởng, tác động của báo chí.
Có công chúng trực tiếp và công chúng gián tiếp; công chúng mục tiêu và
công chúng liên quan Mỗi nhóm công chúng có nhu cầu, mối quan tâm và
lợi ích riêng trong việc tiếp nhận sản phẩm báo chí-truyền thông. Công chúng
báo chí không chỉ là đối tượng tác động, đối tượng điều chính, mà cón là
đối tác quan trọng và là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá năng lực và hiệu
quả tác động của báo chí.
Trong mối quan hệ với báo chí và TTĐC, trẻ em được nhìn nhận dướ
i
nhiều góc độ. Trẻ em vừa là người tiếp nhận vừa là người sản xuất các sản
phẩm báo chí, vừa là chủ thể vừa là đối tượng, vừa là nạn nhân vừa là người
chiến thắng, vừa là người học được các sai lầm trong quá khứ vừa là người
thầy giáo cho tương lai. Trẻ em cũng được tiếp cận từ nhiều phương diện-nhìn
từ kinh tế: trẻ em cũ
ng là đối tượng cần tiếp thị như một nhóm lớn khách hàng

giàu tiềm năng tiêu thụ; nhìn từ văn hoá: trẻ em là nhúm cư dõn cần được
truyền thụ, tiếp nhận hệ thống giá trị văn hoá của quê hương đất nước, của
dân tộc; nhìn từ giáo dục: trẻ em là nhóm lớn công chúng, là lực lượng cần

15
được giáo dục nhân cách làm người và đào tạo để trở thành lực lượng lao
động xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Mỗi người chúng ta đều đã trải qua cuộc đời trẻ em trong những hoàn
cảnh kinh tế xã hội nhất định. Nhưng để hiểu được trẻ em thì không đơn giản.
Trẻ em là nhóm công chúng xã hội đặc thù. Ở Việt Nam, nhóm công chúng
này chiếm đến gần 40% dân số
và luôn được mọi người quan tâm với sự nhạy
cảm, tình cảm đặc biệt: nhóm công chúng sẽ làm chủ xã hội trong tương lai
gần và chi phối mọi lực lượng lao động xã hội ở hiện tại.
Làm thế nào để trong mỗi tác phẩm cho trẻ em chúng ta nói đúng, nói
thật, nói một cách sinh động về tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của
trẻ em? Làm thế nào để tránh tình trạng nói hộ, nói thay, nói bịa ra nhữ
ng
điều mà trẻ em không nói, không nghĩ và không muốn? Trẻ em là những con
người đang hình thành nhân cách từng ngày, rất cần được tôn trọng, nâng niu,
chăm sóc và bảo vệ. Do đó, chúng ta càng cần tìm hiểu, nghiên cứu nhóm
“công chúng tí hon” của mình.
Công chúng trẻ em là nhóm lớn xã hội có “thế giới “ riêng của mình, cả
về thể chất, tâm-sinh lý, nhận thức, văn hoá cùng với nhu cầu, nguyện vọng
và cách thể hiện chúng. Nhóm công chúng này chịu sự chi phối mạnh mẽ của
môi trường sống, điều kiện sinh sống. Do đó, về nguyên tắc, cũng cần phải
nghiên cứu toàn diện và cơ bản. Nhất là đặt nhóm công chúng trẻ em trên cơ
sở các quyền của Công ước Quốc tế và luật pháp nước ta, chẳng hạn trên cơ
sở thừa nhận và bảo đảm cho các em có quyền:
+ Bày tỏ ý kiến, nhất là về các quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em;

+ Tự
do tư tưởng, thể hiện tính ngưỡng, tôn giáo;
+ Có đời sống riêng tư và có quyền được vui chơi;
+ Thành lập câu lạc bộ và tổ chức riêng của trẻ em;
+ Công khai ý kiến và thông tin riêng của mình.
1.2.2. Đặc điểm của công chúng trẻ em
a. Về nhân khẩu học - xã hội
Tìm hiểu các thông số về lứa tuổi, giới tính, trình độ văn hoá, địa bàn
sống, điều kiện và mức sống, phong tục tậ
p quán, dân tộc, tôn giáo… Trong
khoa học xã hội học, người ta gọi đó là những biến số độc lập, những biến số
này có tính ổn định cao, ít thay đổi và đây không phải là mục tiêu trực tiếp
của hoạt động báo chí-truyền thông. Những những yếu tố này làm cơ sở để
tìm hiểu các thông số khác. Ví dụ, ở vùng nông thôn, miền núi - nhất là những
nơi có đời sống chưa phát triể
n, trẻ em thường ngại giao tiếp, khó hỏi chuyện,

16
ít cởi mở; hay có tâm lý tự ti; thường có những mơ ước gần gũi, giản dị. Trẻ
em nông thôn vùng ven đô nhanh nhạy và hoạt hơn; trẻ ở đô thị cởi mở, nhạy
cảm hơn, có kỹ năng giao tiếp tốt hơn. Sự khác biệt về nhóm tuổi cũng dẫn
đến sự khác biệt khá xa về hoạt động và nhân cách.
“Trẻ dưới 2 tháng tuổi, hoạt độ
ng chủ yếu là ăn, ngủ phối hợp với các
phản xạ, động tác chỉ bột phát; trẻ dưới 12 tháng tuổi, chủ yếu hoạt động
giao lưu cảm xúc trực tiếp, phát triển các động tác biểu cảm, cộng sinh cảm
xúc, từ đó có thể có “lòng tin” hay mất “lòng tin” khi có hay không có sự
chăm sóc đầy đủ của người lớn, nhất là người mẹ. Do đó, vai trò người mẹ

ý nghĩa quan trọng trực tiếp Nhưng trẻ em tuổi tiểu học (từ 6-12 tuổi) thì

khả năng tư duy và ngôn ngữ của trẻ phát triển nhanh hơn, hiếu động, ham
tìm tòi hiểu biết chân lý, khám phá trí tuệ; có nhu cầu giao tiếp, phát triển tình
bạn và bắt đầu có ý thức về hành vi đạo đức. Ngoài quan hệ gia đình, trẻ bắt
đầu ưa thích quan hệ bạn bè và chịu ảnh hưởng của mối quan h
ệ này. Ông cha
ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Hoặc thiếu niên (từ 11 đến 15
tuổi) thì khả năng trí tuệ phát triển mạnh, nhất là tư duy lô gích, tư duy hình
tượng; ngôn ngữ nói và viết hoàn thiện khá tốt; về tâm lý, đây là giai đoạn dậy
thì, ưa thích quan hệ tâm tình, bè bạn, giao lưu kết nối các nhóm bạn thân và
nhất là có khả năng xác định lại các mối quan hệ xã hội, cải tổ nhân cách,
định hình bản ngã và ý thức tự tu dưỡng; trẻ thích có ý kiến độc lập, muốn
được đề cao và tôn trọng ; các quan hệ bạn bè, xã hội ngày càng có ý nghĩa
quan trọng ảnh hưởng tới nhân cách của trẻ; báo chí và các phương tiện
truyền thông có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách của
trẻ.” (Sổ tay phóng viên Báo chí với trẻ em, Nguyễn Văn Dững chủ biên, nxb
Lao động, HN.2001, tr.59 -65).
Ngoài những khác biệt do nhóm tuổi, điều kiện sinh số
ng và mức sống,
hoàn cảnh gia đình, cũng chi phối không ít đến đời sống tinh thần của trẻ
em. Giáo dục nhân cách cho trẻ bắt đầu từ xây dựng nền nếp gia đình trong sự
phối hợp với xã hội và báo chí-truyền thông đại chúng sẽ có hiệu quả hơn.
Nghiên cứu, đo các biến độc lập nên tiến hành định kỳ ở các vùng, miền
và những thông số này được sử dụng không chỉ
một hai lần trong thời gian ngắn.
b. Nhận thức của trẻ em về những vấn đề chuẩn bị nói tới, chuẩn bị
truyền thông
Trong xã hội học, người ta gọi đây là những biến số phụ thuộc - những
mục tiêu mà chiến dịch truyền thông, báo chí nhằm làm thay đổi. Ví dụ, trước
khi tiến hành chiến dịch thông tin giáo dục về sức khoẻ sinh sản (SKSS) vị
thành niên, chúng ta

nên tìm hiểu nhận thức, hiểu biết của trẻ em nhóm tuổi
này đối với vấn đề SKSS (như về tình bạn, tình yêu và các tình huống ứng

17
xử), thái độ của các em đối với vấn đề này và tương ứng là hành vi ứng xử
như thế nào. Từ đó, phát hiện những chỗ thiếu hụt tri thức để cung cấp, những
lệch lạc trong thái độ và hành vi để có thể điều chỉnh và xác dịnh phương
pháp điều chỉnh cho phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu tâm lý trẻ em, tình
cảm khác giới có ở trẻ rất sớm, nếu chúng ta không quan tâm
đầy đủ để
hướng dẫn giúp trẻ sớm thì dễ nảy sinh những hành vi bột phát có thể gây tổn
thương cho trẻ về nhiều mặt, không đợi đến tuổi dậy thì. Tuy nhiên, can thiệp
như thế nào, bằng cách nào cho có hiệu quả, phù hợp với nhóm tuổi là vấn đề
rất tế nhị. Tiến hành giáo dục truyền thống văn hoá - lịch sử cho trẻ em trên
báo chí - truyền thông đại chúng (TTĐC) là yêu cầu v
ừa cơ bản, vừa cấp thiết,
song cũng cần thiết phải nghiên cứu, nắm bắt xem trong nhận thức của trẻ em
từng vùng miền nói riêng, cả nước nói chung còn thiếu hụt những gì; cái gì
cần mà chưa có, cái gì có mà nhận thức chưa đúng, những gì nhà trường đã
cung cấp, báo chí cần củng cố. Mặt khác, cũng nên tìm hiểu xem, trẻ em
thường thích những hình thức giáo dục nào, qua truyện tranh, qua sách vở hay phim
ảnh, b
ằng giáo dục chính khoá hay ngoại khoá thông qua nói chuyện, dã ngoại
Một phóng sự phát trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Khánh Hoà
giữa năm 2003 cho hay, ở huyện Diên Khánh có một ngôi đền được xây dựng
từ thế kỷ 18 thờ các vị học hành thông thái, đỗ đạt tiến sĩ, mang tiếng thơm về
cho cả vùng. Nhưng hầu hết trẻ em trong huyện (chưa nói trong tỉnh) không
được giới thiệu, chưa được đến thăm, và nói chung là các em học sinh tiểu
học, trung h
ọc chưa biết tới. Phóng sự không dài dòng, không thuyết giảng,

chủ yếu các câu hỏi và trả lời rất sinh động. Tác phẩm này được nhiều người
quan tâm vì đã nói lên một thực tế ở nước ta là nhà trường và các cơ quan báo
chí chưa quan tâm đúng mức tới việc giáo dục truyền thống, hình thức và
phương pháp phong sự sinh động, nhẹ nhàng, trẻ em tự nói lên những suy
nghĩ của mỉnh rất thật, rất h
ồn nhiên. Trong nhận thức của các em, khoảng
trống về truyền thống văn hoá dân tộc còn quá lớn. Nhà nước cũng chưa đầu
tư đúng mức, đúng tầm, báo chí và nhà trường cũng chưa có sự phối hợp
thống nhất, chặt chẽ.
Mục đích của báo chí là nâng cao nhận thức, tạo ra sự tương đồng về
nhận thức thông qua việc định hướng nhận thức và d
ư luận xã hội, mở rộng
hiểu biết tiến tới thay đổi, điều chỉnh thái độ, hành vi của trẻ em phù hợp với
nhu cầu phát triển. Do đó, vấn đề quan trọng là phải đo được nhận thức, thái
độ, hiểu biết và hành vi của trẻ em về những vấn đề chung ta sẽ nói tới, vấn
đề xã hội quan tâm. Đây là nguồn gốc tạo nên tính hấp dẫn củ
a tác phẩm báo
chí, và cũng là yếu tố quyết định tạo nên hiệu quả của hoạt động báo chí. Ở
bình diện này bao gồm cả nhu cầu, sở thích, nguyện vọng, tâm lý tiếp nhận

18
sản phẩm báo chí. Tâm lý, thị hiếu của trẻ dễ chịu ảnh hưởng lây lan, nếu biết
lợi dụng thì sẽ phát huy hiệu quả, nếu không, sẽ ảnh hưởng theo chiều ngược lại.
Báo chí về đề tài trẻ em có hai loại, một loại giành cho trẻ em và một
giành cho người lớn - vì trẻ em. Như vậy, cũng cần nghiên cứu đối tượng
người lớn mà báo chí nhằm tác động - những cán b
ộ hoạch định chính sách,
cán bộ quản lý, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, kể cả những người trong
gia đình. Do đó, đối tượng người lớn không chỉ một nhóm đối tượng nào đó
mà là đông đảo nhân dân. Thực tế cho thấy, không ít người chưa nhận thức

đúng các quyền, các nguyên tắc chăm sóc trẻ em theo tinh thần Công ước
Quốc tế và hệ thống văn bản quy phạm pháp luậ
t Việt Nam về quyền trẻ em,
về việc giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Do đó vấn đề trẻ em có khi chỉ
được quan tâm trong tư tưởng, nhưng trong thực tế cuộc sống còn khoảng
cách khá xa, không phải nơi nào, lúc nào cũng như mong muốn. Đấy là chưa
kể đến những khoảng trống tri thức về tâm - sinh lý lứa tuổi, về phương pháp
giáo dục trẻ em.
Đó thật sự là v
ấn đề rộng lớn mà chúng ta mới chỉ chạm vào rất khẽ
khàng. Bởi vì tất cả những ai liên quan đến trẻ, tác động đến trẻ đều phải
hiểu trẻ em, cùng tạo ra môi trường chăm sóc giáo dục trẻ em tốt nhất. Cho
nên, trong quá trình viết về đề tài trẻ em, chúng ta cần thiết nghiên cứu cả trẻ
em lẫn người lớn liên quan đến trẻ em. Bởi vì không chỉ điều chỉnh nhậ
n
thức, thái độ và hành vi của trẻ, mà còn phải góp phần điều chỉnh nhận thức,
thái độ và hành vi của người lớn đối với việc giải quyết các vấn đề trẻ em nữa.
c. Thói quen, sở thích của trẻ em trong việc tiếp nhận các sản phẩm
truyền thông
Cấp độ thứ nhất: Môi trường, điều kiện cụ thể cũng như nhóm tuổi c
ủa
trẻ em có tác động lớn đến sở thích, thói quen của trẻ trong việc tiếp nhận các
sản phẩm truyền thông. Ví dụ, nói chung trẻ em thích xem tivi, nhất là phim
hoạt hình, phim truyện lịch sử, truyện tranh; nhưng trẻ em đô thị có sức đọc,
điều kiện đọc tốt hơn trẻ em nông thôn. Chúng ta muốn nói chuyện với nhóm
trẻ ở vùng nào cũng cần cân nhắc đến con đường chuyển tải thông điệ
p phù
hợp. Theo số liệu nghiên cứu công chúng thủ đô năm 2002, chỉ có 86% số gia
đình có máy thu hình, năm 1997 chỉ có76% số hộ có máy thu hình), tỷ lệ này
ở nông thôn còn khoảng cách khá xa. Do đó, trẻ em nông thôn, vùng sâu vùng

xa sẽ khó có điều kiện tiếp nhận thông điệp qua truyền hình, báo in và
internet, mà chủ yếu là kênh truyền thông radio đang chiếm lợi thế.
Cấp độ thứ hai: Chuyên mục nào trẻ em thích, phương thức tác động
nào thích ứng với trẻ. Nói chung tr
ẻ em tuổi trước cấp một đến đầu cấp hai
(thậm chí đến cấp ba) thường thích truyện tranh, phim hoạt hình; nhưng trẻ

19
em gái tuổi cuối cấp hai đến cấp ba lại thường thích mục trò chuyện, tâm tình,
cần gỡ rối và thích truyện tâm lý, cần tư vấn tình cảm Đối với chương trình
phát thanh- truyền hình cần tính đến thời điểm, thời gian phát sóng có lợi cho
trẻ. Mỗi nhóm tuổi sẽ có chuyên mục thích ứng với các em.
Cấp độ thứ ba: Giọng điệu như thế nào cho phù hợp với từ
ng nhóm
tuổi. Ví dụ, tuổi học sinh cấp một, trẻ thích kể chuyện cổ tích, nhưng tuổi lớn
hơn thì không hẳn như thế, lại thích tâm tình, tâm sự, Và tương ứng, các thể
loại thích hợp cho từng nhóm tuổi. Độ dài của tác phẩm cũng nên cân nhắc
theo nhu cầu tâm lý nhóm tuổi. Nói chung, trẻ em thích những tranh minh
hoạ, điều này phù hợp với tâm lý ưa thích trực quan sinh động trong quá trình
nhận thức. Ngôn ngữ kể chuy
ện, đối thoại, hay miêu tả… thích ứng cho các
nhóm tuổi; cách xưng hô với các em càng bình đẳng, thân mật sẽ càng thu hút
các em hơn.
1.3. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo với trẻ em
1.3.1. Vì sao cần phải chú ý tới vấn đề đạo đức nghề nghiệp nhà báo
khi viết về trẻ em?
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử trong các mối quan hệ, đòi
hỏi mỗi người với tư cách thành viên phải tuân theo mộ
t cách tự nguyện. Đã
là con người xã hội thì dù hoạt động trong ngành nghề nào, lĩnh vực nào,

hoặc không hoạt động ngành nghề gì cũng cần tuân thủ các chuẩn mực đạo
đức do cộng đồng quy ước, được dư luận xã hội và pháp luật bảo vệ.
Hệ thống giá trị chuẩn mực đạo đức là phạm trù lịch sử. Mỗi dân tộc ở
mỗi giai đoạn phát triển
đều có hệ giá trị đạo đức phù hợp với tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Nhưng bất kỳ dân tộc nào và ở giai đoạn phát triển
nào thì nói chung, đạo đức đều có điểm chung là hướng thiện, hướng tới điều
tốt lành cho con người và cho cộng đồng người. Giá trị đạo đức được sinh ra,
được bảo tồn trong dư luận xã hội (DLXH), trong quan niệm của cộng
đồng;
khi đã được hình thành, các giá trị đạo đức được DLXH và pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, phạm vi chi phối của đạo đức rộng lớn hơn nhiều. Điều đó có
nghĩa là, dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của một nước có hoàn
chỉnh đến đâu thì cũng khó có thể điều chỉnh hết mọi hành vi của con người,
trong khi đó, ở đâu có con người thì
ở đó có quan niệm đạo đức và đương
nhiên có quan niệm giá trị chi phối hành vi. Mặt khác, trong đời sống xã hội,
có những hành vi luật pháp không cấm, nhưng đạo đức không cho phép. Như
vậy, đạo đức có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình tổ chức, quản
lý xã hội.
Ngoài những giá trị chung, mỗi nghề nghiệp lại có những yêu cầu cụ
thể về ứng xử đạo đức. Và cũng tu
ỳ theo đối tượng hoạt động, năng lực tác

20
động các mối quan hệ của nghề nghiệp mà phạm vi, tính chất và mức độ đòi
hỏi của xã hội đối với yêu cầu ứng xử đạo đức của chủ thể hoạt động trong
các nghề nghiệp không giống nhau.
Đạo đức nghề nghiệp nhà báo liên quan tới nhóm lớn xã hội, đến đông
đảo công chúng. Hoạt động báo chí tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức,

l
ối sống… của con người, trong mối quan hệ tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…trên bình diện cộng đồng cũng như việc
hình thành nhân cách cá nhân. Hoạt động trong kinh tế thị trường, với phạm
vi tác động rộng lớn và tính chất tác động phức tạp, toàn diện tới đời sống của
dân cư trong khi sự chi phối của pháp luật
đối với hoạt động báo chí luôn luôn
hạn hẹp, thực tế báo chí lại biến đổi từng ngày… càng làm cho vấn đề đạo
đức nghề nghiệp báo chí trở nên nóng hổi, bức xúc trong DLXH, trong sự
quan tâm của cộng đồng. Mặt khác, ngoài những yêu cầu có tính nguyên tắc
như một hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động báo chí luôn luôn đòi hỏi
thấm đẫm tính nhân văn cao cả, vì hạnh phúc chân chính của con người, của
cộng
đồng, vì sự phồn thịnh của dân tộc, cho nên vấn đề đạo đức nghề nghiệp
báo chí không chỉ là đòi hỏi khách quan từ phía DLXH mà còn là đòi hỏi, thôi
thúc từ bên trong nhận thức, con tim mỗi nhà báo chân chính. Muốn được như
thế, trước hết nhà báo phải là nhà văn hoá, nhà hoạt động xã hội, thường xuyên có
ý thức tu dưỡng rèn luyện, cầu thị học hỏi và rút kinh nghiệm nghề nghiệp.
Trong mọi hoạt động của mình, t
ừ khi nảy sinh ý tưởng, phát hiện và lựa
chọn chủ đề, đề tài, tiếp cận, thu thập thông tin, dữ liệu đến hình thành tác phẩm
đòi hỏi nhà báo luôn luôn thể hiện yêu cầu tính nhân văn, đạo đức nghề nghiệp.
Viết về trẻ em, nhất là trẻ em Việt Nam trong tình hình hiện nay, các
nhà báo lại càng cần đề cao tính nhân văn, vì trẻ em là nhóm công chúng xã
hội đặc thù mà theo đạo lý dân tộc Việt Nam và luật pháp quốc tế cũng như
lu
ật pháp Việt Nam hiện hành cần được quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
của mỗi gia đình và toàn xã hội. Trong tình hình hiện nay, trên thế giới, khi
mà sự phát triển không đều, không công bằng giữa các nước, các châu lục, khi
mà các cuộc xung đột vũ trang cùng với nạn bạo lực và đe doạ dùng vũ lực,

trừng phạt đang hoành hành thì vấn đề trẻ em ngày càng trở nên nhạy cảm,
nhất là ở những nơi hay bị thiên tai, nh
ững nước đang phát triển, chậm phát
triển, và ở những nước nghèo, trẻ em còn chịu nhiều thiệt thòi. Ở Việt Nam,
ngoài những khó khăn chung của nước đang phát triển và hay bị thiên tai, trẻ
em còn là nạn nhân thảm khốc của chất độc màu da cam do Mỹ gây ra trong
cuộc chiến tranh xâm lược từ những năm năm mươi đến những năm bảy mươi
của thế kỷ hai mươi. Hàng trăm ngàn tr
ẻ em sinh ra không được hưởng trọn
vẹn quyền sống, quyền con người - bị dị tật, dị dạng, tạo nên bầu tâm lý lo âu,

21
nặng nề trong dân cư. Hậu quả của cuộc chiến tranh này vẫn đang là nỗi đau
nhức nhối cho con người, cho xã hội cũng như môi trường.
1.3.2. Hình ảnh trẻ em trên truyền thông đại chúng
Diện mạo trẻ em trên các phương tiện truyền thông đại chúng còn nhiều
vấn đề cần được xem xét. Trẻ em được thông tin nhiều khi như là nạn nhân,
được thương hại, được chiếu cố, thậ
m chí quyền lợi của trẻ em bị xâm hại bởi
báo chí và truyền thông đại chúng (TTĐC). Hoặc viết về trẻ em nhưng chỉ
phỏng vấn người lớn trong khi vấn đề đó trẻ em hiểu rõ hơn, trẻ em không
được phát biểu…; khi viết về trẻ em bị xâm hại, bị lạm dụng, có khi quyền
lợi của các em chưa được bảo vệ (ví dụ trẻ em bị lạm dụ
ng tình dục, hay trong
vụ án gian lận kết quả xổ số kiến thiết ở Long An, trẻ em chỉ là nạn nhân bị
lạm dụng…).
Trong những trường hợp như thế, các em không biết và không có khả
năng tự bảo vệ mình, còn các nhà báo trong một số trường hợp, thì hầu như
vi phạm một cách không tự giác do chưa được trang bị những tri thức cần thiết.
Các vùng sinh thái - môi trường tác động đến trẻ em:










Từ mô hình trên đây, bước đầu có thể rút ra mấy vấn đề về giáo dục
nhân cách cho trẻ em:
Trước hết mỗi trẻ em bẩm sinh có những tố chất riêng biệt, từ hệ tâm
sinh lý thần kinh đến sức khỏe, nhu cầu và khả năng thích ứng. Do đó, cần
chú trọng các khía cạnh này để vừa giáo dục, hình thành nhân cách vừa bảo
đảm tính riêng biệt-cá tính và vấn đề cá nhân của tr
ẻ em với tư cách một con
người, chủ thể xã hội.
Thứ hai, hệ sinh thái gia đình, bạn bè, trường học có vai trò quan trọng
trước nhất, dễ ảnh hưởng nhất đến sự hình thành nhân cách của trẻ em.


tru
y
Òn th«n
g
,
LuËt ph¸p


V¨n ho¸,

truyÒn
th«ng,
t«n gi¸o,
luËt ph¸p

C¸ thÓ
HÖ thèn
g
c¸c tæ
chøc XH,
céng
®ång d©n
c

Gia ®×nh,
b¹n bÌ,
tr−êng

22
Các vấn đề liên quan đếntrẻ em
TRẺ EM
ĐÓi
nghèo
Thiên
tai
Tai nạn
rủiro
Bạo hành
Đôthị
hóa,

Bệnh tật
Ly hôn
Xung
đột
internet
Chiến
tranh
Vân…vân
Thứ ba, hệ thống các tổ chức xã hội, cộng đồng khu dân cư như những
tác nhân thường xuyên cả về tính pháp lý và đạo đức, dư luận xã hội trong
việc giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Thứ tư, các yếu tố văn hóa, truyền thông, tôn giáo, luật pháp có ảnh
hướng đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách trẻ em. Trong
đó, báo chí truyền thông hiện đại tác động thường xuyên liên tục nhất, rộng
khắp nhất, nhanh nhất, phong phú đa dạng nhất và do đó có ảnh hưởng sâu
rộng nhất đến quá trình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất là trong
điều kiện hiện nay. Mặt khác, do những đặc trưng và thế mạnh vốn có, báo
chí tác động, gây ảnh hưởng đế tất cả các yếu tố trong hệ sinh thái trên đây.
Nó là yếu tố tác động và góp phần chi phối các yếu tố, là tiểu hệ thố
ng ảnh
hướng đến các tiểu hệ thống khác trong môi trường tổng thể. Đây là vấn đề
đòi hỏi các nhà báo, nhà truyền thông vận động xã hội cũng như tất cả những
ai quan tâm đến trẻ em cần đặc biệt chú ý.
1.3.3. Những vấn đề cần chú ý khi viết về trẻ em
Ngoài những mối quan hệ trong quá trình hoạt động nghề nghiệp báo
chí nói chung (như trên đã nói tới) cần cân nhắc và ứ
ng xử hợp lý, đúng đắn,
khi viết về trẻ em, cần xem xét các khía cạnh liên quan:

















23
Trong kinh tế thị trường, trẻ em thường bị lợi dụng vì mục đích lợi
nhuận vì đây là nhóm công chúng đông đảo, nhạy cảm, có nhu cầu tiêu dùng
riêng. Các nhà báo nên hạn chế, đi đến loại bỏ các quảng cáo kích thích nhu
cầu tiêu dùng không có lợi cho trẻ, như uống sữa nọ, ăn kẹo kia… sẽ trúng
thưởng, vì như thế ngoài việc phá vỡ nhu cầu tiêu dùng bình thường, còn kích
thích tính hám lợi vật chất của trẻ
em. Nhiều khi hình ảnh trẻ em bị lạm dụng
trong các quảng cáo. Theo Cơ quan nghiên cứu về quảng cáo cho trẻ em
(CARU) của Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ, kinh doanh phục vụ trẻ em là một
ngành có lợi nhuận lớn; trẻ em tiêu khoảng 7,5 tỷ đôla và bố mẹ phải chi thêm
130 tỷ đôla cho trẻ mỗi năm. Hàng hoá khuyến mãi không phải khi nào cũng
có lợi cho trẻ. Một ví dụ điển hình về việc mộ
t công ty nước ngoài tiếp thị sữa
vào châu Phi những năm 70 đã gây ra những bất lợi cho trẻ ở châu lục này mà
WHO đã phản đối nhằm bảo vệ sức khoẻ cho các bà mẹ và trẻ em.

Trẻ em là nhóm công chúng đang thay đổi tâm- sinh lý từng ngày, dễ bị
tổn thương, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cho nên, khi viết về
các em, viết cho các em, chúng ta nên cẩn trọng cân nhắc.
Trẻ em và bạo lực, bạo hành tr
ẻ em
Trong nghiên cứu truyền thông, thuyết tác động cho rằng có mối liên hệ
giữa bạo lực trên màn hình với bạo lực trong xã hội. Bạo lực trên các sản
phẩm truyền thông có thể khơi dậy và kích thích bạo lực trong mỗi cá nhân,
nhất là trẻ em. Ở Mỹ, hơn 48% tin tức trên truyền hình và khoảng 40% các
câu chuyện trên báo in về trẻ em có liên quan đến tội phạm, bạo lực. Đầu
những năm 90, trên các phương tiện truy
ền thông đại chúng nhiều nước chiếu
nhiều phim bạo lực, phim chưởng, truyện tranh kiếm hiệp kích thích bạo lực
không có lợi cho trẻ. Việc thông tin nhiều vụ án cướp, đâm chém, trộm cướp
liên quan đến trẻ em làm không ít trẻ em bị học những “mánh”, những thủ
đoạn cướp giật từ các thông tin trên báo chí. Đặc biệt hiện nay, khi mà các
phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng len lỏi vào mọi ngóc ngách
của đời sống, thì trong khi tho
ả mãn nhu cầu của nhóm công chúng này lại có
thể xâm hại đến nhóm công chúng khác, nhất là trẻ em. Do đó, phần cuối
điều 17 của Công ước quy định: e) Khuyến khích phát triển những hướng dẫn
thích hợp cho việc bảo vệ trẻ em chống lại những thông tin và tư liệu có hại
cho phúc lợi của các em, có lưu ý đến những khoản của các Điều 13 và 18.
Vì vậy, cha mẹ, người giám hộ, các tổ chức nhà nướ
c và các tổ chức xã
hội cần phải bảo vệ các em khỏi mọi ảnh hưởng độc hại mà các phương tiện
truyền thông đại chúng, nhất là đài truyền hình, phim ảnh, các ấn phẩm in và
trưng bày, khỏi những nội dung có thể ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển
tinh thần và đạo đức.


24
Tuy nhiên, trước khi cần đến sự bảo vệ này, chính các nhà báo, các nhà
truyền thông cần phải thực hiện bổn phận đạo đức những gì có thể làm được
để tránh cho các em.
Năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, có 7.000 vụ vi phạm của trẻ em
dưới 16 tuổi, chiếm đến 70% tội phạm vị thành niên dưới 18 tuổi. Công an
các địa phương đã khởi tố điều tra 8.531 vụ với 11.732 đối tượng ở t
ất cả các
tội danh này, xử lý hành chính 35.463 vụ với 48.187 đối tượng Theo số liệu
thống kê tội phạm học, trẻ em phạm pháp có nguồn gốc gia đình làm nghề
buôn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%; gia đình có người phạm tội hình sự
chiếm 40%; 30% trẻ phạm tội có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút.
Theo số liệu thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 71% trẻ vị
thành niên phạm pháp do không đượ
c quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn.
Theo một nguồn tin trên báo Tuổi trẻ, Sở GDĐT TP HCM đánh giá đạo
đức học sinh khá tốt (trên 98%). Thế nhưng, một cuộc điều tra trên 500 học
sinh từ THCS trở lên của tổ bộ môn giáo dục công dân Phòng GDĐT quận 6,
TP HCM có liên quan đến vấn đề đạo đức, lối sống lại cho các kết quả:
• 68% học sinh mê game, chat.
• 46,6% bị ảnh hưởng bởi phim ảnh: thích quen "hoàng tử" trong phim,
có trang phục giống trong phim, thích chơi đô vật kiểu Mỹ…
• 38,8% cho biết thường xuyên chửi thề, nói tục; 53,6% thỉnh thoảng
nói tục.
• 32,2% thường xuyên vô lễ với thầy cô. Nhiều học sinh chỉ chào thầy
cô trong trường, còn ra đường thì coi như không quen biết.
Vụ hai học sinh học lớp 8 THCS Thường Tín (Hà Tây) sát hại một bé
trai năm tuổi (
vừa qua là một trong những hồi chuông thương tâm, cảnh báo ảnh hưởng của
văn hóa xã hội đến nhân cách của trẻ. Hai học sinh này từ trước vẫn được

thày cô đánh giá là “hạnh kiểm tốt, ngoan, học giỏi”. Do ả
nh hưởng của xã
hội (cụ thể là mê chơi game, thích xem phim Cảnh sát hình sự) mà hai em đã
học theo những hành động trong đó, vạch kế hoạch bắt cóc tống tiền rồi sát
hại một cách dã man chính em họ của mình.
Những vụ bạo hành trẻ em gần đây, nhất là ở Đồng Nai không chỉ là hồi
chuông cảnh tỉnh đối với toàn xã hội cần phải có giải pháp ngăn chặn, mà
quan trọng hơn, nó cho th
ấy mầm mống của tội phạm trẻ em khi các em lớn
lên trong sự đánh đập, bạo hành từ khi chưa biết nói. Đây chính là một trong
những nguyên nhân xã hội sâu xa nhất. Mà gốc rễ của nguyên nhân này là do
chúng ta chưa chú ý đúng mức đến bảo đảm việc nuôi dạy trẻ em ngay từ khi

25
bắt đầu “làm quen” với cuộc sống. Hệ thống giáo dục mất cân đối và còn
nhiều bất cập, trong khi thành tích khắp nơi vẫn là “phổ cập giáo dục” tiểu
học, trung học cơ sở.
Trẻ em với nghèo đói
Khi viết về nghèo đói, có những bài viết thường đưa trẻ em ra làm dẫn
chứng như những nạn nhân, khốn khổ-như vậy có thể các em bị xúc ph
ạm.
Báo chí phương Tây khi miêu tả trẻ em ở những nước đang phát triển thường
đưa dẫn chứng trẻ em trong cảnh khốn khó, nhếch nhác, thương hại trong khi
nhiều trẻ em ở nước họ có cuộc sống không sáng sủa hơn. Rõ ràng nên tìm
kiếm giải pháp nhằm cải thiện đời sống cho trẻ hơn là việc mô tả như bêu
riếu, thương hại trẻ em.
Báo chí nước ta trong sự nghiệp đổi m
ới đã và đang đóng góp tích cực,
hiệu quả vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội… ở các
vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, góp phần cải thiện đời sống cư dân, trong

đó có trẻ em. Nhiều cơ quan báo chí như Công an thành phố Hồ Chí Minh,
Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, An ninh thế giới, Thiếu niên Tiền phong
đã và đang làm tốt các chương trình từ thiện giúp đỡ các trường học, các gia
đình và các em học sinh ở những n
ơi khó khăn hoặc có hoàn cảnh đặc biệt để
có thể vượt qua khó khăn, vươn lên hoà nhập và phát triển cùng cộng đồng.
Các chương trình học bổng cho học sinh nghèo vượt khó học giỏi, chương
trình quà tặng, trợ giúp, “lá lành đùm lá rách”,” lá rách ít đùm lá rách nhiều”
liên tục được tổ chức. Nhiều nhà báo đã nêu cao tấm gương không quản ngại
khó khăn, sẵn sàng và có mặt ngay những nơi, những con người cần sự trợ
giúp. Rõ ràng báo chí có lợi thế và vai trò đặc biệt trong việc phát hiện, nêu ra
các vấn đề xã hội đồng thời khơi dậy và tập hợp các nguồn lực vật chất, tinh
thần tham gia giải quyết các vấn đề ấy.
Trẻ em bị xâm hại
Bao gồm xâm hại tình dục và xâm hại –lạm dụng sức lao động. Có trẻ
em bị búc lột sức lao động bởi giới chủ, có trẻ em bị lạm d
ụng sức lao động
do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nghèo đói, bố mẹ hoặc người đỡ đầu buộc
các em phải bỏ học đi làm sớm. Trong những năm gần đây, trẻ em bị xâm hại
có xu hướng gia tăng. Báo chí viết về những trường hợp như thế không phải
lúc nào cũng bảo vệ được lợi ích của các em.
Viết về trẻ em bị xâm hại, các nhà báo cần luôn cân nh
ắc mọi khía cạnh
để bảo vệ trẻ trong mọi trường hợp, trước mắt và lâu dài. Nhiều nước trên thế
giới đã có quy ước đạo đức khi viết về trẻ bị xâm hại, nhất là bị xâm hại tình
dục, rằng cấm tiết lộ những thông tin, dữ liệu mà theo đó người ta biết được

26
tên và địa chỉ của người bị hại. Vì như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt tới cuộc
sống sau này của trẻ.

Năm 2002, cùng một thời điểm có ba tờ báo ở Hà Nội cùng thông tin về
vụ một em bé gái bị xâm hại tình dục từ năm 13 tuổi; năm 14 tuổi sinh con và
khi lên 18 tuổi thì đến toà soạn tố cáo người bố dượng và nhờ cơ quan báo chí
can thiệp. Cả
ba tờ báo này đăng tin, bài nhiều kỳ kèm ảnh gia đình và mẹ con
cháu bé (với khuôn mặt tươi cười).
Sự việc này đã gây xôn xao dư luận, nhất là trong giới báo chí về việc
nên hay không nên thông tin, hoặc thông tin như thế nào. Có nhiều quan
điểm, nhưng chung quy có hai loại ý kiến: Loại ý kiến thứ nhất, báo chí nên
thông tin để tố cáo, vạch trần tên xâm hại kia và để cảnh báo trước dư luận xã
hội; loại ý kiến thứ hai, cho rằ
ng không nên thông tin, hoặc thấy cần thì không
được thông tin chi tiết, để lộ tên và địa chỉ người bị hại vì như thế không có
lợi cho em bé vốn đã bị hại. Cho nên, khi trẻ chưa thành niên bị xâm hại tình
dục và các em bức xúc yêu cầu đưa lên báo, nhà báo cũng cần cân nhắc, tư
vấn cho các em có nên hay không. Bởi vì trong những trường hợp như vậy,
đưa lên báo không phải là cách duy nhất, tốt nhất để bảo vệ lợi ích cho trẻ
em, tránh mọi biểu hiện lợi dụng cơ hội để giật gân câu khách, tăng lượng
phát hành tờ báo. Bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường, có khi cơ quan báo
chí vì giật gân câu khách để tăng lượng phát hành, thu lãi vài chục, thậm chí
vài trăm triệu đồng, nhưng xã hội phải tốn kém hàng trăm tỷ đồng không khắc
phục được hậu quả. Chính vì thế, người ta nói rằng nhà báo cần phải có “trái
tim nóng và cái đầu lạ
nh” và luôn phải cân nhắc các mối quan hệ tác động
nhiều mặt của sự kiện. Bởi vì mục đích của chúng ta là bảo vệ trẻ em khỏi
mọi sự xâm hại, chứ không phải mô tả nạn nhân như những dẫn chứng minh
hoạ, thậm chí giật gân câu khách.
Trẻ em và đời tư
Đời tư của trẻ em cũng cần được tôn trọng, bảo vệ như thậm chí hơn
đời

tư của người lớn. Công bố những thông tin liên quan đến đời tư của các em
thì phải được các em đồng ý, ngay cả trường hợp đời tư ấy xâm hại đến lợi
ích công cộng, với trẻ em cũng cần được cân nhắc kỹ càng hơn. Luật phóng
viên của Sri Lanca nói về đạo lý và phóng viên, chúng ta có thể tham khảo:
“Khi chuẩn bị công bố các thông báo về tình hình hay nguyên nhân của các
vụ phạm tội, phóng viên sẽ không
được nêu tên bất cứ tội phạm chưa thành
niên nào, mà theo anh ta, dưới tuổi 18 hoặc mới phạm lần đầu”. Không ai
được can thiệp tuỳ tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, nhà cửa hay thư
tín của các em.

×