Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Khóa luận tốt nghiệp bảo vệ bí mật kinh doanh trong pháp luật lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.48 MB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NG

N

ỒNG

N

BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP HỒ CHÍ MINH - T

N 7 - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

Người hướng dẫn khoa học: ThS. Đinh Thị Chiến
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hoàng Yến
Mã số sinh viên: 1751101030194
Lớp: 84-QTL42



TP HỒ C

M N -T

N 7 - NĂM 2022


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là thành quả to lớn đối với một người sinh viên trong suốt
những năm tháng ở giảng đường Đại học, là một cơng trình đúc kết tồn bộ q
trình học tập và rèn luyện của sinh viên trong ngần ấy năm. Đối với bản thân em,
ngay từ khi bước chân vào trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, em đã
ln cảm thấy “ngưỡng mộ” những anh chị khóa trước khi họ chọn làm Khóa luận
tốt nghiệp và có cho mình những “tác phẩm để đời”. Sau năm năm học tập và trau
dồi kiến thức, cuối cùng em cũng đã có cơ hội để viết một đề tài cho riêng mình,
dựa trên chính sự nghiên cứu và những quan điểm, góc nhìn của bản thân. Khoảng
thời gian ba tháng qua, em luôn cố gắng vận dụng những kiến thức đã được Thầy
Cô truyền dạy trong những năm tháng ở dưới mái trường Luật, cùng với việc áp
dụng những kỹ năng tư duy pháp lý mà mình đã rèn luyện được trong quá trình học
để tiến hành nghiên cứu, phân tích đề tài: “Bảo vệ bí mật kinh doanh trong pháp
luật lao động”. Những kiến thức và kỹ năng đó đã được truyền tải một cách đầy đủ
và trọn vẹn nhất qua từng câu chữ, từng nội dung trong đề tài này.
Để có thể hồn thành tốt Khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn
ThS. Đinh Thị Chiến. Cô là người đã luôn dành tất cả sự quan tâm, nhiệt huyết của
bản thân để hướng dẫn em ngay từ những bước đi đầu tiên của Khóa luận. Từ
những ngày đầu khi chỉ mới xác định được tên đề tài, Cô là người đã luôn động viên
và cho em những lời khuyên hữu ích để có thể hồn thành tốt “tác phẩm” của mình.
Nếu khơng có sự định hướng từ Cơ, em nghĩ rằng em sẽ phải tốn rất nhiều thời gian
và cơng sức để có thể xác định đúng hướng đi cho đề tài của mình. Những lần gọi

điện hướng dẫn tận tình của Cơ, những trang Word đầy các dịng chữ đỏ góp ý,
những tài liệu Cơ gửi cho em tham khảo,... là những điều mà em sẽ không bao giờ
quên được và luôn muốn gửi đến cô sự biết ơn sâu sắc nhất. Một lần nữa, em cảm
ơn Cô vì tất cả!
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè – những người
đã luôn bên cạnh ủng hộ, giúp đỡ và khuyên nhủ em trong suốt khoảng thời gian
làm khóa luận này. ia đình và bạn bè chính là một nguồn động lực to lớn để em có
thể hồn thành được Khóa luận tốt nghiệp và vững bước hơn trên con đường tương
lai.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tác
giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Đinh Thị Chiến, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 6 năm 2022
Tác giả

Nguyễn Hoàng Yến


DANH MỤC TỪ VI T TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung đƣợc viết tắt

BLDS 2015


Bộ luật Dân sự năm 2015

BLLĐ

Bộ luật Lao động

BLLĐ 2012

Bộ luật Lao động năm 2012

BLLĐ 2019

Bộ luật Lao động năm 2019

Công ty CP

Công ty Cổ phần

Công ty TNHH

Công ty Trách nhiệm hữu hạn

Luật SHTT

Luật Sở hữu trí tuệ

Luật S TT năm 2005 được Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ
sửa đổi, bổ sung năm 2009
sung năm 2009
NLĐ


Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

Q LĐ

Quan hệ lao động

Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBX của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội ngày 12 tháng 11
năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Thông tư số 10/2020/TTmột số điều của Bộ luật Lao động về nội dung của
BLĐTBX
hợp đồng lao động, hội đồng thương lượng tập thể
và nghề, cơng việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng
sinh sản, ni con
TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
C ƢƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
KINH DOANH TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG ................................................6
1.1. Bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động ..................................................6
1.1.1. Khái niệm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động ................................6

1.1.2. Đặc điểm của bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động .........................10
1.2. Bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động .......................................14
1.2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động ........14
1.2.2. Quy định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh doanh
trong quan hệ lao động .............................................................................................16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................30
C ƢƠNG 2: T ỰC TRẠNG BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH TRONG
QUAN HỆ LAO ĐỘNG VÀ MỘT SỐ KI N NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ........................................................................................................................31
2.1 Thực trạng bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động .................31
2.1.1 Thực trạng thỏa thuận điều khoản bảo vệ bí mật kinh doanh ....................31
2.1.2 Thực trạng quy định trong Nội quy lao động...............................................41
2.2 Những điểm hạn chế trong quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh và kiến
nghị hồn thiện ........................................................................................................50
2.2.1 Về nội dung bí mật kinh doanh ...................................................................50
2.2.2. Về biện pháp bảo vệ ...................................................................................51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................57
K T LUẬN ..............................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Bí mật kinh doanh là những tài sản vơ hình nhưng có giá trị rất lớn, đôi khi quyết
định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Trong quan hệ lao động
(sau đây viết tắt là Q LĐ), vì tính chất công việc nên người lao động (sau đây viết
tắt là NLĐ) sẽ có khả năng có được, biết được, thậm chí chính họ tạo ra bí mật kinh

doanh đó nên vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ rất cần được quan tâm.
Tuy nhiên, với bối cảnh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, các doanh nghiệp cạnh
tranh ln mong muốn có được bí mật kinh doanh của đối thủ mình nên họ sẽ sử
dụng mọi cách thức để mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ NLĐ đang nắm giữ các thơng tin
bí mật đó. Thực tế cũng đã xảy ra nhiều trường hợp bí mật kinh doanh bị tiết lộ, bị
đánh cắp bởi NLĐ. Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh này có thể xảy ra
ngay trong quá trình NLĐ làm việc tại doanh nghiệp hoặc phát sinh sau khi hai bên
đã chấm dứt Q LĐ.
Trong Q LĐ, người sử dụng lao động (sau đây viết tắt là NSDLĐ) có thể quy
định về nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh trong Nội quy lao động hoặc/và thỏa
thuận với NLĐ về việc bảo vệ bí mật kinh doanh trong hợp đồng lao động hoặc
trong một văn bản khác theo quy định của pháp luật. Các vấn đề này đều đã được
quy định trong pháp luật lao động Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều
điểm hạn chế, bất cập, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng. Các quy định pháp luật
về bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ được hồn thiện sẽ góp phần dung hịa lợi
ích giữa các bên, đảm bảo những lợi ích chính đáng cho NLĐ, đồng thời giúp
NSDLĐ giữ vững được lợi thế cạnh tranh của mình, ngăn chặn sự đe dọa từ các
hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo vệ bí mật kinh
doanh trong pháp luật lao động” cho Khóa luận tốt nghiệp của mình với mong
muốn góp phần làm rõ được vấn đề này. Theo đó, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu
nhằm làm rõ được những hạn chế phát sinh trong các quy định của pháp luật cũng
như kiến nghị những giải pháp nhằm khắc phục, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động Việt Nam nói chung và hồn thiện cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh trong
Q LĐ nói riêng. Liên quan đến việc nghiên cứu và hồn thiện pháp luật về bảo vệ
bí mật kinh doanh trong Q LĐ, xun suốt cơng trình, tác giả dựa trên nguyên tắc
đảm bảo cân bằng lợi ích giữa NSDLĐ và NLĐ.


2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ là một vấn đề quan trọng và mang tính
cấp thiết ở giai đoạn hiện nay. Tuy bí mật kinh doanh là một trong những đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp nhưng tác giả không nghiên cứu đề tài này ở góc độ
của Luật Sở hữu trí tuệ (sau đây viết tắt là Luật SHTT) mà nghiên cứu nó dưới góc
độ của pháp luật lao động. Mặc dù vậy, hiện tại vẫn có nhiều cơng trình nghiên cứu
có liên quan giúp tác giả có một góc nhìn tổng qt hơn về vấn đề này. Mỗi cơng
trình nghiên cứu sẽ có những cách nhìn nhận, đánh giá cũng như có đối tượng,
phạm vi và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến một số cơng trình
tiêu biểu như sau:
Đề tài thứ nhất, Phạm Thị Nhung (2017), Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong
quan hệ lao động tại một số quốc gia – kinh nghiệm đối với Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. HCM. Trong đề tài này, tác giả đã khái
quát về bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ, đồng thời nghiên cứu quy định của
một số quốc gia khác về vấn đề này, từ đó đúc kết thành các kinh nghiệm và đưa ra
các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ
được định nghĩa và đặc điểm của bí mật kinh doanh trong QHLĐ, cịn phụ thuộc
nhiều vào định nghĩa bí mật kinh doanh trong Luật SHTT mà định nghĩa này lại có
nội hàm khá hẹp. Do đó, những giải pháp kiến nghị mà tác giả đưa ra cịn mang tính
chung chung, chưa phát huy được hiệu quả.
Đề tài thứ hai, Nguyễn Hoàng Yến (2013), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
pháp luật lao động, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. HCM.
Đề tài nghiên cứu các vấn đề về cạnh tranh trong pháp luật lao động, thực trạng
cũng như một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật. Tác giả đã tập trung
nghiên cứu về các biện pháp nhằm hạn chế cạnh tranh trong Q LĐ đối với một số
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ.
Đề tài thứ ba, Ung Thị Kim Liên (2020), Pháp luật về thỏa thuận không cạnh
tranh trong lĩnh vực lao động, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM.
Đề tài trên đã khái quát pháp luật về thỏa thuận không cạnh tranh trong lĩnh vực lao

động, liên hệ với kinh nghiệm của một số quốc gia châu khác. Đồng thời, tác giả
đề tài cũng đã phân tích cụ thể thực trạng thơng qua các bản án có liên quan và đưa
ra hướng hoàn thiện đối với pháp luật về thỏa thuận không cạnh tranh trong lĩnh
vực lao động tại Việt Nam. Tài liệu trên là một trong những nguồn tham khảo thực
tiễn xét xử có giá trị đối với Khóa luận này.


3

Ngồi ra, có thể kể đến một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: Bài
viết “Nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động” của hai tác giả
Lê Thị Thúy ương – Nguyễn Hồ Bích Hằng đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý
số 6(91), năm 2015 đã phân tích các quy định của pháp luật về bí mật kinh doanh
trong Q LĐ và đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả các nghĩa vụ
này trên thực tế; Bài viết “Thỏa thuận không cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng
lao động – kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam” của các tác giả Đỗ Văn Đại
và Lê Ngọc Anh đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, Trường Đại học
Luật TP. HCM, số 09(130), năm 2019 đặt ra sự cần thiết phải ghi nhận thỏa thuận
không cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng lao động tại Việt Nam, đây là một tài
liệu có giá trị tham khảo cho tác giả khi nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật nước
ngoài về vấn đề này.
Nhìn chung, mỗi cơng trình nghiên cứu đều có những hướng đi, cách nhìn nhận
và đánh giá vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có liên quan ít nhiều đến đề tài
“Bảo vệ bí mật kinh doanh trong pháp luật lao động” của tác giả. Do vậy, để
hoàn thiện và làm sáng rõ hơn các khía cạnh mà những cơng trình nghiên cứu trước
đó chưa đề cập, tác giả sẽ tiếp tục đi sâu vào phân tích thực trạng của vấn đề, chỉ ra
những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Thơng qua đề tài này, trước hết, tác giả mong muốn làm rõ được các vấn đề lý

luận và pháp lý về bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ. Tiếp theo, khóa luận sẽ
phân tích thực trạng của pháp luật về vấn đề này, chỉ ra những điểm hạn chế, bất
cập của pháp luật và những vướng mắc tồn tại trong thực tế thực hiện. Ngoài ra, tác
giả cũng nghiên cứu thêm kinh nghiệm của nước ngoài điều chỉnh về vấn đề này để
đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ bí mật kinh doanh
trong Q LĐ.
Với những đóng góp của đề tài, khóa luận cũng có thể trở thành tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập ở các cơ sở đào tạo luật. Bên cạnh đó,
những kiến nghị của khóa luận có thể là nguồn tham khảo cho các nhà lập pháp xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong tương lai.


4

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Khóa luận lựa chọn các đối tượng nghiên cứu
như sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật liên quan
về bí mật kinh doanh trong Q LĐ và bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ;
Thứ hai, quy định về bí mật kinh doanh trong Q LĐ và bảo vệ bí mật kinh
doanh trong quan hệ lao động của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Liên Bang Nga
Cộng hòa Liên Bang Đức và Cộng hòa Indonesia;
Thứ ba, thực trạng bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ thơng qua các vụ việc
có liên quan trên thực tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Như đã đề cập, bí mật kinh doanh là một trong những đối tượng của quyền sở
hữu cơng nghiệp và nó xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: sở hữu trí tuệ,
lao động, cạnh tranh,... Tuy nhiên, trong phạm vi Khóa luận này, tác giả chỉ nghiên
cứu vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ. Các quy định pháp luật chủ yếu

được nghiên cứu là các quy định trong pháp luật lao động Việt Nam, pháp luật khác
có liên quan và các quy định pháp luật của một số quốc gia được lựa chọn để tham
khảo là Hoa Kỳ, Liên Bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hịa Indonesia.
Theo đó, đề tài này tập trung nghiên cứu các khía cạnh về lý luận, pháp lý và thực
tiễn đối với vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ, giới hạn trong phạm vi
pháp luật Việt Nam, pháp luật của một số quốc gia kể trên và pháp luật quốc tế có
liên quan đến bí mật kinh doanh và bảo vệ bí mật kinh doanh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cũng như phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể, tác giả đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng trong tồn bộ hai chương của khóa
luận. Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích định nghĩa, đặc
điểm của bí mật kinh doanh trong Q LĐ, sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh
doanh trong Q LĐ và các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về vấn đề
này. Ở Chương 2, phương pháp phân tích được tác giả sử dụng kết hợp với phương
pháp chứng minh để làm rõ thực trạng bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ, đồng
thời phân tích những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề này, từ đó


5

kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng để so sánh quy định của pháp luật
lao động Việt Nam với quy định của pháp luật một số quốc gia khác về nội dung bí
mật kinh doanh và vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ.
- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng trong tồn bộ khóa luận. Trên cơ
sở các tài liệu đã phân tích, so sánh, tác giả sử dụng phương pháp này để tổng hợp,
khái quát lại những vấn đề đã nêu ra, làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị

nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
6. Bố cục của đề tài:
Nội dung khóa luận có kết cấu bao gồm hai chương:
Chƣơng 1: Các vấn đề lý luận và pháp lý về bảo vệ bí mật kinh doanh trong
quan hệ lao động;
Chƣơng 2: Thực trạng bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động và một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Ngồi ra, khóa luận cịn có lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
một số phụ lục kèm theo.


6

C ƢƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG
1.1. Bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động:
Ngày nay, nhìn một cách tổng quan, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bí mật
kinh doanh nói riêng khơng cịn là những khái niệm q mới mẻ. Chính nhờ những
ưu thế nhất định mà bí mật kinh doanh đem lại cho chủ sở hữu những lợi thế thương
mại đáng kể. Theo đó, việc nghiên cứu về sự tác động của bí mật kinh doanh trong
phạm vi doanh nghiệp cũng như trong tổng thể nền kinh tế đang ngày càng được
chú trọng phát triển, đặc biệt là trong Q LĐ. Ở phạm vi tiểu mục này, tác giả sẽ đi
vào phân tích những khía cạnh cơ bản có liên quan để từ đó mở ra một góc nhìn
tồn diện và chính xác nhất về bí mật kinh doanh trong Q LĐ.
1.1.1. Khái niệm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động:
Đối với khái niệm bí mật kinh doanh trong Q LĐ, pháp luật lao động khơng có
quy định cụ thể nên việc xác định nội hàm của khái niệm này phải dựa vào các quy
định của pháp luật có liên quan. Thuật ngữ “bí mật kinh doanh” hiện được quy định
tại khoản 23 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009: “Bí
mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa

được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Đây được xem là một yếu
tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, để một thơng tin được xem là bí mật kinh doanh và được bảo hộ thì thơng tin
đó phải đáp ứng ba điều kiện sau: (i) không phải là hiểu biết thông thường và khơng
dễ dàng có được; (ii) khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ
bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc khơng sử dụng bí mật
kinh doanh đó và (iii) được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí
mật kinh doanh đó khơng bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được1. Thêm vào đó,
căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 6 Luật SHTT năm 2005, quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một
cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.
Theo đó, bí mật kinh doanh mặc nhiên được bảo hộ mà không cần phải đăng ký, chỉ
cần đáp ứng được hai điều kiện: (i) có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp
và (ii) thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

1

Điều 84 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;


7

Liên quan đến phạm trù này, pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia
khác cũng đưa ra một số khái niệm tương đồng nhưng có phạm trù rộng hơn:
- Bí mật thương mại:
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), bí mật thương mại là “bất kỳ thơng
tin bí mật thương mại nào cung cấp cho doanh nghiệp một ưu thế cạnh tranh”, nó
bao gồm bí mật sản xuất, bí mật cơng nghiệp hoặc bí mật kinh doanh2. Theo khái
niệm này thì bí mật kinh doanh chỉ là một phần của bí mật thương mại.
Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới cũng quy định khá chi tiết về vấn đề

này. Theo pháp luật Hoa Kỳ, bí mật thương mại là “thơng tin, bao gồm cơng thức,
mẫu, biên soạn, chương trình, thiết bị, phương pháp, kỹ thuật hoặc quy trình, mà:
(i) có giá trị kinh tế độc lập, thực tế hoặc tiềm năng, chưa được biết đến rộng rãi và
chưa được xác định bằng các phương tiện phù hợp bởi những người khác có thể có
được giá trị kinh tế từ việc tiết lộ hoặc sử dụng; và (ii) chịu những nỗ lực hợp lý để
duy trì bí mật”3. Ngồi ra, Luật Bảo vệ Bí mật thương mại Hoa Kỳ cũng đưa ra
định nghĩa bí mật thương mại như sau: “tất cả các hình thức và các loại thơng tin
tài chính thương mại, khoa học, kỹ thuật, kinh tế bao gồm các mô hình, đồ án, tác
phẩm, bưu phẩm, biên soạn, thiết bị chương trình, cơng thức, thiết kế ngun mẫu,
phương pháp, kỹ thuật, quy trình, chương trình hoặc mật mã dù hữu hình hay vơ
hình được lưu trữ, soạn thảo hay ghi lại cụ thể dưới dạng điện tử, đồ họa, hình ảnh
hoặc bằng văn bản; (A) chủ sở hữu của nó đã có biện pháp hợp lý để giữ bí mật
thơng tin đó; và (B) thơng tin có được giá trị kinh tế độc lập, thực tế hoặc tiềm
năng, không được công bố rộng rãi và không thể dễ dàng xác định bằng các
phương tiện phù hợp”4. Theo tác giả, quy định về bí mật thương mại theo pháp luật
Hoa Kỳ là một quy định tiến bộ và khá chi tiết mặc dù nó chưa thể bao hàm tất cả
các lĩnh vực thuộc về bí mật thương mại cũng như tất cả các phương diện nhưng
việc quy định như vậy rất rõ ràng và có thể áp dụng ngay vào thực tiễn.
Không chỉ trong pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Liên Bang Nga cũng đã giải thích
bí mật thương mại là “thông tin khoa học kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tài chính
kinh tế hoặc những thơng tin khác bao gồm cả bí quyết sản xuất, đó là kết quả của

2

Phạm Thị Nhung (2017), Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong QHLĐ tại một số quốc gia – kinh nghiệm

đối với Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr. 5;
3
Mục 1(4) Uniform Trade Secrets Act – UTSA (1985);
4


Mục 2(b)(1) Defend Trade Secrets Act – DTSA (2016);


8

hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, những thông tin về phương
pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, có giá trị thương mại, được chủ sở
hữu bảo mật ngăn không cho bên thứ ba biết đến”5.
Ngồi ra, thuật ngữ bí mật thương mại còn được sử dụng phổ biến ở Cộng hòa
Liên bang Đức. Tuy nhiên, hiện nay ở Cộng hòa Liên bang Đức chưa có văn bản
luật nào đưa ra định nghĩa về bí mật thương mại. Để hiểu thế nào là bí mật thương
mại, ta phải dựa vào định nghĩa trong các điều ước quốc tế hay các phán quyết của
Tòa án. Chính vì lẽ đó mà ở Đức tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về bí mật
thương mại.
Tịa án Hiến pháp Liên bang Đức định nghĩa bí mật thương mại là tất cả các sự
kiện, hoàn cảnh, chương trình có liên quan đến một cơng ty, đó khơng phải là
những hiểu biết thơng thường và chỉ có một số chủ thể nhất định biết được. Về cơ
bản, bí mật thương mại bao gồm bản vẽ thi công, quy trình sản xuất, tài liệu tính
tốn, hợp đồng, danh sách khách hàng6. Cụm từ “hiểu biết thơng thường” được Tịa
án giải thích theo nghĩa rộng. Một thơng tin được coi là hiểu biết thơng thường nếu
nó được biết đến một cách dễ dàng mà không cần đến bất kỳ nỗ lực đặc biệt nào.
Một bí mật thương mại sẽ khơng được bảo hộ nữa nếu nó khơng cịn tính bí mật.
Thêm vào đó, Tịa án Lao động vùng Rhineland – Palatinate cũng định nghĩa bí mật
thương mại là những yếu tố kỹ thuật theo nghĩa rộng nhất, bao gồm: doanh thu, lợi
nhuận và thiệt hại, sổ sách nội bộ, danh sách khách hàng, nguồn cung cấp, điều
kiện, chiến lược thị trường, tài liệu tín dụng, tài liệu tính tốn, sự ứng dụng sáng
chế, dự án nghiên cứu và phát triển khác có thể quyết định đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp7. Thơng qua hai định nghĩa trên, có thể nhận thấy rằng định nghĩa
bí mật thương mại ở Cộng hòa Liên bang Đức được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm

tất cả các thông tin trong lĩnh vực kinh doanh và trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật.
- Thông tin bí mật:
Thuật ngữ này được quy định trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) và Hiệp định thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã đưa ra khái
niệm về thuật ngữ này tại khoản 1 Điều 2 Chương như sau: “Thơng tin bí mật

5
6
7

Khoản 2 Điều 3 Luật Bí mật thương mại của Liên Bang Nga năm 2004;
Phạm Thị Nhung, tlđd (2), tr. 26;
Phạm Thị Nhung, tlđd (2) tr. 26;


9

bao gồm bí mật thương mại, thơng tin đặc quyền và thông tin không bị tiết lộ khác
chưa trở thành đối tượng phải bị tiết lộ công khai không hạn chế theo pháp luật
quốc gia của bên liên quan”. Theo đó, thơng tin bí mật là thuật ngữ có nội hàm
rộng, bao hàm cả thuật ngữ bí mật thương mại, dùng để chỉ tất cả các thông tin chưa
bị công khai, tiết lộ.
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy, dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng nội
hàm của các tên gọi này đều dùng để chỉ những thông tin bí mật được sử dụng trong
kinh doanh. Khi so sánh các định nghĩa trên với định nghĩa bí mật kinh doanh trong
pháp luật Việt Nam theo quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 được
sửa đổi, bổ sung năm 2009, tác giả nhận thấy định nghĩa bí mật kinh doanh theo
pháp luật Việt Nam cịn khá chung chung, chưa rõ ràng. Tính đến thời điểm hiện
tại, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật SHTT năm 2005 cũng khơng có giải thích

gì thêm về khái niệm trên. Điều này càng làm tăng thêm tính chất mơ hồ, không rõ
ràng của một khái niệm quan trọng. Song đó, các điều kiện để một thơng tin được
xem là bí mật kinh doanh theo quy định của các nước lại có nhiều điểm tương đồng,
cụ thể là: (i) khơng được nhiều người biết đến; (ii) hữu ích cho hoạt động kinh
doanh và (iii) được giữ bí mật. Tuy vậy, khác với pháp luật Việt Nam, khi nêu ra
các điều kiện trên thì pháp luật của các nước này đã giải thích và liệt kê phạm vi
thơng tin bí mật theo nghĩa rộng, bao gồm cả thông tin trong lĩnh vực kinh doanh và
khoa học, kỹ thuật8.
Theo như những phân tích trên, tác giả chỉ mới làm rõ được định nghĩa bí mật
kinh doanh theo Luật SHTT mà chưa đề cập đến định nghĩa bí mật kinh doanh
trong Q LĐ. Hiện nay, định nghĩa này vẫn chưa được Bộ luật Lao động năm 2019
(sau đây viết tắt là BLLĐ 2019) quy định cụ thể. Nếu chỉ sử dụng định nghĩa bí mật
kinh doanh theo quy định của Luật SHTT thì sẽ dẫn đến trường hợp định nghĩa này
bị hiểu theo nghĩa hẹp. Cụ thể, theo khoản 23 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 được
sửa đổi, bổ sung năm 2009, bí mật kinh doanh được giới hạn chỉ là những thông tin
thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử
dụng trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong Q LĐ, có những thơng tin bí mật khơng
thỏa mãn được tất cả những tiêu chí theo như định nghĩa trên nhưng vẫn là những
thơng tin quan trọng và được NSDLĐ xem đó là bí mật kinh doanh cần phải được
bảo vệ. Theo đó, những thơng tin nào được coi là bí mật và cần phải được bảo vệ sẽ
8

Phạm Thị Nhung, tlđd (2), tr.7;


10

phụ thuộc vào ý chí của NSDLĐ. Mặc dù Q LĐ vẫn có tính chất bình đẳng như
những quan hệ dân sự khác nhưng sự bình đẳng này chỉ mang tính tương đối, nhất
là ở thời điểm NLĐ đang cần tìm việc nên họ buộc phải đồng ý với thỏa thuận bảo

mật mà NSDLĐ đưa ra. Thêm nữa, NSDLĐ là chủ sở hữu bí mật kinh doanh và
cũng là người hưởng lợi trực tiếp từ việc khai thác những bí mật kinh doanh đó nên
họ sẽ dùng mọi biện pháp để bảo vệ bí mật kinh doanh cũng như bảo đảm lợi ích
của mình. Do đó, khái niệm bí mật kinh doanh trong Q LĐ không đồng nhất với
khái niệm bí mật kinh doanh theo Luật SHTT mà rộng hơn rất nhiều, phạm vi
những thơng tin bí mật mà NSDLĐ cần được bảo vệ cũng rộng hơn nhiều. Lúc này,
nếu pháp luật lao động khơng có quy định cụ thể thế nào là bí mật kinh doanh thì
việc hiểu nội hàm của khái niệm này theo Luật SHTT là quá hẹp, chưa bảo vệ được
quyền lợi của NSDLĐ. Còn nếu để NSDLĐ quy định cụ thể thế nào là bí mật kinh
doanh thì có thể dẫn đến hệ quả là họ “mở rộng” nội hàm của khái niệm này quá
mức, từ đó xây dựng những điều khoản có lợi cho mình nhưng lại chèn ép NLĐ.
Nói tóm lại, theo tác giả, bí mật kinh doanh trong Q LĐ là những thông tin
trong lĩnh vực kinh doanh, khoa học và công nghệ, bao gồm: danh sách khách hàng,
chiến lược thị trường, tài liệu tính tốn, bí quyết kỹ thuật, bản vẽ thi công và các
thông tin khác thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ
nhưng có khả năng sử dụng trong kinh doanh và được phát sinh từ quan hệ thuê
mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ và NSDLĐ.
1.1.2. Đặc điểm của bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động:
Khác với những tài sản hữu hình khác, bí mật kinh doanh là một loại tài sản trí
tuệ vơ hình, tồn tại dưới dạng thông tin, được chủ sở hữu đầu tư cả về trí tuệ và tài
chính. Đây là một loại tài sản đặc biệt vì nó có ý nghĩa to lớn đối với chủ sở hữu,
cho phép chủ sở hữu có được những ưu thế nhất định trong hoạt động kinh doanh
mà các chủ thể khác khơng thể có được. Cụ thể, bí mật kinh doanh trong Q LĐ có
những đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, bí mật kinh doanh là các thơng tin bí mật về kinh doanh nói chung
mà NLĐ có được, biết được khi làm việc cho NSDLĐ mà khi nó bị tiết lộ hoặc
được sử dụng khơng đúng mục đích có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của
NSDLĐ.
Để một thông tin được xem là bí mật kinh doanh và được bảo hộ theo pháp luật
Việt Nam, điều kiện tiên quyết là thơng tin đó phải đáp ứng hai tiêu chí: (i) khơng

phải là hiểu biết thơng thường và (ii) khơng dễ dàng có được. Theo đó, để có được


11

những thông tin này, chủ sở hữu phải đầu tư rất nhiều cả về trí tuệ lẫn tài chính. Tuy
nhiên, tính bí mật của bí mật kinh doanh trong Q LĐ chỉ là tương đối vì NLĐ có
thể có được, biết được nó khi làm việc cho NSDLĐ. Cụ thể, trong các quan hệ khác,
đa phần chỉ có chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc những người được chủ sở hữu
trao quyền mới có thơng tin về bí mật kinh doanh. Cịn trong Q LĐ, để trở thành
một bí mật kinh doanh thì thơng tin này cần phải được biết đến bởi cả hai bên,
NSDLĐ phải cung cấp các thơng tin thuộc bí mật kinh doanh có liên quan đến cơng
việc của NLĐ cho họ biết9, vì nếu khơng có các thơng tin này thì NLĐ khơng thể
thực hiện được các cơng việc mà NSDLĐ giao phó. Mặt khác, khơng phải mối
Q LĐ nào cũng sử dụng bí mật kinh doanh và khơng phải tính chất cơng việc nào
cũng địi hỏi NLĐ phải biết đến bí mật kinh doanh. Do đó, bí mật kinh doanh trong
Q LĐ chỉ phát sinh trong một số lĩnh vực nhất định và với những NLĐ làm việc ở
những vị trí nhất định10.
Bên cạnh đó, những thơng tin bí mật rất dễ bị tiết lộ hoặc được sử dụng khơng
đúng mục đích và khi đó, lợi ích kinh tế của NSDLĐ có thể bị ảnh hưởng. Như vừa
phân tích, bí mật kinh doanh tồn tại dưới dạng thơng tin và những thơng tin bí mật
này sẽ mang đến cho người nắm giữ nó có được những ưu thế nhất định so với
người không nắm giữ hoặc khơng sử dụng nó. Có thể nói, bí mật kinh doanh là tài
sản quan trọng bậc nhất đối với NSDLĐ trong kinh doanh – họ đã phải đầu tư
nguồn nhân lực và tài chính để có được chúng một cách hợp pháp nhằm duy trì lợi
ích kinh tế và lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường. Tuy nhiên, chính vì tính
vơ hình và mang giá trị kinh tế cao của những thơng tin này mà bí mật kinh doanh
của doanh nghiệp rất dễ bị mất đi do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến
nguyên nhân do NLĐ tiết lộ cho bên thứ ba trong quá trình làm việc tại doanh
nghiệp hoặc sau khi họ chấm dứt Q LĐ và chuyển sang làm việc cho doanh nghiệp

đối thủ hoặc NLĐ tự thành lập doanh nghiệp cạnh tranh với doanh nghiệp cũ. Lúc
này, lợi ích kinh tế của NSDLĐ khơng chỉ bị ảnh hưởng mà thậm chí NSDLĐ cịn
có thể đánh mất ln vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường và dần dần sụp đổ.
Thứ hai, phạm vi và nội dung bảo mật do NSDLĐ quyết định.
Theo Luật SHTT, bí mật kinh doanh được giới hạn chỉ là những thông tin thu
được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng
9

Khoản 1 Điều 16 BLLĐ 2019;

10

Khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019;


12

trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong Q LĐ, có những thơng tin khơng thỏa mãn đủ
hết những tiêu chí theo như khái niệm trên nhưng vẫn là những thông tin quan trọng
và được NSDLĐ xem đó là bí mật kinh doanh cần phải được bảo vệ. Theo đó, nếu
NSDLĐ và NLĐ có thỏa thuận về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong Q LĐ thì
những thơng tin mà NLĐ cần phải bảo vệ trên thực tế sẽ không chỉ nằm gói gọn
trong phạm vi những thơng tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa
được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh theo như định nghĩa trong
Luật SHTT mà có thể bao gồm nhiều thơng tin bí mật khác nữa, ví dụ như: danh
sách khách hàng, chiến lược thị trường, tài liệu tính tốn, bí quyết kỹ thuật, bản vẽ
thi cơng,... Ở đây, có thể hiểu, xuất phát từ vị thế không ngang nhau trong Q LĐ
cũng như tầm quan trọng của bí mật kinh doanh đối với lợi ích của NSDLĐ mà họ
luôn là chủ thể quyết định đối với phạm vi và nội dung bảo mật bí mật kinh doanh.
Thứ ba, trong QHLĐ, nghĩa vụ bảo mật thuộc về NLĐ.

Không giống với các quan hệ khác, trong Q LĐ, biện pháp mà NSDLĐ dùng để
bảo vệ những thông tin bí mật của mình rất khác biệt. Trong các quan hệ khác, chủ
sở hữu sẽ sử dụng những biện pháp nhằm khơng để cho người khác biết đến bí mật
kinh doanh của họ. Cịn trong Q LĐ, tính bí mật của bí mật kinh doanh chỉ là
tương đối, cả NSDLĐ và NLĐ đều biết đến bí mật kinh doanh nên biện pháp được
sử dụng lúc này là quy định trách nhiệm bảo mật cho NLĐ nhằm ngăn chặn bên thứ
ba biết đến bí mật kinh doanh của NSDLĐ.
Thêm nữa, NSDLĐ là chủ sở hữu bí mật kinh doanh, cịn NLĐ là người làm việc
cho NSDLĐ theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát
của NSDLĐ11. Do đó, để thực hiện được các cơng việc mà NSDLĐ giao phó có liên
quan đến bí mật kinh doanh, NLĐ phải được biết về những thông tin bí mật đó.
Nhưng để bảo vệ bí mật kinh doanh, hạn chế hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh,
NLĐ thường sẽ xác định rõ nghĩa vụ bảo mật thuộc về NLĐ ngay từ đầu. Cụ thể là
ngay từ khi giao kết hợp đồng, NSDLĐ phải cung cấp thông tin trung thực cho
NLĐ quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ12. Khi NLĐ làm việc
có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ theo quy định của
pháp luật thì NSDLĐ có quyền thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về nội dung, thời
hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong
11

Khoản 1 Điều 3 BLLĐ 2019;

12

Khoản 1 Điều 16 BLLĐ 2019;


13

trường hợp vi phạm13. Theo đó, khơng phải tất cả NLĐ đều có liên quan trực tiếp

đến bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ mà chỉ những NLĐ cấp cao hoặc những
NLĐ làm việc tại một bộ phận đặc biệt nào đó mới được tiếp xúc với bí mật kinh
doanh, bí mật cơng nghệ. Nếu NSDLĐ bắt buộc tất cả NLĐ của mình phải thỏa
thuận bằng văn bản về việc bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ thì đây là
một quy định khơng hợp lý và có biểu hiện “lạm quyền”. Đặc biệt, trong nhiều
trường hợp, mặc dù không cần thiết nhưng NSDLĐ vẫn áp dụng thỏa thuận không
cạnh tranh, gây thiệt hại đáng kể cho NLĐ, nhất là lực lượng lao động phổ thông
(chẳng hạn như cơng nhân) – những người này thường khơng có hoặc có rất ít
quyền thương lượng với NSDLĐ và cơng việc luôn quan trọng đối với họ. Đồng
thời, những NLĐ này thường khơng có đủ điều kiện để tiếp cận tư vấn pháp lý, từ
đó, họ dễ dàng ký kết những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây bất lợi cho họ.
Chính vì vậy, mặc dù trong Q LĐ, nghĩa vụ bảo mật thuộc về NLĐ nhưng chỉ khi
NLĐ đó được tiếp xúc trực tiếp cũng như được nắm giữ bí mật kinh doanh, bí mật
cơng nghệ của doanh nghiệp thì NSDLĐ mới có thể thỏa thuận với họ về việc bảo
vệ bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ.
Thứ tư, các biện pháp bảo mật chủ yếu mà NSDLĐ thường áp dụng là: (i)
Thỏa thuận với NLĐ; (ii) Quy định trong Nội quy lao động; (iii) Áp dụng các
hình thức xử lý kỷ luật đối với NLĐ vi phạm; (iv) Áp dụng các biện pháp dân sự;
(v) Áp dụng các biện pháp hành chính và (vi) Áp dụng biện pháp hình sự.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt, một khi bí
mật kinh doanh của doanh nghiệp bị tiết lộ thì nó sẽ dẫn đến nguy cơ sụp đổ rất lớn
cho doanh nghiệp. Bởi lẽ, bí mật kinh doanh càng độc đáo, càng mang tính chất độc
quyền thì lợi thế cạnh tranh của người nắm giữ bí mật đó càng được nâng cao, nếu
các bí mật đó bị lộ thì doanh nghiệp sẽ đánh mất cơ hội cạnh tranh trên thị trường.
Vậy nên, trong Q LĐ, NSDLĐ phải có những biện pháp hiệu quả để đảm bảo các
thơng tin bí mật của mình không bị tiết lộ hay đánh cắp.
Để ngăn ngừa các nguy cơ trên, đồng thời nâng cao tính bảo mật của các thơng
tin bí mật, bảo vệ những lợi ích kinh tế của mình, NSDLĐ thường thơng qua các
cách sau: (i) Thỏa thuận với NLĐ, (ii) Quy định trong Nội quy lao động; (iii) Áp
dụng các hình thức xử lý kỷ luật đối với NLĐ vi phạm; (iv) Áp dụng các biện pháp

dân sự; (v) Áp dụng các biện pháp hành chính và (vi) Áp dụng biện pháp hình sự.
13

Khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019;


14

Trong đó, khi thỏa thuận với NLĐ, nội dung chính của các thỏa thuận này là việc
NSDLĐ yêu cầu NLĐ khơng được tiết lộ bí mật kinh doanh hoặc cao hơn là không
được làm việc cho đối thủ cạnh tranh sau khi kết thúc hợp đồng lao động với mình
nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ NLĐ tiết lộ bí mật kinh doanh trong quá trình
làm việc cho doanh nghiệp đối thủ, từ đó gây bất lợi cho NSDLĐ.
1.2. Bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động:
1.2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động:
Thứ nhất, bí mật kinh doanh là những “tài sản” có ý nghĩa to lớn, đóng vai trò
quyết định đối với sự “tồn vong” của một doanh nghiệp.
Theo đó, tác giả khái quát tầm quan trọng của bí mật kinh doanh đối với NSDLĐ
qua hai ý chính như sau:
Một là, bí mật kinh doanh tạo ra nhiều lợi thế thương mại cho chủ sở hữu. Bí mật
kinh doanh là một trong những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, đóng vai trị vơ
cùng quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển của doanh nghiệp.
Hai là, bí mật kinh doanh được bảo hộ lâu dài tạo nên có tính cạnh tranh và tính
độc quyền cao. Khác với những tài sản trí tuệ khác, bí mật kinh doanh được bảo hộ
theo cơ chế tự động khi thỏa mãn các điều kiện luật định mà không cần phải tiến
hành đăng ký. Thời hạn bảo hộ cũng không bị hạn chế, tức là khi nào thông tin bí
mật cịn đáp ứng các điều kiện luật định thì thơng tin đó cịn được bảo hộ. Chính vì
sự đơn giản và dễ dàng trong thủ tục bảo hộ bí mật kinh doanh mà NSDLĐ thường
chọn bảo hộ những thông tin, kiến thức mang tính nhạy cảm như quy trình sản xuất,
cơng thức chế tạo sản phẩm,... dưới hình thức bảo hộ bí mật kinh doanh.

Thứ hai, khi NLĐ làm việc cho NSDLĐ, họ có khả năng biết được, sử dụng
được hoặc thậm chí tạo ra những thơng tin thuộc phạm trù bí mật kinh doanh.
Ngày nay, khoa học – kỹ thuật ngày càng phát triển, việc bảo vệ bí mật kinh
doanh ngày càng trở nên khó khăn, nguy cơ các thơng tin bí mật bị tiết lộ cũng ngày
càng cao. Đặc biệt, trong Q LĐ, tính bí mật của bí mật kinh doanh chỉ là tương
đối, NLĐ có khả năng biết được, sử dụng được hoặc thậm chí tạo ra những thơng
tin thuộc phạm trù bí mật kinh doanh để có thể thực hiện được cơng việc mà
NSDLĐ giao phó. Do đó, NLĐ rất có thể sẽ bị doanh nghiệp đối thủ lôi kéo, xúi
giục làm gián điệp kinh tế, đánh cắp bí mật kinh doanh của doanh nghiệp cũ hoặc tự
bản thân NLĐ đánh cắp bí mật kinh doanh đó để tiến hành cạnh tranh với doanh
nghiệp cũ. Ngồi ra, NLĐ có quyền tự do làm việc ở bất kỳ đâu và cho bất kỳ
NSDLĐ nào nên trong q trình chuyển đổi cơng việc, họ có thể mang theo những


15

thơng tin thuộc bí mật kinh doanh của NSDLĐ cũ để áp dụng ở nơi làm việc mới
hoặc khi Q LĐ chấm dứt, NLĐ có thể vẫn sẽ tiếp tục sử dụng hoặc bán các thơng
tin bí mật đó cho các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp cũ. Việc bí mật kinh
doanh bị tiết lộ sẽ gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp, thậm chí đẩy doanh
nghiệp đi đến “bờ vực” phá sản vì đánh mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Nhận
thức được vấn đề này, các doanh nghiệp đã tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức và
tiền bạc để vận dụng các biện pháp nhằm bảo vệ tốt nhất tính bảo mật cho các bí
mật kinh doanh của họ, đồng thời củng cố vị thế cạnh tranh của mình trên thị
trường. Để xử lý tốt các trường hợp gián điệp kinh tế, pháp luật cần có những quy
định thống nhất trong các đạo luật có liên quan, đặc biệt là trong BLLĐ, nếu khơng
sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn và không thể áp dụng được trên thực tiễn.
Bên cạnh đó, cịn có một vấn đề bất cập khác là nếu NLĐ ký kết thỏa thuận
khơng cạnh tranh với NSDLĐ nhưng bí mật kinh doanh đó do chính NLĐ tạo ra
trong q trình làm việc tại doanh nghiệp thì sau khi chấm dứt Q LĐ, quyền sở

hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh này sẽ được xử lý như thế nào? Ở góc độ của
Luật SHTT, vấn đề này đã được giải quyết thơng qua việc pháp luật có sự phân biệt
giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Theo đó, tác giả là người nắm giữ các
quyền nhân thân theo quy định pháp luật14. Còn chủ sở hữu quyền tác giả sẽ được
nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản theo quy định pháp luật15. Nếu
tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì ngồi các quyền nhân thân, họ cịn
được sử dụng các quyền tài sản theo quy định pháp luật; tác giả có thể chuyển giao
quyền cơng bố tác phẩm cho cá nhân khác theo quy định pháp luật16. Đối với các
đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, dù chưa có các quy định cụ thể như quyền
tác giả và quyền liên quan nhưng Luật SHTT cũng có sự phân biệt giữa tác giả tạo
ra đối tượng đó với tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác
giả dưới hình thức giao việc, thuê việc17. Qua đây, có thể thấy, vấn đề này đã được
Luật SHTT quy định rất chi tiết, thuận tiện cho việc áp dụng trên thực tế, bảo vệ
được quyền lợi của các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, ở góc độ của pháp luật lao
động, vấn đề này lại là một trở ngại rất lớn cho việc áp dụng pháp luật vì chưa có

14

Điều 19 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

15

Khoản 1 Điều 20 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Khoản 3 Điều 20 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

16
17

Khoản 1 Điều 86 Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;



16

quy định rõ ràng. Một phần là do bí mật kinh doanh được bảo hộ theo cơ chế tự
động, không cần phải thông qua một thủ tục pháp lý nào nên pháp luật chưa có sự
phân biệt giữa tác giả tạo ra bí mật kinh doanh và chủ sở hữu bí mật kinh doanh.
Điều này vơ hình trung đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ khi họ cũng
chính là chủ thể tạo ra bí mật kinh doanh. Họ là người đã nghĩ ra những thơng tin,
cách thức, bí quyết đó nên chắc chắn họ phải được quyền nắm giữ chúng. Việc ký
kết thỏa thuận không cạnh tranh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ,
không cho họ được quyền tự định đoạt đối với sản phẩm trí tuệ do chính mình tạo
ra. Tuy nhiên, việc họ nắm giữ những thơng tin bí mật này nhưng lại chuyển sang
làm việc cho một doanh nghiệp mới có cùng ngành nghề kinh doanh với doanh
nghiệp cũ thì khả năng những thông tin này bị lan truyền là rất lớn và khi đó, doanh
nghiệp cũ sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh trên thị trường, thậm chí phá sản. Lúc này,
nếu NSDLĐ khơng có các biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh ngay từ khi giao kết
hợp đồng thì quyền lợi của NSDLĐ sẽ không được đảm bảo. Đứng trước một tình
thế “tiến thối lưỡng nan” như vậy thì liệu Tòa án phải giải quyết như thế nào để có
thể cân bằng được lợi ích giữa hai bên? Chính vì vậy, pháp luật cần phải có sự phân
biệt giữa tác giả tạo ra bí mật kinh doanh và chủ sở hữu bí mật kinh doanh, phân
chia cụ thể quyền hạn giữa hai chủ thể này để bảo đảm được quyền lợi hợp pháp
cho cả hai bên, không để bên nào phải chịu thiệt thịi do pháp luật chưa có quy định
rõ ràng.
1.2.2. Quy định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh doanh
trong quan hệ lao động
Trên thực tế, trong Q LĐ, NSDLĐ có thể sử dụng rất nhiều cách thức để bảo vệ
bí mật kinh doanh của mình. Các cách thức đó bao gồm: (i) Thỏa thuận với NLĐ;
(ii) Quy định trong Nội quy lao động; (iii) Áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật đối
với NLĐ vi phạm; (iv) Áp dụng các biện pháp dân sự; (v) Áp dụng các biện pháp
hành chính và (vi) Áp dụng biện pháp hình sự.

hứ nhất, thỏa thuận với người lao động:
Hiện nay, các quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong Q LĐ đã được cụ thể hóa hơn nhiều so với giai đoạn trước. BLLĐ 2019
không trực tiếp nhắc đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động
nhưng trong Bộ luật này đã xuất hiện một quy định ghi nhận việc cho phép NSDLĐ
và NLĐ được thiết lập một thỏa thuận nhằm bảo vệ những bí mật kinh doanh, bí
mật cơng nghệ của NSDLĐ. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019 quy định:


17

“Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật
cơng nghệ theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động có quyền thỏa
thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh
doanh, bảo vệ bí mật cơng nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp vi
phạm”. Quy định này được hiểu là cho phép NSDLĐ và NLĐ thực hiện một thỏa
thuận để bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ cũng như đảm bảo các quyền
lợi hợp pháp của NSDLĐ. Đồng thời, quy định này cũng cho phép NSDLĐ đặt ra
cơ chế bảo đảm việc thực thi thỏa thuận bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại khi
NLĐ vi phạm. Quy định trên cho thấy không phải tất cả NLĐ đều phải thỏa thuận
bằng văn bản với NSDLĐ về việc bảo vệ bí mật kinh doanh mà chỉ những NLĐ nào
làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ theo quy
định của pháp luật mới phải thỏa thuận.
Quy định tại khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019 đã được hướng dẫn chi tiết tại Điều 4
Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBX của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
ngày 12 tháng 11 năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Bộ luật Lao động về nội dung của hợp đồng lao động, hội đồng thương lượng tập
thể và nghề, cơng việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản, nuôi con (sau đây
viết tắt là Thơng tư số 10/2020/TT-BLĐTBX ). Theo đó, thỏa thuận về bảo vệ bí
mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ khơng chỉ được nhắc đến mà cịn được liệt kê

những nội dung chủ yếu bao gồm: danh mục; phạm vi sử dụng; thời hạn bảo vệ;
phương thức bảo vệ; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của NLĐ, NSDLĐ trong thời
hạn bảo vệ; xử lý vi phạm thỏa thuận bảo vệ18. Khi phát hiện NLĐ vi phạm thỏa
thuận bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ thì NSDLĐ có quyền yêu cầu
NLĐ bồi thường theo thỏa thuận của hai bên19. Một điểm tiến bộ của BLLĐ 2019
so với BLLĐ 2012 là Bộ luật này đã phân chia trình tự, thủ tục xử lý bồi thường
thành hai trường hợp: (i) trường hợp phát hiện NLĐ có hành vi vi phạm trong thời
hạn thực hiện hợp đồng lao động và (ii) trường hợp phát hiện NLĐ có hành vi vi
phạm sau khi chấm dứt hợp đồng lao động. Ở trường hợp (i), trình tự, thủ tục xử lý
việc bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 2 Điều 130 BLLĐ 2019 do trong
thời gian này, NLĐ và NSDLĐ vẫn còn tồn tại Q LĐ nên quan hệ này phải chịu sự
điều chỉnh của luật chuyên ngành là BLLĐ. Còn ở trường hợp (ii), sau khi chấm dứt
18

Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBX ;

19

Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBX ;


18

hợp đồng lao động, giữa hai bên khơng cịn tồn tại Q LĐ nên lúc này, không thể áp
dụng BLLĐ để điều chỉnh mà phải theo quy định của pháp luật dân sự (luật chung)
và pháp luật khác có liên quan.
Như vừa phân tích, pháp luật lao động cho phép các bên trong Q LĐ được
quyền tự do thỏa thuận với nhau về cách thức bảo vệ bí mật kinh doanh, miễn là
thỏa thuận đó khơng trái với quy định của pháp luật và phải đảm bảo cân bằng
quyền lợi cho các bên. Tùy vào lĩnh vực hoạt động cũng như vị trí của NLĐ trong

doanh nghiệp mà nội dung của những điều khoản này sẽ khác nhau. Chức vụ của
NLĐ càng cao thì nguy cơ bí mật kinh doanh bị tiết lộ càng lớn20. Theo các cam kết
trong hợp đồng lao động thì trong thời gian làm việc cho doanh nghiệp, NLĐ phải
chấp hành những quy định do NSDLĐ đặt ra. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng
không phải là một ngoại lệ. Những ràng buộc trong thỏa thuận này có thể được
kiểm sốt dễ dàng trong q trình NLĐ còn làm việc tại doanh nghiệp nhưng sau
khi NLĐ đã chấm dứt hợp đồng lao động, việc kiểm soát này sẽ trở nên vơ cùng
khó khăn21. Bởi vì, lúc này, NLĐ được quyền tự do lựa chọn việc làm, tự do làm
việc cho bất kỳ NSDLĐ nào và ở bất kỳ nơi đâu mà pháp luật không cấm22. Do đó,
khơng loại trừ việc họ sẽ làm việc cho đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó
vơ tình hoặc cố ý tiết lộ bí mật kinh doanh. Những thơng tin bí mật mà NLĐ biết
được ln nằm trong mục tiêu khai thác của đối thủ cạnh tranh vì họ sẽ có được
nhiều lợi thế thương mại hơn khi nắm giữ được những thông tin này. Vậy nên, để
giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra do hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh của NLĐ,
NSDLĐ thường sẽ thiết lập thỏa thuận hạn chế cạnh tranh với NLĐ. Việc có một
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong một chừng mực nhất định, có thể giúp NSDLĐ
ngăn ngừa nguy cơ NLĐ tiết lộ bí mật kinh doanh của mình hoặc cạnh tranh với
mình trong quá trình làm việc cũng như sau khi chấm dứt Q LĐ.
Có thể thấy, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đặt ra những hạn chế cho NLĐ trong
việc thực hiện quyền tự do việc làm, quyền tự do kinh doanh trong q trình cịn tồn
tại Q LĐ và ngay cả sau khi Q LĐ đã chấm dứt. Mục đích chính của thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh là nhằm bảo vệ các “lợi thế thương mại” của NSDLĐ, bảo đảm

20

Holyoak & Torremans (2013), Intellectual Property Law, 7th ed., Nxb. Oxford, tr. 609;

21

Lê Thị Thúy ương, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2015), “Nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao

động”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 06(91)/2015, tr. 51;
22

Khoản 1 Điều 10 BLLĐ 2019;


19

năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường và góp phần tạo nên thành cơng cho
doanh nghiệp. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa NSDLĐ và NLĐ trong Q LĐ
tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau. Mỗi loại hình lại có một chức năng bảo vệ
khác nhau đối với quyền và lợi ích của NSDLĐ, khả năng thực thi của từng loại
cũng có sự khác biệt. Căn cứ vào nội dung của sự hạn chế, thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh giữa NSDLĐ và NLĐ trong Q LĐ chủ yếu được chia thành bốn loại sau:
thỏa thuận không cạnh tranh; thỏa thuận không tiết lộ; thỏa thuận không chào mời,
không giao dịch với khách hàng, nhà cung cấp và thỏa thuận khơng chào mời, lơi
kéo đồng nghiệp23. Giải thích khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019 theo hướng mở rộng,
với mục đích là để bảo vệ các bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ, “thỏa thuận”
được nhắc đến ở đây được hiểu là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung24. Tuy
nhiên, để đảm bảo đúng với tinh thần của điều luật, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong trường hợp này được cho là chỉ bao gồm thỏa thuận khơng tiết lộ bí mật kinh
doanh, bí mật cơng nghệ và thỏa thuận không cạnh tranh giữa NLĐ – NSDLĐ25.
Về hình thức, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được ghi nhận trong hợp
đồng lao động hoặc bằng văn bản khác theo quy định của pháp luật26. Theo đó, dù
hình thức quy định của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có như thế nào đi nữa thì nó
vẫn được xem là một phần không thể tách rời của hợp đồng lao động. Việc pháp
luật quy định hình thức của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bắt buộc phải bằng văn
bản là phù hợp vì đây là cơ sở quan trọng cho việc chứng minh chứng cứ trong
trường hợp có tranh chấp xảy ra, giúp bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên. Nội dung chính của thỏa thuận này thường là việc NSDLĐ yêu cầu NLĐ

không được thực hiện một hay một số hành vi nào đó trong hoặc sau khi chấm dứt
hợp đồng lao động trong một thời hạn nhất định. Đơn cử, nội dung thỏa thuận có
thể yêu cầu NLĐ sau khi nghỉ việc không được vào làm việc cho Công ty đối thủ
(hoạt động cùng lĩnh vực với Công ty cũ) hoặc NLĐ có thể làm cơng việc mới
nhưng khơng được đảm nhận vị trí tương ứng với vị trí ở Cơng ty cũ. Thậm chí,
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng có thể yêu cầu NLĐ sau khi chấm dứt hợp đồng
23

Nguyễn Hoàng Yến (2013), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong pháp luật lao động, Khóa luận tốt

nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr. 15;
24
Đoàn Thị Phương Diệp (2015), “Điều khoản bảo mật – hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng lao động”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 24(304) tháng 12/2015, tr. 47;
25
Nguyễn Hoàng Yến, tlđd (23), tr. 7;
26

Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBX ;


×