Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luật Sư Trong Giai Đoạn Truy Tố Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Từ Thực Tiễn Thành Phố Hà Nội.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.48 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ ANH THẮNG

LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ ANH THẮNG

LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Đỗ Anh Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ......................................... 8
1.1. Lý luận về Luật sư trong giai đoạn Truy tố ............................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số nước về
vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố ....................................................... 14
1.3. Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự một số nước . 26
Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ TRONG
GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 32
2.1. Khái quát tình hình truy tố các vụ án hình sự ở Hà Nội .......................... 32
2.2. Thực tiễn tham gia của Luật sư trong giai đoạn Truy tố tại thành phố
Hà Nội ............................................................................................................. 35
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ............................................. 63
3.1. Hoàn thiện các qui định của pháp luật về sự tham gia của Luật sư trong
giai đoạn truy tố vụ án hình sự ........................................................................ 63
3.2. Quán triệt, triển khai và tăng cường hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố

tụng hình sự 2015 ............................................................................................ 66
3.3. Hồn thiện tổ chức và hoạt động của tổ chức Luật sư ............................. 68
3.4. Nâng cao trình độ, năng lực Luật sư ........................................................ 68
3.5. Các giải pháp liên quan đến Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự..... 72
3.6. Các giải pháp khác ................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT

Bộ Chính trị

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BMNN

Bộ máy Nhà nước

BTP

Bộ Tư pháp


KSV

Kiểm sát viên

LS

Luật sư

TP

Thẩm phán

ĐTV

Điều tra viên

LHP

Luật hiến pháp

LLS

Luật luật sư

PLTCLS

Pháp lệnh tổ chức luật sư

NN và PL


Nhà nước và Pháp Luật

NN

Nhà nước

PL

Pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định trình
tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự, trong đó giai đoạn truy tố có vai trò
rất quan trọng trong việc buộc tội và đưa bị can ra trước Tòa án để xét xử.
Trong giai đoạn đó, cùng với việc buộc tội của Viện kiểm sát, hoạt động bào

chữa cũng được thực hiện, trong đó có hoạt động bào chữa của Luật sư.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, Đảng đã chủ trương thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: cải
cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Trong đó cải cách tư
pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng ngay từ những năm đầu của thế kỷ
XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan
tâm đến vai trò của Luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc
bảo đảm hoạt động của Luật sư trong tố tụng, Nghị quyết đã chỉ rõ: “… Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng
dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào
quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh
luận dân chủ tại phiên toà…”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định:
“… Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu
đột phá của hoạt động tư pháp … Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số
lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chun mơn. Hồn thiện
cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ
chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát
huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”.
Trên tinh thần Cải cách tư pháp đó, trong những năm vừa qua các Cơ
quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội đã chủ động, tích cực phối hợp với
Luật sư trong công tác giải quyết các vụ án hình sự thơng qua việc tạo điều
1


kiện để Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra;
thậm chí từ giai đoạn Thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị nghị khởi
tố. Hoạt động của Luật sư giúp cho người bị tạm giữ, người bị tình nghi (nghi

phạm), bị can, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự
được bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo qui định của pháp
luật. Với sự tham gia tích cực của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự
khơng chỉ giúp Luật sư thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ thân chủ (bị can, bị hại …)
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà cịn góp phần trong việc làm
rõ sự thật khách quan của vụ án. Điều đó giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử
được nhanh chóng, chính xác nâng cao hiệu quả cơng cuộc đấu tranh phịng,
chống tội phạm; tránh oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm góp phần giữ
vững An ninh chính trị - Trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế; xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam nói chung và thủ đơ Hà Nội nói riêng.
Tuy nhiên, trên thực tế trong q trình tham gia giải quyết vụ án hình sự thì
vị trí, vai trị và chức năng của Luật sư khơng phải lúc nào, giai đoạn nào Luật sư
cũng được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của Người bào chữa trong
tố tụng hình sự. Vì trên thực tế có những vụ án hình sự vai trị của Luật sư là rất
quan trọng, đóng góp rất lớn vào quá trình tố tụng của vụ án nhưng cũng có những
vụ án sự tham gia của Luật sư rất mờ nhạt, thậm chí gây khó khăn cho cơng tác
giải quyết vụ án của các Cơ quan và của Người tiến hành tố tụng. Do vậy việc
nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm, những tồn tại, hạn chế những
nguyên nhân và những vướng mắc, khó khăn của Luật sư khi tham gia vào các
giai đoạn tố tụng hình sự nói chung và giai đoạn Truy tố vụ án hình sự nói riêng ở
địa bàn thành phố Hà Nội rất cần thiết.
Với tất cả những ý nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “Luật sư trong
giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà
Nội” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận
cũng như thực tiễn.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước năm 1988, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng
hình sự gần như chưa được quan tâm, nghiên cứu. Phải đến khi Pháp lệnh tổ
chức Luật sư năm 1987 và Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 có
hiệu lực thi hành thì mới có một số rất ít những cơng trình khoa học hay các
bài viết, chuyên đề nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này.
Sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Luật sư năm 2006 có hiệu
lực thi hành, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi hỏi cần
phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vai trò,
hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự mới được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Trong số các cơng
trình nghiên cứu về vị trí, chức năng, hoạt động, địa vị pháp lý, vai trò của
Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong cụ thể từng giai đoạn tố tụng
hình sự nói riêng có thể kể đến:
- Đề tài tại nhánh 05 thuộc Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã số
KX 04 giai đoạn 2001-2005: “Cải cách tổ chức và hoạt động Bổ trợ tư pháp
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, do
tiến sỹ Nguyên Văn Tuân - Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ
Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài.
- Đề tài cấp Bộ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam” do đồng chí Nguyễn Văn Thảo - Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm đề tài.
- Luận án tiến sỹ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành
nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hoài
năm 2003.
- Luận án tiến sỹ luật học: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Hồng Thị Sơn, trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2003.
3



- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Thị Việt Hà, Khoa luật trường Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi
cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự trên cơ sở thực
tiễn tại tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thu Phương, Khoa luật trường Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Vai trò của luật sư - người bào chữa trong
các giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Phương, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014.
- Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Phạm Thế Hùng “Hoạt động của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội năm 2017.
Và một số đề tài được đề cập dưới dạng bài viết, chuyên đề, ý kiến
trong một số cơng trình nghiên cứu khoa học về TTHS; trong các Bình luận
khoa học về TTHS; trong một số Luận văn của một số tác giả nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến nội dung: Các qui định pháp lý và thực tế hoạt động của
Luật sư trong TTHS ở Việt Nam nói chung và hoạt động của Luật sư trong
giai đoạn khởi tố điều tra hoặc giai đoạn xét xử vụ án. Nhưng lại chưa có đề
tài hay chuyên đề nào nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, chức
năng, hoạt động và đại vị pháp lý của “Luật sư trong giai đoạn truy tố theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Vì vậy,
bằng Luận văn này, tác giả với mong muốn được đề cập đến việc nghiên cứu
chi tiết nội dung qui định của Pháp luật về vị trí, vai trị, chức năng của Luật
sư trong TTHS ở Việt Nam; khái quát đánh giá những bất cập, khó khăn phát
sinh trong quá trình tác nghiệp của Luật sư trong giai đoạn Truy tố vụ án hình
sự từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội
Để nghiên cứu và thực hiện Luận văn “Luật sư trong giai đoạn truy tố

theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”, tác giả đã
4


tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả của các cơng trình nghiên cứu khoa
học đã được cơng bố trên đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pân tích quy định của pháp luật và đánh
giá thực tiễn sự tham gia của Luật sư vào tố tụng hình sự nói chung và giai
đoạn truy tố vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội (trong thời
gian 05 năm từ năm 2012 đến năm 2017) đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong trong giai
đoạn Truy tố vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự tham giacủa Luật sư
trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự như: Khái niệm giai đoạn Truy tố vụ án
hình sự; khái niệm Luật sư; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự; khái quát về địa vị pháp lý, vai trò và
hoạt động của Luật sư trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự;
- Nghiên cứu những quy định về bào chữa trong luật nhân quyền quốc tế;
- Nghiên cứu về nghề Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Đánh giá đúng thực tiễn hoạt động bào chữa của Luật sư trong TTHS
ở giai đoạn Truy tố vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời
gian 5 năm (từ 2012 - 2017);
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS. Đồng thời, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quảhoạt động của Luật sư trong giai đoạn truy tố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định của Pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của Luật sư, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Luật sư trong tố

5


tụng hình sự Việt Nam nói chung và giai đoạn Truy tố vụ án hình sự từ thực
tiễn thành phố Hà Nội nói riêng. Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò luật sư
vớitư cách người bào chữa cho bị can trong giai đoạn truy tố.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Luật sư với vai trò là người bào chữa trong
giai đoạn Truy tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam gắn
với địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động của Luật sư
trong trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội
trong 05 năm (2012-2017) và những văn bản quy phạm pháp luật về Luật sư
và giai đoạn Truy tố theo tố tụng hình sự trong khoảng thời gian từ năm 1987
đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin,Tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật;
về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương
pháp logic, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, phương pháp nghiên cứu tài

liệu, bản án, hồ sơ vụ án, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, phương
pháp vụ việc điển hình ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn.

6


6.1. Về ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận về sự tham gia
của Luật sư trong tố tụng hình sự nóichung, trong giai đoạn truy tố nói riêng.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có tác dụng đóng góp một phần việc
bổ sung, hồn thiện các qui định của Pháp luật về vị trí, vai trị, chức năng và
địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS nói chung và Luật sư trong giai đoạn
Truy tố vụ án hình sự nói riêng; đồng thời giúp cho cơ quan và người tiến
hành tố tụng hình sự cũng như Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, cá nhân các
Luật sư phát huy các kết quả đã đạt được, khắc phục các hạn chế thiếu sót
trong TTHS, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trong tố tụng
hình sự.
Ngoài ra, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho khơng chỉ các nhà lập
pháp mà cịn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán đang
công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án trong q trình giải
quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về luật sư trong
giai đoạn truy tố
Chương 2: Thực tiễn hoạt động của Luật sư trong giai đoạn truy tố tại
thành phố Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong giai
đoạn truy tố

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. Lý luận về Luật sư trong giai đoạn Truy tố
1.1.1. Khái niệm giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là tồn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhằm tham gia vào việc giải quyết
đúng đắn, đảm bảo sự thật khách quan, không bỏ lọt tội phạm.
Giai đoạn tố tụng là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết
thúc một nhiệm vụ tố tụng. Để giải quyết một vụ án hình sự một cách chính
xác, khách quan, đầy đủ và tồn diện thì u cầu một vụ án hình sự phải trải
qua nhiều giai đoạn tố tụng. Mỗi giai đoạn tố tụng đều phải có mối liên hệ
mật thiết với nhau và truy tố là một trong năm giai đoạn của tố tụng hình sự
bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giai đoạn thủ tục đặc
biệt xem xét lại bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật.
Truy tố là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó VKS tiến hành các
hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng hoặc
ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Giai đoạn
truy tố được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự

(bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến
và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị
can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra
bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Về mặt bản chất, truy tố là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng
hình sự, giai đoạn truy tố về hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các hành
vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các

8


quyết định của Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy
cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Hay nói
cách khác thì giai đoạn truy tố được thực hiện trên cơ sở kết thúc điều tra và
đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, trên cơ sở đó Viện Kiểm sát – cơ quan
thực hiện truy tố vụ án hình sự sẽ tiến hành các hoạt động chứng minh tiếp
theo nhằm làm rõ sự thực khách quan của vụ án, sau đó quyết định vụ án bằng
một trong các trường hợp sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng
(kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự
Giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự với tính chất là một bước của
qúa trình tiến hành tố tụng nên nhất thiết phải có những đặc điểm chung cơ
bản và bắt buộc như sau:
Thứ nhất, về thời gian của giai đoạn truy tố:
Như đã nêu ở phần 1.1.1, giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự được
tính từ khi Viện Kiểm sát nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, đề nghị
truy tố của cơ quan điều tra cho đến khi Viện Kiểm sát ra quyết định tố tụng
thuộc một trong bốn trường hợp: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo

trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Thời hạn quyết định việc truy tố được quy định tại Điều 240 BLTTHS, cụ
thể là thời hạn truy tố được tính : “Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết
luận điều tra”. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn
thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

9


Thứ hai, chủ thể tiến hành tố tụng duy nhất trong giai đoạn truy tố là
Viện kiểm sát, khác với các giai đoạn tố tụng khác có nhiều chủ thể tiến hành
tố tụng.
Tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Viện kiểm
sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Trong đó “Thực hành quyền
cơng tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay
từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” – Khoản 1 Điều 3
Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Như vậy, thực hành quyền công tố là
một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân. Thẩm quyền truy
tố của Viện Kiểm sát được quy định cụ thể tại Điều 239 BLTTHS 2015.
So với các giai đoạn khác thì ở giai đoạn truy tố Viện Kiểm sát là cơ

quan duy nhất tiến hành tố tụng còn trong các giai đoạn khác, chủ thể tiến
hành tố tụng có thể là một hoặc nhiều cơ quan, ví dụ: Trong giai đoạn khởi tố
thì chủ thể tiến hành tố tụng có thể là cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc
Hội đồng xét xử (Điều 153 BLTTHS 2015).
Ngồi ra có người tham gia tố tụng như bị can, đương sự có quyền và
lợi ích liên quan, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự;
Thứ ba, về hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng:
Trong giai đoạn truy tố, hồ sơ vụ án đã hoàn chỉnh mà Cơ quan điều tra
thấy rằng đủ để truy tố bị can ra trước Tịa án. Tuy nhiên, để có đủ cơ sở và
đảm bảo việc truy tố, trong giia đoạn này VKS cần nghiên cứu xem xét tất cả
những vấn đề mang tính thủ tục tố tụng cũng như những vấn đề thuộc về nội
dung vụ án thể hiện qua hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án

10


có tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khơng, có
cịn những hạn chế và thiếu sót nào cần khắc phục hay khơng để kịp thời ra
các quyết định tố tụng cần thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ sơ, khắc phục
những vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra, đảm bảo quyết định truy tố bị
can đúng đắn, chính xác, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tòa án xét xử, đảm
bảo lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, tơn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân. Viện Kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần phải
xác định các vấn đề như: Vụ án mà cơ quan điều tra đề nghị truy tố có thuộc
thẩm quyền của viện kiểm sát cáp minh hay không? Nếu không thuộc thẩm
quyền truy tố của cấp mình thì phải đề nghị viện trưởng VKS chuyển cho
VKS có thẩm quyền; Có cần phải cáp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn không? Việc điều tra đã đầy đủ, đã hoàn toàn tuân thủ pháp luật
cũng như các nguyên tắc của tố tụng chưa? Có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ
sung không? Có căn cứ để ra các quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án

hay khơng? Đã có đủ căn cứ để làm quyết định truy tố bị can chưa?...
Việc xác định cụ thể những vấn đề nêu trên để đảm bảo khi ra bất cứ
quyết định tố tụng nào trong giai đoạn truy tố thì các quyết định đó phải có
căn cứ và hợp pháp, tránh tình trạng quá chú trọng đến việc xác định những
vấn đề cần thiết để làm quyết định truy tố mà bỏ qua không xem xét đến các
vấn để khác của vụ án dẫn đến việc không đảm bảo được các điều kiện cho
tòa án xét xử cũng như ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của bị can,
đồng thời cũng hạn chế được tình trạng sau khi đã chuyển cáo trạng cùng hồ
sơ vụ án sang cho tòa án lại bị trả lại vì khơng đủ căn cứ để quyết định đưa vụ
án ra xét xử.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác định các vấn đề quan trọng nêu
trên, VKS nếu xét thấy cần thiết thì căn cứ theo Điều 236 BLTTHS có những
hoạt động như :Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế khác; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan

11


đến vụ án trong trường hợp cần thiết; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố
hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra; Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết
định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện cịn
có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều
tra; Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung;
Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp
dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết định gia
hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế; Quyết định truy tố; Quyết định đình chỉ, tạm đình
chỉ vụ án; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; quyết định

phục hồi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can.
Thứ tư, về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng:
Trong giai đoạn truy tố, chủ thể tham gia tố tụng không chỉ là cơ quan
tiến hành tố tụng mà cịn có những người tham gia tố tụng, bao gồm bị can,
người bào chữa, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên
quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trong giai
đoạn này, người tham gia tố tụng có các quyền và nghĩa vụ cụ thể như sau:
Quyền thu thập chứng cứ của bị can, của người bào chữa; Quyền đưa ra tài
liệu, chứng cứ; Quyền khiếu nại đối với hành vi tố tụng của Điều tra viên,
Kiểm sát viên; Quyền đưa ra những đề nghị, yêu cầu.
Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là một bước phát triển
quan trọng của ngành luật tố tụng hình sự ở nước ta, đã khắc phục được
những thiếu sót quan trọng của BLTTHS 2003 đối với việc bảo đảm quyền
của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đặc biệt bổ sung những quy
định mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với người bào chữa thực hiện
tốt việc bào chữa, gỡ tội góp phần cùng Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn

12


vụ án. Với những sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ,
việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, đã thể hiện sự dân chủ hơn trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, vừa tạo điều kiện tốt hơn để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nhất
là người bào chữa thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn và có hiệu quả hơn các
quy định pháp luật tố tụng. Rất nhiều điều luật đã được sửa đổi, bổ sung theo
hướng chi tiết hơn liên quan đến thu thập chứng cứ, như: Quyền thu thập và
đưa ra chứng cứ của người bào chữa; phương thức thu thập chứng cứ của
người bào chữa; nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu kịp thời cho các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, quyền của người bào chữa được

tham dự trong các buổi hỏi cung bị can và quyền yêu cầu các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện một số hoạt động để làm
sáng tỏ thêm chứng cứ vụ án như yêu cầu đối chất, nhận dạng, xem xét các
dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định… Với các quy định trên, nhà làm
luật hy vọng rằng quá trình giải quyết các vụ án hình sự được tiến hành nhanh
chóng, khách quan, dân chủ và đúng pháp luật, không làm oan người không
phạm tội, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, một số quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến việc thu
thập chứng cứ của người bào chữa, như sau: Được thu thập, đưa ra chứng cứ
(Điểm h khoản 1 Điều 73); Có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại,
người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày
về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều
88). Việc quy định về quyền cho người bào chữa được gặp gỡ, trao đổi với bị
can, thu thập chứng cứ, có mặt trong các buổi hỏi cung bị can, khiếu nại, đưa
ra yêu cầu đối với các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai
đoạn truy tố có ý nghĩa vơ cùng quan trong trọng, góp phần để việc truy tố
được khách quan, toàn diện và đầy đủ.

13


Thứ năm, đặc điểm trong các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong
bối cảnh trong giai đoạn điều tra đã có Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Hoạt động kiểm sát điều tra do Kiểm
sát viên VKS thực hiện trong suốt quá trình tiến hành tố tụng. Trong quá trình
điều tra vụ án, Kiểm sát viên thực hiện kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp
luật. Tuy nhiên trong giai đoạn truy tố, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu
nhận thấy vụ án còn nhiều điểm mâu thuẫn, chưa được làm rõ hoặc phát hiện vi
phạm thì Kiểm sát viên có quyền trả hồ sơ, u cầu cơ quan điều tra điều tra lại

Mặc dù Kiểm sát viên thực hiện việc giám sát nhưng đối với nhiều vụ phức tạp,
nhiều tình tiết có sự thay đổi thì các quyết định tố tụng của Viện Kiểm sát phải
có những quyết định tố tụng mang tính độc lập, không được bao che cho cơ
quan điều tra.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số
nước về vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố
1.2.1. Vai trò của Luật sư trong giai đoạn truy tố
Trong tố tụng hình sự, chức năng gỡ tội luôn tồn tại độc lập và đối
trọng với chức năng buộc tội như một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong
giai đoạn truy tố - giai đoạn mà viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội rõ
ràng nhất thông qua các quyết định tố tụng. Với bản chất dân chủ, pháp luật tố
tụng hình sự của Nhà nước ta ghi nhận quyền được bào chữa (gỡ tội) của
người bị buộc tội như một nguyên tắc cơ bản. Hoạt động nghề nghiệp của luật
sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, cơng
bằng, văn minh.
Luật sư có vai trò là người gỡ tội cho người bị buộc tội. Người bị buộc
tội theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 4 BLTTHS bao gồm người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Điều 16 Bộ luật TTHS quy định: “Người bị

14


tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này”.
Theo quy định của Điều 15 Bộ luật TTHS thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp để xác định sự thật của vụ án

một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền, nhưng
khơng có nghĩa vụ phải chứng minh là mình vơ tội. Khi người bị buộc tội nhờ
đến luật sư, tức là ở họ đang xuất hiện nhu cầu gỡ tội mà tự họ không thể thực
hiện được.
Trước tiên, ta cần khẳng định rằng luật sư là người có kiến thức khoa học
trong lĩnh vực pháp lý, có sự hiểu biết sâu sắc và chính xác về pháp lý đồng thời
là người có kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp. Luật sư là người chuyên
hoạt động trong lĩnh vực pháp lý, là nghề được pháp luật thừa nhận.
Trong giai đoạn truy tố, với vai trò là người gỡ tội, hoạt động của luật
sư vừa mang tính đới trọng lại với hoạt động buộc tội của Kiểm sát viên đồng
thời cũng mang tính bổ sung để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tránh sự
oan sai và buộc tội không đúng với tội trạng người phạm tội gây ra.
Chủ thể tham gia trong giai đoạn truy tố không chỉ có người bị buộc tội
mà cịn có đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Cũng giống như
người bị buộc tội được tự mình hoặc nhờ người bào chữa thì theo quy định tại
Điều 63, 64, 65 BLTTHS thì nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho mình.

15


Như vậy, xét về vị trí, vai trị của luật sư trong tố tụng hình sự nói
chung và giai đoạn truy tố nói riêng được quyết định bởi nguyên tắc tôn trọng
quyền bào chữa của người bị buộc tội. Với vai trị đó, vị trí của luật sư được
xác định là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng gỡ tội với tư cách là
người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp

phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, làm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, tồn diện.
Trọng hoạt đợng tớ tụng Hình sự ngày nay, luật sư luôn giữ một vai trò
vô cùng quan trọng, góp phần làm minh bạch hóa hoạt động tố tụng, bảo vệ
pháp chế, bảo vệ công bằng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn truy tố
Cùng với các quy định về nguyên tắc và thủ tục để bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội, BLTTHS cịn có các quy định làm nền tảng cho
luật sư thực hiện hoạt động bào chữa. Trong đó, các quy định về bào chữa nói
chung và quyền, nghĩa vụ của người bào chữa nói riêng là căn cứ pháp lý
quan trọng để luật sư thực hiện hoạt động bào chữa. Ví dụ: BLTTHS năm
2015 của Việt Nam quy định về bào chữa tại chương V, quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa tại Điều 73. Những quy định này được hình thành từ các
nguyên tắc hiến định và là yếu tố cấu thành nên chế định người bào chữa
trong tố tụng hình sự.
Luật sư là một trong những người bào chữa được quy định tại Khoản 1
Điều 72 BLTTHS. Vì vậy, luật sư có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa được quy định tại Khoản 1 Điều 73 BLTTHS, cụ thể là trong giai đoạn
truy tố, luật sư có các quyền như sau:
Luật sư khơng chỉ có quyền gặp và hỏi bị can trong giai đoạn điều tra
mà luật sư trên tư cách là người bào chữa có quyền gặp và hỏi bị can trong cả
giai đoạn truy tố. Quy định này là cơ chế đảm bảo cho người bào chữa thực
hiện tốt nhất quyền hạn của mình.

16


Luật sư được quyền có mặt trong hoạt động lấy lời khai do VKS tiến
hành; trong trường hợp cần thiết luật sư có quyền được thì tham gia hỏi; Có
mặt trong các hoạt động điều tra khác như đối chất.

Theo BLTTHS 2003, trong các hoạt động điều tra người bào chữa chỉ
được có mặt và được Cơ quan điều tra báo trước thời gian, địa điểm trong
hoạt động lấy lời khai người tạm giữ, hỏi cung bị can, nếu muốn tham gia vào
hoạt động điều tra khác phải được Điều tra viên đồng ý. Tuy nhiên, BLTTHS
2015 cho phép ngoài việc được có mặt trong hoạt động lấy lời khai người bị
bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can, người bào chữa cịn được có mặt trong hoạt
đợng đới chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động điều tra khác
và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa
điểm khi tiến hành các hoạt động này. Quy định mới này có ý nghĩa hết sức
quan trọng, người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện
quyền của mình. Khi có mặt người bào chữa, người bị buộc tội sẽ ổn định hơn
về mặt tâm lý, những người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra
cần phải thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Bên cạnh đó, người bào chữa có
thể theo dõi được quá trình điều tra, việc thu thập chứng cứ, điều đó có ý
nghĩa rất lớn về tính khách quan của hoạt động tố tụng đồng thời đảm bảo tốt
cho việc đưa ra ý kiếnchuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau
này tại phiên tòa.
Luật sư được quyền đề nghị VKS tiến hành các hoạt động tố tụng; thu
thập chứng cứ; giám định lại, giám định bổ sung; định giá lại tài sản... Khi
thấy chứng cứ trong hồ sơ vụ án chưa đủ để làm sáng tỏ sự thật khách quan
hoặc việc giám định, định giá không khách quan, tồn diện, luật sư có quyền
đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám
định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản hoặc các hoạt động tố tụng
khác như áp dụng biện pháp ngăn chặn kịp thời.

17


Luật sư được quyền tự mình thu thập chứng cứ; đưa ra các tài liệu,
chứng cứ. Muốn bào chữa tốt cho thân chủ của mình, người bào chữa khơng

chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được, điều
này sẽ ảnh hưởng đến kết quả điều tra. Do đó, quy định mới này đã phá bỏ sự
độc quyền của các cơ quan tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, bảo đảm sự
công bằng trong quá trình chứng minh, tăng cường tranh tụng, phù hợp với
yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 đồng thời nâng cao
được hiệu quả trong quá trình thu thập chứng cứ. Nhằm đảm bảo các thuộc
tính của chứng cứ, bộ luật tố tụng hình sự hiện nay cho phép người bào chữa
thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Đồng thời, người bào chữa
có thể kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
Trong giai đoạn truy tố, người bào chữa cịn có quyền đưa ra các u
cầu trong việc triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây hoàn toàn là một điểm mới về quyền
của người bào chữa. Bởi BLTTHS 2003 chỉ cho phép Điều tra viên và Kiểm
sát viên được quyền triệu tập còn BLTTHS 2015 thì đã cho phép một chủ thể
nữa là người bào chữa được quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, người
tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trong trường hợp nhận thấy các quyết định, hành vi tố tụng của người
tiến hành tố tụng không đúng quy định của pháp luật, xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, người bị tạm giam, tạm giữ... thì luật sư có quyền
khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên,
viện kiểm sát, kiểm sát viên mà cho là có vi phạm đến người đứng đầu cơ
quan tiến hành tố tụng đó.
Bên cạnh đó thì trên tư cách là người bào chữa có các nghĩa vụ sau:
Luật sư phải sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng
tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ

18



trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Các biện pháp mà pháp luật quy định
cho người bào chữa để thực hiện nhiệm vụ của mình là tham gia các cuộc hỏi
cung, tham gia vào hoạt động điều tra khác, gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người thân thích của những người này để thu thập các tài liệu, đồ vật,
tình tiết liên quan đến việc bào chữa hoặc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu khơng thuộc bí mật nhà nước, bí mật
cơng tác. Người bào chữa khơng được sử dụng các biện pháp bào chữa trái
pháp luật như mua chuộc, dụ dỗ người làm chứng, người bị hại, người tiến
hành tố tụng...
Việc giao tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa cho cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, tòa án là trách nhiệm của người bào chữa. Pháp luật ghi
nhận người bào chữa có quyền thu thập các đồ vật, tài liệu liên quan đến việc
bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa hoàn thành nhiệm vụ của
mình là bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo chứ không phải thu thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án
nhằm mục đích riêng nào khác của người bào chữa, bởi vậy, khi thu thập
được các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án người bào chữa có trách nhiệm
giao cho cơ quan tiến hành tố tụng. Tùy từng giai đoạn tố tụng, những tài liệu,
đồ vật đó sẽ được giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án. Việc
giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản.
Luật sư có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nghĩa vụ của người bào
chữa trong tố tụng hình sự không chỉ nhằm bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo mà với tư cách là người hiểu biết pháp luật họ còn phải giúp người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
của họ như tư vấn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện tốt nhất

19



các quyền của mình trong tố tụng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ. Ví dụ, khi điều tra viên có những hành vi xâm hại một cách trái pháp luật
tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, người bào chữa có thể giúp bị can
khiếu nại với hành vi trái pháp luật đó của điều tra viên.
Luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu khơng có lý do chính đáng. Luật sư
phải tơn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc
xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Khi tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật. Họ chỉ
được sử dụng các biện pháp hợp pháp để thực hiện việc bào chữa, khơng
được bóp méo sự thật của vụ án, biến khơng thành có, biến có thành khơng;
họ phải tơn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật và không
được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp các tài liệu sai sự thật cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Luật sư khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực
hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong
hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong quá trình tham dự các hoạt động
điều tra, người bào chữa có thể biết được những bí mật điều tra, người bào
chữa khơng được tiết lộ những bí mật điều tra mà mình biết. Sau khi kết thúc
điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, họ chỉ được phép sử dụng
những tài liệu, tình tiết đó cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà khơng
được sử dụng vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Không được tiết lộ thông tin về vụ
án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này
đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thơng tin đó vào mục đích xâm


20


×