Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

ĐÁNH GIÁ SỰ HÌNH HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY VÀ SO SÁNH VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.1 KB, 16 trang )

ĐÁNH GIÁ SỰ HÌNH HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI ĐOẠN TỐ
TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1988
ĐẾN NAY VÀ SO SÁNH VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Giảng viên HD: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Văn Nhựt
MSHV: 1583040416
Lớp: Cao học Luật Sóc Trăng khóa 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Giai đoạn ở tố tụng hình sự là vấn đề đầu tiên mà khoa học Luật tố tụng hình
sự cần phải làm rõ trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề về các giai đoạn tố
tụng hình sự. Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay, nhà làm luật
nước ta chưa bao giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này. Tuy nhiên, dưới
góc độ khoa học khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự có thể được định nghĩa là bước
của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư
pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải
quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, khái niệm trên đây của một giai đoạn tố tụng hình sự cho phép khẳng
định rằng, bản chất pháp lý của một giai đoạn tố tụng hình sự, với tính chất là bước
của quả trình tiến hành tố tụng hình sự nhất thiết phải được thể hiện bằng ba đặc điểm
chung cơ bản mà bất kỳ giai đoạn tố tụng hình sự nào cũng bắt buộc phải có:
- Giai đoạn tố tụng hình sự phải tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt
động tư pháp hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
- Chức năng nhất định đó là đặc trưng chỉ của từng loại chủ thể (cơ quan hoặc
người) tiến hành tố tụng (chứ không phải là của tất cả) có thẩm quyền thực hiện. Ví
dụ: Điều tra là một giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng chức năng nhất định là điều
tra vụ án hình sự mà chức năng đó là đặc trưng chỉ của hai loại chủ thể tiến hành tố
tụng thực hiện - Cơ quan điều tra (trong đại đa số những trường hợp) và Viện kiểm sát
(trong một số ít trường hợp), chứ không thể là Tòa án.
- Giai đoạn tố tụng hình sự phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự


một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố
pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực
tư pháp hình sự.
Căn cứ để xác định giai đoạn tố tụng: Giai đoạn tố tụng là một bộ phận của quá
trình tố tụng; mỗi giai đoạn tố tụng đều chịu sự chi phối của nhiệm vụ chung, của
nguyên tắc tố tụng hình sự; mỗi giai đoạn tố tụng có đặc trưng riêng về chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật; mỗi giai đoạn có hành vi tố tụng đặc trưng; mỗi giai đoạn
1


tố tụng có văn bản tố tụng đặc trưng; mỗi giai đoạn được giới hạn trong thời hạn khác
nhau.
Qua tìm hiểu sơ lược về sự hình thành và phát triển Luật tố tụng hình sự nước
ta từ 1988 cho đến nay nhận thấy sự phát triển của mỗi Bộ luật tố tụng hình sự ở mỗi
giai đoạn đều có những nét đặc trưng riêng phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể, nhưng về cơ bản vẫn giữ được tính kế thừa và có chọn lọc phát
triển những nhân tố tích cực của cái cũ và của các nước trên thế giới, giữ được giá trị
truyền thống phù hợp với điều kiện tình hình thực tiễn nước ta. Song song với việc
phát triển và từng bước hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói riêng và hệ thống
pháp luật nước ta nói chung, ngoài những quy định mang tính thống nhất nội tại ghi
nhận trong bộ luật thì vẫn còn những vấn đề mà các nhà khoa học còn có những quan
điểm tiếp cận, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau về các giai đoạn tố tụng nên
người viết tiến hành nghiên cứu các giai đoạn tố tụng, qua đó đánh giá sự hình thành
và phát triển của giai đoạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm
1988 đến nay và so sánh với một số nước trên thế giới.
2. NỘI DUNG:
2.1. Đánh giá sự hình thành và phát triển của giai đoạn tố tụng trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1988 đến nay:
2.1.1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988:
Căn cứ vào kết cấu của Bộ luật thì giai đoạn tố tụng được chia thành các giai

đoạn sau: Khởi tố và điều tra vụ án hình sự; xét xử sơ thẩm; xét lại bản án và quyết
định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm; thi hành bản án và quyết định
của tòa án; xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quan điểm khoa học: Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ là xác định bằng
được chân lý khách quan của vụ án thì giai đoạn tố tụng được chia thành các giai đoạn
sau:
- Thứ nhất, Giai đoạn điều tra: Được tính từ khi nhận được tố giác, tin báo về
tội phạm.
Nhiệm vụ: Kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều tra thu thấp chứng cứ theo quy
định của pháp luật.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là: Cơ quan điều tra
(Thủ trưởng, Phó thủ trưởng, Điều tra viên), Viện kiểm sát (Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên).
Các hoạt động tố tụng đặc trưng: Tiến hành các hoạt động điều tra theo quy
định của pháp luật như hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại,
đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra,… nhằm để thu thập chứng cứ.
2


Thời hạn điều tra phân theo thẩm quyền đối với cấp huyện kể cả gia hạn không
quá 08 tháng; đối với cấp tỉnh kể cả gia hạn không quá 12 tháng; cấp Trung ương kể
cả gia hạn không quá 12 tháng và trong trường hợp đặc biệt đối với tội đặc biệt nguy
hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền gia hạn thêm.
Văn bản tố tụng đặc trưng như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự, Quyết định phân công Phó thủ trưởng, Quyết định
phân công Điều tra viên, Quyết định khởi tố bị can, các Lệnh, các Đề nghị phê
chuẩn,…Bản kết luận điều tra vụ án hình sự.

- Thứ hai, Giai đoạn truy tố: Được tính từ khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ
vụ án và Bản kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển sang.
Nhiệm vụ: Kiểm tra các chứng cứ trong hồ sơ vụ án để đưa ra một trong các
quyết định như truy tố bị can trước Tòa án; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là: Viện kiểm sát (Viện
trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên).
Các hoạt động tố tụng đặc trưng như: Nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra đánh giá các
chứng có trong hồ sơ vụ án từ đó để đưa ra một trong các quyết định như truy tố bị
can trước Tòa án bằng Bản cáo trạng; Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung;
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đồng thời cũng có quyền quyết định
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Thời hạn kể cả gia hạn không quá 60 ngày và trong trường hợp truy tố thì trong
thời hạn 03 ngày kể từ khi ra quyết định, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ và quyết
định truy tố đến Tòa án.
Văn bản tố tụng đặc trưng như: Cáo trạng hoặc Quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung; Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can; Quyết định tạm
định chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can; Quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn; Lệnh tạm giam…
- Thứ ba, Giai đoạn xét xử: Được tính từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và
bản cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của
những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở
phiên tòa.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là: Chánh án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa, Thư ký phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, Luật
sư (nếu có).
Các hoạt động tố tụng đặc trưng như: Nghiên cứu hồ sơ vụ án để ra một trong
các quyết định sau: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung và Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đồng thời cũng có quyền

3


quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và tiến hành các
phương pháp điều tra, thẩm vấn công khai tại phiên tòa,…
Thời hạn 45 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội nghiêm trọng
kể từ khi nhận hồ sơ vụ án và đối những vụ án phức tạp thì Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử thêm 01 tháng. Đối với vụ
án được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ
sơ, thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Văn bản tố tụng đặc trưng như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; hoặc Quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều
tra bị can; Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can…
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chỉ là sự pháp điển hóa các quy định về tố
tụng hình sự trong các luật về tổ chức của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân và các văn bản quy phạm dưới luật trước đó. Do vậy, hệ thống tố tụng
cũng như thực tế hoạt động tố tụng ở nước ta về cơ bản không có sự chuyển biến mới
về chất. Do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống pháp luật Cộng hòa Pháp và sau
này là mô hình tư pháp của các nước xã hội chủ nghĩa (đặc biệt là Liên Xô, nay là
Cộng hòa Liên bang Nga) đã định hình ở nước ta mô hình tố tụng thẩm vấn. Tuy chưa
có ý thức sâu sắc về thuật ngữ “tranh tụng” nhưng nội dung của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988 đã thể hiện một số nội dung cơ bản của tranh tụng, tuy còn ít ỏi nhưng
được xem là tất yếu của quá trình phát triển.
2.1.2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
Căn cứ vào kết cấu của Bộ luật thì giai đoạn tố tụng được chia thành các giai
đoạn sau: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định việc truy tố; xét xử sơ thẩm;
xét xử phúc thẩm; thi hành bản án và quyết định của tòa án; xét lại bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quan điểm khoa học: Mục đích chung của hoạt động chứng minh trong
mỗi giai đoạn tố tụng là xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, xuất phát

từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của
các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai đoạn cũng có sự khác nhau nhiều
điểm như về chủ thể chứng minh, về đối tượng chứng minh, về biện pháp chứng
minh, về phạm vi chứng minh….thì giai đoạn tố tụng được chia thành các giai đoạn
sau:
- Thứ nhất, Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: Được tính từ khi tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Nhiệm vụ: Kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
để ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn khởi tố vụ án
rất rộng, ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, còn có các cơ quan khác là
Thủ trưởng đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh Sát biển, các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân.
4


Các hoạt động tố tụng đặc trung như: Tiến hành các hoạt động tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, các hoạt động kiểm tra, xác minh
nguồn tin thông qua các biện pháp hành chính thông thường. Tuy nhiên, trong giai
đoạn này trong những trường hợp cần thiết luật cho phép có thể tiến hành một số hoạt
động nghiệp vụ điều điều tra trước khi khởi tố vụ án như hoạt động khám nghiệm
hiện trường; lấy lời khai người bị hại, người làm chứng, người bị tạm giữ, khám xét,
khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định….
Thời hạn để giải quyết (ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự) là không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Văn bản tố tụng đặc trưng là Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự, các Quyết định phân công điều tra vụ án hình sự.
- Thứ hai, Giai đoạn điều tra:
Nhiệm vụ: tiến hành các hoạt động điều tra theo tố tụng nhằm thu thập tài liệu,

chứng cứ để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn này là Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát.
Các hoạt động tố tụng đặc trưng như: Ra Quyết định khởi tố bị can; áp dụng
biện pháp ngăn chặn ra các Lệnh; các Đề nghị phê chuẩn…và tiến hành các hoạt động
điều tra theo quy định của pháp luật như hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại; đối chất; nhận dạng; khám xét, thu giữ, tạm giữ; kê biên tài sản;
thực nghiệm điều tra; giám định…để thu thập chứng cứ.
Thời hạn điều tra trong giai đoạn này được luật cho phép là tương đối dài (như
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng “tội xâm phạm an ninh quốc gia” kể cả các lần
gia hạn tổng cộng thời hạn điều tra là 24 tháng) để có thể tiến hành mọi biện pháp
điều tra cần thiết nhằm thu thập một cách đầy đủ nhất các chứng cứ về hành vi phạm
tội của bị can.
Văn bản tố tụng đặc trung giai đoạn này là: Quyết định khởi tố bị can; các
Lệnh; các Đề nghị phê chuẩn; các Quyết định như Quyết định truy nã, Quyết định ủy
thác điều tra…; Bản kết luận điều tra vụ án hình sự.
- Thứ ba, Giai đoạn truy tố: Được tính từ khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ
án và Bản kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển sang.
Nhiệm vụ: Kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn
điều tra có trong hồ sơ vụ án để đưa ra một trong các quyết định như truy tố bị can
trước Tòa án; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra vụ án,
bị can.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là: Viện kiểm sát (Viện
trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên).
5


Các hoạt động tố tụng đặc trưng như: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh
giá lại các chứng thu thập được trong giai đoạn điều tra có trong hồ sơ vụ án từ đó để
đưa ra một trong các quyết định như truy tố bị can trước Tòa án bằng Bản cáo trạng;

Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án; đồng thời cũng có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn. Trong trường hợp cần thiết Kiểm sát viên có thể tiến hành các hoạt động
điều tra để thu thập thêm chứng cứ, nhưng hoạt động thu thập chứng cứ ở giai đoạn
này hạn chế hơn so với giai đoạn điều tra.
Thời hạn đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng kể cả gia
hạn không quá 30 ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng kể cả gia hạn không quá 45
ngày, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể cả gia hạn không quá 60 ngày và
trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định truy tố
bằng Bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ và Bản cáo trạng đến Tòa án.
Văn bản tố tụng đặc trưng giai đoạn này là Bản cáo trạng hoặc Quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can;
Quyết định tạm định chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can; Quyết định thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Lệnh tạm giam…
- Thứ tư, Giai đoạn xét xử: Được tính từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và
Bản cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của
những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở
phiên tòa.
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là: Chánh án; Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa; Thư ký phiên tòa; Hội thẩm nhân dân; Luật
sư (nếu có).
Các hoạt động tố tụng như: Nghiên cứu hồ sơ vụ án để ra một trong các quyết
định sau: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đồng thời cũng có quyền quyết định
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và tiến hành các phương
pháp điều tra, thẩm vấn công khai tại phiên tòa…
Thời hạn chuẩn bị xét xử kể cả gia hạn không quá 45 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, kể cả gia hạn không quá 60 ngày, kể cả gia hạn không quá 03 tháng đối
với tội phạm rất nghiêm trọng, kể cả gia hạn không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Tòa án
có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày. Đối với vụ án được trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, thẩm phán phải ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử.

6


Văn bản tố tụng đặc trưng như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; hoặc Quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều
tra bị can; Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can…
Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã thể chế hóa một bước chủ
trương, đường lối cải cách tư pháp của Đảng thể hiện trong Nghị quyết 08 của Bộ
Chính trị - là văn kiện đầu tiên của Đảng đề ra định hướng xây dựng mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam có yếu tố tranh tụng. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 vẫn tiếp tục khắc
họa mô hình tố tụng hình sự với những đặc điểm của hệ thống tố tụng thẩm vấn hết
sức đậm nét và đã chú trọng xây dựng các quy định mang yếu tố tranh tụng, trên cơ sở
tiếp thu những nội dung tích cực và phù hợp từ mô hình tố tụng tranh tụng một số
nước trên thế giới. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng chưa thể chế
hóa được toàn bộ yêu cầu về tranh tụng trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08, đặc biệt là tranh tụng tại phiên tòa.
2.1.3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Căn cứ vào kết cấu của Bộ luật thì giai đoạn tố tụng được chia thành các giai
đoạn sau: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự; truy tố; xét xử vụ án hình sự; thi hành bản
án và quyết định của tòa án; xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm khoa học: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 khẳng định việc tiếp
tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn
hiện hành ở nước ta; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của mô
hình tố tụng tranh tụng các nước trên thế giới phù hợp với truyền thống văn hóa, điều

kiện chính tri, kinh tế, xã hội và đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới, cũng như phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
như Công ước chống tra tấn, Công ước chống tội phạm xuyên quốc gia…Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 đã quán triệt đầy đủ và đúng đắn quan điểm, chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng, đảm bảo sự phân định hợp lý quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến
hành tố tụng phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đảm bảo được
tính liên tục, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo được
tính ổn định về tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp.
2.2 Các giai đoạn tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới:
2.2.1. Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga:
Các giai đoạn tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga được chia thành
như sau:
Giai đoạn 1: Bắt hoặc các hình thức khởi tố một vụ án hình sự. Giai đoạn này
được thực hiện nhằm mục đích chính thức khởi tố một vụ án, vì thế có thể tiến hành
điều tra sơ bộ.
Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ. Đây là giai đoạn điều tra vụ án chính thức được
thực hiện bởi Điều tra viên dưới sự giám sát của người giám sát điều tra (không phải
là kiểm sát viên). Nhiệm vụ trong giai đoạn này là thu thập chứng cứ của vụ án và
chọn lọc chứng cứ để đưa vào hồ sơ vụ án. Vào cuối giai đoạn điều tra, hồ sơ cùng
7


với lời buộc tội được đề xuất chính thức sẽ chuyển cho Kiểm sát viên để quyết định
việc buộc tội đó có hợp lý hay không và liệu hồ sơ vụ án có nên được gửi đến Tòa án
để xét xử hay không.
Giai đoạn 3: Buộc tội chính thức. Đây là giai đoạn liên quan đến Kiểm sát viên.
Kiểm sát viên có thể đồng ý lời buộc tội do Điều tra viên đề xuất nếu hợp lý hoặc hủy
bỏ vụ án nếu không hợp lý. Kiểm sát viên cũng có thể trả lại hồ sơ để Điều tra viên
điều tra bổ sung nếu hồ sơ vụ án không đủ để buộc tội hoặc có một sai trái nào đó
trong lời buộc tội.

Giai đoạn 4: Xét xử sơ thẩm. Giai đoạn này bắt buộc Kiểm sát viên, bị cáo và
người bào chữa, nếu có phải tham gia. Người bị hại cũng có thể tham gia phiên tòa
xét xử và thực hiện các quyền như một bên.
Giai đoạn 5: Phúc thẩm quyết định của Tòa án sơ thẩm - Kháng cáo phúc thẩm
hoặc giám đốc thẩm. Trong giai đoạn này, phán quyết của Tóa án sơ thẩm bị kháng
cáo lên Tòa án cấp cao hơn. Chỉ sau giai đoạn này thì phán quyết đó mới có hiệu lực.
Kháng cáo giám đốc thẩm thường tập trung vào hồ sơ và thủ tục lập tại phiên tòa xét
xử là dạng kháng cáo phổ biến nhất.
Giai đoạn 6: Xem xét lại quyết định của Tòa án cấp dưới. Giai đoạn này là giai
đoạn kháng cáo thứ ba và là giai đoạn kháng cáo cuối cùng đối với những quyết định
đã có hiệu lực pháp luật. Thẩm phán của Tòa án cấp cao phải tìm thấy những lý lẽ
hợp lý trong đơn kiện trước khi chuyển tới Hội đồng thẩm phán đưa ra quyết định.
2.2.2 Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Cộng hòa Italia:
Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Cộng hòa Italia được chia thành ba giai
đoạn chính: Giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử sơ bộ và giai đoạn xét xử. Tiếp đó,
giai đoạn kháng cáo/kháng nghị và thi hành án cũng có thể được coi là phần bổ sung
của ba giai đoạn chính.
Giai đoạn điều tra: Bắt đầu bằng tin báo tội phạm gửi tới văn phòng công tố.
Công tố viên cũng có quyền tự quyết định khởi tố điều tra dựa trên thông tin mà họ
cho rằng có dấu hiệu tội phạm. Sau khi nhận được tin báo, Công tố viên là người khởi
động điều tra và đồng thời chỉ đạo công tác điều tra của cảnh sát. Khi kết thúc điều
tra, Công tố viên sẽ quyết định xem có nên yêu cầu đình chỉ vụ án hay chính thức
buộc tội người bi tình nghi. Về mặt thời gian, công tác điều tra không được kéo dài
quá 06 tháng kể từ khi Công tố viên lập hồ sơ vụ án. Nếu được sự chấp thuận của
Thẩm phán xét xử sơ bộ thì công tác điều tra có thể được hoàn thêm 06 tháng nữa và
trong trường hợp đặc biệt thì thời hạn điều tra không được quá 02 năm. Trong giai
đoạn này còn có sự tham gia của thẩm phán điều tra sơ bộ với mục đích kiểm soát
tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, bảo toàn chứng cứ và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của bị can.
Giai đoạn xét xử sơ bộ: Bắt đầu ngay sau khi giai đoạn điều tra kết thúc và

Công tố viên chuẩn bị chuyển hồ sơ truy tố nghi phạm ra tòa. Trọng tâm của giai đoạn
8


này là một phiên tòa xét xử sơ bộ với mục đích kiểm soát về mặt tư pháp đối với số
lượng và chất lượng những chứng cứ được Công tố viên thu thập, tạo cơ hội cho Luật
sư bào chữa được tiếp cận với hồ sơ của Công tố viên và đưa ra một số chứng cứ gỡ
tội. Muộn nhất 7 ngày trước phiên xét xử, Công tố viên và Luật sư phải nộp lên Tòa
án danh sách nhân chứng mà họ muốn mời tới phiên tòa, trong đó bào gồm cả chuyên
gia giám định. Trong phiên tòa xét xử sơ bộ nếu có các tình huống đặc biệt thì thẩm
phán có quyền áp dụng một số thủ tục đặc biệt nhằm giải quyết vụ việc một cách
nhanh chóng hơn thủ tục thông thường như: Thủ tục lệnh phạt, thủ tục xét xử trực
tiếp, thủ tục xét xử ngay lập tức, thủ tục xét xử rút gọn, thủ tục “thương lượng nhận
tội”.
Giai đoạn xét xử: Đây là giai đoạn xét xử chính thức và đầy đủ theo quy trình
tố tụng của Italia, bắt đầu ngay sau giai đoạn xét xử sơ bộ. Mục đích của giai đoạn
này là đưa vụ án hình sự ra xét xử chính thức, theo các thủ tục và nghi thức tố tụng
đầy đủ. Bởi vì hoạt động xét xử trong giai đoạn này được thiết và quy định sao cho
tiến hành theo cách thức thể hiện tính tranh tụng cao nhất nên giai đoạn này được gọi
tên là giai đoạn xét xử tranh tụng.
Giai đoạn kháng cáo: Bị cáo, kể cả khi tha bổng, cũng có thể kháng cáo để
được hình thức tha bổng khác “mạnh hơn” trong số những hình thức sẵn có. Thông
thường, có 15 ngày để kháng cáo bản án sơ thẩm. Kháng cáo có thể nhắm vào nội
dung áp dụng pháp luật hoặc nội dung nhận định về sự kiện khách quan của bản án.
Trên cơ sở đó, tòa phúc thẩm cũng có thẩm quyền xem xét bất cứ phần nào trong
phán quyết của Tòa án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm có thể hủy bản án trước đó, ra
lệnh thay đổi hoặc sắp xếp một phiên tòa hoàn toàn mới do Tòa phúc thẩm xem xét.
Sau khi án sơ thẩm hoặc án phúc thẩm có hiệu lực, các bên vẫn có thể kháng cáo về
khía cạnh pháp lý của bản án lên Tòa án giám đốc thẩm tối cao.
2.2.3. Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp:

Các giai đoạn trong tố tụng hình sự Cộng hòa pháp được chia thành: Giai đoạn
điều tra, giai đoạn truy tố, thu thập chứng cứ phục vụ phiên tòa, phán quyết cuối cùng.
Giai đoạn điều tra: Về cơ bản, giai đoạn điều tra có thể do cảnh sát điều tra tiến
hành, khi đó Công tố viên sẽ là người chỉ đạo và kiểm soát quá trình điều tra. Hoạt
động điều tra cũng có thể do Công tố viên tiến hành và lúc này Thẩm phán điều tra sẽ
đóng vai trò chính trong việc kiểm soát hoạt động điều tra. Một trong những hoạt
động được chú ý nhiều nhất trong giai đoạn điều tra sơ bộ là hoạt động bắt giữ. Trong
giai đoạn này nếu thấy cần thiết cảnh sát và lực lượng hiến binh có thể bắt giữ người
bị tình nghi phạm tội trong vòng 24 giờ. Ngay khi bắt giữ cảnh sát phải lập tức thông
báo cho Công tố viên để kiểm tra về mặt tư pháp, nếu không thông báo ngay thì hoạt
động tố tụng này coi như không có hiệu lực. Về nguyên tắc cảnh sát không thể giữ
nhân chứng lâu hơn thời gian cần thiết để lấy lời khai hoặc xác minh ghi phạm. Trong
trường hợp cảnh sát đề nghị thì Công tố viên có thể gia hạn thời hạn tạm giữ thêm 24
giờ nữa. Đối với các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng liên quan tới các vụ án ma túy
và khủng bố thì thời hạn tạm giữ có thể lên đến 06 ngày.
9


Giai đoạn truy tố: Đối với những vụ án thông thường, đơn giản, Công tố viên
có thể buộc tội bị cáo ngay trước phiên tòa. Đây là thủ tục đơn giản nhất; theo yêu cầu
của Công tố viên, nhân viên giám sát phiên tòa sẽ triệu tập bị cáo. Cách này ít được sử
dụng vì chi phí phát sinh; cách thường sử dụng và tiện lợi hơn là triệu tập bị can thông
qua các nhân viên cảnh sát khi kết thúc thời hạn tạm giam ở cơ quan cảnh sát. Nhân
viên cảnh sát sẽ thảo công văn triệu tập, sau đó Công tố viên đọc công văn triệu tập
qua điện thoại có ghi chú ngày tháng mở phiên tòa. Công văn triệu tập trình bày rõ
hành vi phạm tội mà bị can bị truy tố và những quy định pháp luật áp dụng. Trong
trường hợp áp dụng kênh qua Thẩm phán điều tra, khi kết thúc giai đoạn điều tra, trên
cơ sở yêu cầu của Viện Công tố, Thẩm phán điều tra sẽ chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
nếu các chứng cứ cần thiết đã được thu thập đầy đủ.
Giai đoạn thu thập chứng cứ phục vụ phiên tòa: Trước khi mở phiên tòa, chứng

cứ cần thiết phải được Thẩm phán điều tra hoặc Công tố viên chỉ đạo lực lượng cảnh
sát thu thập đầy đủ. Người bị hại cũng có quyền thu thập chứng cứ và đề nghị Thẩm
phán điều tra hoặc Công tố viên truy tố vụ án. Trong tố tụng hình sự của Cộng hòa
pháp, trách nhiệm chứng minh sự thật hoàn toàn thuộc về cơ quan công tố. Nguyên
tắc suy đoán vô tội được áp dụng, bị cáo không bị coi là có tội cho đến khi Tòa có ra
đủ chứng cứ để tuyên người đó có tội. Tòa phải xem xét mọi chứng cứ bao gồm các
chứng cứ mang tính tình huống để có thể có cơ sở vững chắc khi đưa ra phán quyết
của mình. Giai đoạn tiền xét xử kết thúc khi hồ sơ vụ án đã hoàn thiện và có đủ chứng
cứ để truy tố vụ án ra Tòa. Nếu không vụ án sẽ bị hủy bởi Công tố viên hoặc Thẩm
phán điều tra.
Phán quyết cuối cùng: Áp dụng nguyên tắc xét xử công khai và bắt buộc sự có
mặt của người bị tình nghi phạm tội. Chỉ có hai trường hợp ngoại lệ sau: Thứ nhất,
khi đã có giấy triệu tập và người phạm tội cố ý từ chối có mặt tại tòa; thứ hai, là nếu
nhận thấy rằng người bị truy tố không nhận được giấy triệu tập thì thủ tục tố tụng vẫn
có thể tiếp tục và người đó sẽ bị tuyên bố có tội và bị kết án. Tuy nhiên, quyết định
của Tòa án sẽ không thể được thực hiện. Nếu sau đó người phạm tội biết được về việc
triệu tập, anh ta có thể yêu cầu mở một phiên tòa mới với sự có mặt của mình. Bản án
xử vắng mặt của tòa sẽ bị hủy. Phiên tòa xét xử cuối cùng không mặt nhiều thời gian
do có giai đoạn điều tra sơ bộ và sự gắn kết giữa giai đoạn này và giai đoạn xét xử,
Tại phiên xử, Thẩm phán chủ tọa tóm tắt vụ việc, các bên đặt câu hỏi và sau lời sau
cùng Tòa án sẽ đưa ra phán quyết hoặc tuyên bố thời gian đưa ra phán quyết.
2.3.4 Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Liên bang Hoa Kỳ:
Các giai đoạn tố tụng hình sự của Liên bang Hoa Kỳ bao gồm:
Giai đoạn điều tra: Trong giai đoạn này cơ quan điều tra xác định trước tiên
hành vi phạm tội có xảy ra không. Nếu tội phạm đã được thực hiện, cơ quan điều tra
sẽ cố gắng để xác định danh tính của người thực hiện hành vi phạm tội đó. Người
thực hiện vai trò tố tụng chính trong giai đoạn điều tra không chính thức này là Điều
tra viên do cơ quan điều tra phân công, với sự tư vấn pháp lý của các Công tố viên.
Về các văn bản tố tụng được ban hành vào cuối giai đoạn điều tra đầy đủ của cơ quan
10



điều tra, Điều tra viên sẽ chuẩn bị một bản ghi nhớ hoặc báo. Tuy nhiên, báo cáo truy
tố này không phải là dấu chấm hết cho sự tham gia của Điều tra viên và cơ quan điều
tra vào vụ việc. Điều tra viên sẽ tiếp tục hỗ trợ Công tố viên với các hoạt động điều
tra bổ sung cần thiết trong quá trình tiền xét xử và trong quá trình xét xử. Bên cạnh
các hoạt động điều tra tội phạm liên bang được tiến hành bởi các cơ quan điều tra,
hoạt động điều tra hình sự còn có thể được thực hiện bởi một đại bồi thẩm đoàn liên
bang. Ngoài ra, nếu Điều tra viên không yêu cầu, Công tố viên có thẩm quyền chủ
động mở cuộc điều tra ban đầu của đại bồi thẩm đoàn và sau đó yêu cầu cơ quan điều
tra chỉ định một Điều tra viên hỗ trợ bồi thẩm đoàn - khác với Kiểm sát viên Việt
Nam.
Giai đoạn chuyển vụ án sang Tòa án để chuẩn bị xét xử: Giai đoạn này Công tố
viên sẽ xem xét lại báo cáo truy tố của Điều tra viên cùng với các file đính kèm để
quyết định xem việc truy cứu trách nhiệm hình sự có cơ sở hay không. Nếu Công tố
viên quyết định không truy tố, thì tài liệu tố tụng mà Công tố viên phải chuẩn bị là
một biên bản từ chối, trong đó giải thích lý do không truy tố vụ án và lưu biên bản
này trong hồ sơ của Công tố viên. Nếu Công tố viên quyết định truy tố vụ án, một số
tài liệu tố tụng sẽ được Công tố viên ban hành để truy tố vụ án trước tòa.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm: Giai đoạn này là dành cho Thẩm phán và bồi thẩm
đoàn, chủ yếu là giải quyết các tranh chấp pháp lý và thực tế trong vụ án, công khai
làm rõ liệu chính phủ có khả năng chứng minh về tội ác của bị can để không ai có cơ
sở nghi ngờ hợp lý hay không. Nếu bị can bị buộc tội và kết án, Bản án của VAHS sẽ
là bản án chung thẩm trừ phi luật sư bào chữa nộp thông báo phúc thẩm lên tòa án
quận trong vòng 14 ngày kể từ ngày Thẩm phán ký bản án của VAHS. Về cơ bản,
công tố viên có quyền khiếu nại hình phạt đã được tuyên trong Bản án của VAHS và
thông báo phúc thẩm của chính phủ phải được nộp trong vòng 30 ngày thẩm phán ký
Bản án của VAHS.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm: Giai đoạn này chỉ được khởi động khi một trong
các bên kháng án, chức năng của quy trình phúc thẩm là để tòa phúc thẩm xét lại các

lỗi pháp lý trong các phần hồ sơ tố tụng tại tòa án quận mà các bên đã chọn.
Giai đoạn xét xử giám đốc thẩm: Hay còn gọi là giai đoạn bác án gián tiếp, chỉ
có thể được khởi động theo sự đề nghị của các bên trong vụ án. Tuy nhiên, xét xử
giám đốc thẩm không phải là quyền của các bên, có nghĩa là các bên có thể có đơn
khiếu nại đề nghị xét xử giám đốc thẩm song việc quyết định có xét xử giám đốc thẩm
hay không sẽ tùy thuộc vào Thẩm phán tòa án phúc thẩm đã có bản án đang bị khiếu
nại.
2.2.5. Các giai đoạn trong tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức:
Quá trình tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức được chia làm ba giai đoạn
chính, đó là: giai đoạn tiền xét xử (gồm giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố); giai
đoạn Tòa án tiến hành tố tụng gồm giai đoạn trung gian và xét xử tại phiên tòa; giai
đoạn thi hành án.
11


Giai đoạn tiền xét xử: Cơ quan có thẩm quyền điều tra trong giai đoạn điều tra
bao gồm: Cảnh sát, Viện công tố. Ngoài ra, Tòa án cũng tiến hành một số hoạt động
tố tụng trong giai đoạn này. Ngay từ khi bắt đầu vụ án, luật tố tụng hình sự Cộng hòa
Liên bang Đức quy định Cảnh sát tư pháp và Cơ quan công tố cùng có thẩm quyền
tiến hành hoạt động điều tra trong đó cơ quan Công tố nắm vai trò chỉ đạo, kiểm soát
hoạt động điều tra của Cảnh sát. Hầu hết các cuộc điều tra được bắt đầu từ tin báo, tố
giác tội phạm của quần chúng. Ngay sau khi nhận được thông tin về tội phạm, Cơ
quan công tố phải xác minh các tình tiết để quyết định có khởi tố hay không . Hoạt
động điều tra được bắt đầu bằng việc khởi tố. Trong giai đoạn này, Cơ quan công tố
phải xác định thu thập cả những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội, những tình tiết quan
trọng cho việc xác định hậu quả pháp lý và phải bảo đảm rằng những chứng cứ đó
được thu thập một cách toàn diện, đúng luật. Phương pháp tố tụng đựợc áp dụng trong
giai đoạn điều tra là phương pháp điều tra, thẩm vấn. Cảnh sát, Công tố viên, Thẩm
phán đều có quyền thẩm vấn bị can, bị cáo trong quá trình điều tra. Sau khi Cảnh sát
kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện công tố để xem xét, quyết định

việc truy tố. Dựa vào những chứng cứ thu thập được, Công tố viên sẽ quyết định đình
chỉ vụ án hay tiếp tục tiến hành tố tụng đưa vụ án ra xét xử bằng một bản cáo trạng.
Nếu Công tố viên quyết định truy tố, họ sẽ làm bản cáo trạng và chuyển vụ án sang
Tòa án.
Giai đoạn xét xử: Sau khi Công tố viên chuyển sang Tòa án bản cáo trạng cùng
hồ sơ vụ án và đơn đề nghị đưa vụ án ra xét xử, giai đoạn xét xử chính thức bắt đầu
bằng quyết định đưa vụ án ra xét xử. Về nguyên tắc, Tòa án sẽ quyết định xét xử vụ
án khi thấy có đủ lý do để nghi ngờ bị can bị truy tố đã thực hiện tội phạm. Tiến trình
tố tụng được thực hiện công khai tại phiên toà và các bên tham gia tố tụng (Công tố
viên, bị cáo và luật sư của bị cáo, người bị hại) đóng vai trò tích cực. Phiên toà bắt
đầu với việc Công tố viên đọc bản cáo trạng, mô tả tóm tắt hành vi phạm tội của bị
cáo, tội danh mà bị cáo bị cáo buộc. Sau đó chủ toạ phiên toà hỏi bị cáo có thực hiện
quyền giữ im lặng hay không. Nếu bị cáo không thực hiện quyền im lặng thi phải trả
lời tất cả các câu hỏi được nêu ra liên quan đến hành vi phạm tội bị truy tố. Phương
pháp tố tụng được áp dụng trong giai đoạn xét xử vẫn là phương pháp điều tra, thẩm
vấn vì về bản chất, phiên toà trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bangg Đức không
phải là sự cạnh tranh giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà là sự tiếp tục điều tra. Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa quyết định trình tự đưa ra chứng cứ, chịu trách nhiệm về tính
đầy đủ của chứng cứ, thẩm vấn bị cáo, người làm chứng và người giám định. Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa cho phép các Thẩm phán khác thẩm vấn bị cáo, người làm
chứng và người giám định. Các Thẩm phán khác (kể cả Hội thẩm) cũng như Công tố
viên, luật sư bào chữa, người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại (nếu có) và
bị cáo có quyền đưa ra các câu hỏi bổ sung đối với nhân chứng và người giám định.
Sau khi chứng cứ đã được đưa ra, Công tố viên sẽ trình bày bản luận tội, trong đó nêu
tóm tắt kết quả thẩm vấn, các lập luận qua quá trình xét xử cùng với mức án đề
nghị (mức hình phạt cụ thể và các biện pháp bổ sung). Sau khi bị cáo nói lời sau cùng,

12



các Thẩm phán và Hội thẩm vào phòng nghị án. Việc xét xử kết thúc bằng việc ra bản
án.
2.3. So sánh các giai đoạn tố tụng hình sự Việt Nam với một số nước trên
thế giới:
Quá nghiên cứu, tìm hiểu các giai đoạn trong tố tụng hình sự của một số nước
trên thế giới thấy rằng: Nhìn chung mỗi một quốc gia có một mô hình tố tụng khác
nhau, có thể là mô hình tố tụng thẩm vấn, cũng có thể mô hình tố tụng tranh tụng hoặc
mô hình tố tụng pha trộn. Khi lựa chọn cho quốc gia mình một mô hình tố tụng tương
đối phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia thì chính mô hình tố tụng đó sẽ
quyết định đến các giai đoạn tố tụng.
Theo quan điểm cá nhân: Nhìn chung khi so sánh với các giai đoạn tố tụng của
các nước Cộng hòa Liên bang Nga, Cộng hòa Italia, Liên bang Hoa kỳ, Cộng hòa
Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức đều có yếu tố tương đồng, có quốc gia ghi nhận đầy
đủ tất cả các giai đoạn, có quốc gia không quy định đó là một giai đoạn. Ở từng giai
đoạn khác nhau, có nhiệm vụ, chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng, các
hoạt động tố tụng, văn bản tố tụng đặc trưng, thời hạn để giải quyết khác nhau, nhưng
đều hướng đến một mục tiêu chung là bảo đảm việc điều tra, làm sáng tỏ bản chất của
tội phạm một cách chính xác, kịp thời, trừng trị người phạm tội theo đúng quy định
của pháp luật, tránh xử oan cho người vô tội, tăng cường nhận thức của người dân về
sự cần thiết phải chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh với những hành vi phạm tội
nhằm bảo vệ pháp chế, bảo vệ các quyền cá nhân, tài sản, quyền dân chủ và các quyền
khác của công dân.
Theo quan điểm cá nhân nhận thấy các giai đoạn tố tụng của Liên bang Nga,
Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức có nhiều điểm tương đồng với các giai đoạn
tố tụng của Việt Nam vì quy định cả ba cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án đều có quyền thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Nghi can, bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng là mình vô
tội. Trong ba cơ tiến hành tố tụng nêu trên thì cơ quan điều tra có vai trò nổi trội trong
việc thu thập chứng cứ. Hơn nữa, phương pháp tố tụng được sử dụng trong giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử vẫn là phương pháp thẩm vấn (xét - hỏi) mà ít hoặc hạn chế sử

dụng phương pháp đối tụng.
2.4. Quan điểm cá nhân về các giai đoạn tố tụng hình sự theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam:
Hiện nay trong khoa học Luật tố tụng hình sự vẫn còn có nhiều quan điểm khác
nhau về các giai đoạn tố tụng hình sự. Theo quan điểm cá nhân để phân định chính
xác các giai đoạn tố tụng, cần phải làm rõ các căn cứ xác định giai đoạn tố tụng đó
như: Giai đoạn tố tụng là một bộ phận của quá trình tố tụng; mỗi giai đoạn tố tụng đều
chịu sự chi phối của nhiệm vụ của tố tụng hình sự; mỗi giai đoạn tố tụng có chủ thể
13


đặc trưng tham gia vào quan hệ pháp luật; mỗi giai đoạn có hành vi tố tụng đặc trưng,
có văn bản tố tụng đặc trưng; mỗi giai đoạn được giới hạn trong thời hạn khác nhau.
Dưới góc độ lý luận khoa học theo quan điểm cá nhân thì pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam cần phân chia bốn giai đoạn sau:
- Giai đoạn khởi tố: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình
sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.
- Giai đoạn điều tra: Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai
mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu
thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện
nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại
về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án
hình sự hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo
kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
- Giai đoạn truy tố: Truy tố là một giai đoạn tố tụng vì giai đoạn truy tố là sự
tiếp nối của giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, thông qua các hoạt động tố tụng
đặc trưng như nghiên cứu, kiểm tra, tổng hợp, đánh giá lại các chứng cứ thu thập

được trong giai đoạn khởi tố, điều tra có trong hồ sơ vụ án để quyết định ban hành
một trong các văn bản tố tụng đặc trưng trong giai đoạn này như Bản cáo trạng, quyết
định tạm đình chỉ điều tra vụ án, quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can hay quyết
định đình chỉ….Vì vậy giai đoạn này là một giai đoạn tố tụng vì có đầy đủ các đặc
điểm của giai đoạn tố tụng như có nhiệm vụ chung, thành phần chủ thể tham gia, có
hành vi tố tụng đặc trung, giới hạn về mặt thời hạn và cũng có văn bản tố tụng đặc
trưng.
- Giai đoạn xét xử (xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm): Xét xử vụ án hình sự
là một giai đoạn tố tụng vì đây là giai đoạn có sự tiếp nối của hai giai đoạn trước và là
giai đoạn để đánh giá kết quả toàn bộ tiến trình tố tụng của hai giai đoạn trước, thông
qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án để Tòa án quyết định ban hành một trong các
văn bản tố tụng đặc trưng trong giai đoan này như Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án. Vì vậy đây cũng là một giai đoạn tố tụng vì có đầy đủ các đặc điểm của giai đoạn
tố tụng như có nhiệm vụ chung, thành phần chủ thể tham gia, có hành vi tố tụng đặc
trung, giới hạn về mặt thời hạn và cũng có văn bản tố tụng đặc trưng.
Đối với thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; xét
lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong giai đoạn hiện nay nhà làm luật
nước ta vẫn coi là một giai đoạn tố tụng hình sự và chính thức ghi nhận nó trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, nhưng theo quan
điểm cá nhân đó không phải là một giai đoạn tố tụng hình sự vì:
14


Thứ nhất, đối với Thi hành bản án và quyết định của Tòa án chỉ là việc thực
hiện bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên hành vi tố tụng,
văn bản tố tụng đặc trưng không nổi trội và Thi hành án là một chuyên ngành luật độc
lập (Luật thi hành án hình sự) với các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh khác
với Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, đối với việc xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ

thực hiện khi bị kiến nghị vì xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm nếu phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc xem xét theo thủ tục tái
thẩm khi có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án hoặc quyết định mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó.
3. KẾT LUẬN:
Hiện nay có nhiều quan điểm phân chia các giai đoạn của tố tụng hình sự thành
các giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn khác nhau, có nhiệm vụ, chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng, các hoạt động tố tụng, văn bản tố tụng đặc trưng, thời hạn
để giải quyết khác nhau, nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung là bảo đảm việc
điều tra, làm sáng tỏ bản chất của tội phạm một cách chính xác, kịp thời, trừng trị
người phạm tội theo đúng quy định của pháp luật, tránh xử oan cho người vô tội, tăng
cường nhận thức của người dân về sự cần thiết phải chấp hành pháp luật, tích cực đấu
tranh với những hành vi phạm tội nhằm bảo vệ pháp chế, bảo vệ các quyền cá nhân,
tài sản, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân. Mỗi giai đoạn tuy độc lập
nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành hoạt động thống
nhất.
Qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của giai đoạn tố tụng trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến nay và tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và phát huy
những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tố tụng tranh tụng các nước trên thế giới
phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện chính tri, kinh tế, xã hội, và đáp ứng yêu
cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Mặt khác, khi nghiên cứu sự hình
thành và phát triển của giai đoạn tố tụng giúp cho chúng ta có sự nhận thức đúng đắn,
đầy đủ hơn về việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, khi so sánh các
giai đoạn tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới giúp ta
có cái nhìn tổng quan, nhận xét, đánh giá và rút ra những ưu điểm, hạn chế. Từ đó, có
những giải pháp, định hướng hoàn thiện các giai đoạn tố tụng trong pháp luật tố tụng

hình sự nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung trong thời kỳ hội nhập quốc tế, tạo
thành cơ sở pháp lý vững chắc, bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
15


ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm./.

16



×