Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 128 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRƯƠNG THỊ THANH TUYÊT



BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội – 2011
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


TRƯƠNG THỊ THANH TUYÊT



BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh


Hà Nội – 2011
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRƯƠNG THỊ THANH TUYÊT



BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội – 2011
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


TRƯƠNG THỊ THANH TUYÊT


BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh


Hà Nội – 2011
4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
BMKD Bí mật kinh doanh
SHCN Sở hữu công nghiệp
SHTT Sở hữu trí tuệ
TRIPs Agreement on Trade –
Related Aspects of
Intellectual Property Rights
Hiệp định về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ
WTO World Trade Oganization Tổ chức thương mại thế giới




5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi loài người xuất hiện trên trái đất thì đó cũng là lúc các hoạt động
lao động sáng tạo của con người bắt đầu, và hoạt động đó không ngừng vận
động, phát triển. Từ đó đến nay chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển,
đã có nhiều phát minh, nhiều nền văn minh lớn ghi lại dấu ấn về khả năng
sáng tạo vô cùng vô tận của con người. Cũng từ lao động, từ quá trình phát
triển theo chiều hướng đi lên, con người tạo ra các sản phẩm tinh thần nhằm
thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Chúng ta gọi đó là các tài sản vô
hình và chúng ngày càng chiếm vị trí quan trọng thậm chí không thể thiếu
được trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người cũng như đối với

toàn xã hội.
Theo quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, muốn phát triển,
con người buộc phải làm theo đúng những quy luật của nó. Việc bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng như sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, … và bí mật kinh doanh là tuân
theo một trong các quy luật đó nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh
góp phần quan trọng làm thay đổi vượt bậc và căn bản mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội của nhân loại.
Khi loài người bắt đầu bước vào giai đoạn sản xuất hàng hóa thì các
thương nhân độc lập cũng bắt đầu biết tích luỹ những kinh nghiệm, những kỹ
năng sản xuất, kinh doanh của mình để tạo nên những ưu thế nhất định nhằm
cạnh tranh với những thương nhân khác. Và cũng để cạnh tranh, một trong
những quy luật của kinh tế thị trường, các thương nhân bắt buộc phải tìm tòi,
sáng tạo, nghiên cứu, tích lũy, phát triển bí quyết riêng. Điều quan trọng là
các bí quyết đó phải được giữ bí mật, không thể tiết lộ cho người khác thì mới
giữ được ưu thế trong kinh doanh. Chính những kinh nghiệm được tích lũy,
6

những kỹ năng đạt được, những bí quyết rút ra được trong quá trình sản xuất
kinh doanh đó mà được chính chủ sở hữu của chúng giữ bí mật được gọi là
“bí mật kinh doanh”.
Ban đầu thì các thương nhân tự bảo vệ bí mật kinh doanh của mình,
các bí mật đó có thể truyền từ đời này sang đời khác. Sau này do nhu cầu mở
rộng kinh doanh, do cạnh tranh ngày càng khốc liệt, hoặc do những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, việc bảo mật cho các BMKD gặp nhiều khó
khăn. Chính vì vậy, cần phải có sự góp mặt của công cụ hữu hiệu giúp các
thương nhân bảo vệ bí mật của mình, đó là pháp luật.
Nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
xuất hiện cùng với sự phát triển của giao lưu thương mại nhằm bảo vệ quyền
của chủ sở hữu đối với đối tượng sở hữu công nghiệp này. Vấn đề bảo hộ

quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh vẫn không ngừng vận
động và phát triển theo hướng mở rộng các quyền năng cho chủ sở hữu, mở
rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ. Việc bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với
bí mật kinh doanh không chỉ là vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia mà nó từ lâu
đã là vấn đề luôn mang tính toàn cầu trong bối cảnh tự do hóa, toàn cầu hóa
thương mại hiện nay.
Trên thế giới, các BMKD có thể được hình thành, phát triển và tồn tại
từ rất lâu đời nên BMKD đã được quan tâm từ sớm. Đã có nhiều điều ước
quốc tế song phương và đa phương quy định về vấn đề này như Hiệp định về
các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 1995
(TRIPS), và các hiệp định song phương như Hiệp định thương mại Việt Nam
- Hoa kỳ năm 2000… Các quốc gia hầu như đều có các quy định nhằm bảo hộ
cho BMKD đặc biệt là các nước phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Đức…
7

Còn ở Việt Nam, để hội nhập với thế giới chúng ta cũng đã quan tâm
nhiều và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh. Đây là
một trong những động lực khuyến khích và thúc đẩy sự sáng tạo trong kinh
doanh, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh từ đó nó
có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của các chủ thể đó và của cả nền kinh
tế - xã hội. Bí mật kinh doanh đang ngày càng trở thành vấn đề được quan
tâm. Một doanh nghiệp muốn phát triển phải nghĩ đến chuyện bảo vệ bí mật
kinh doanh của mình. Đã có nhiều doanh nghiệp thành công và phát triển bền
vững vì có bí mật kinh doanh quý giá của riêng mình và biết bảo mật an toàn
bí mật kinh doanh đó, một thứ vũ khí lợi hại cho sự tồn tại và phát triển trong
thương trường. Thậm chí có những doanh nghiệp tồn tại được là nhờ có được
bí quyết kinh doanh riêng của mình và coi việc giữ gìn bí quyết đó là vấn đề
sống còn của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng vai trò quan trọng
của những bí mật trong kinh doanh và nó cần được quan tâm, bảo hộ bởi
những quy định của pháp luật. BMKD cũng cần được coi trọng như một công

cụ thúc đẩy kinh tế phát triển từ phía chính các doanh nghiệp, phía nhà nước
và toàn xã hội.
Cho đến nay, qua khảo sát hạn hẹp của tác giả luận văn, sự nghiên cứu
về bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh ở Việt Nam còn
chưa được quan tâm tương xứng với vai trò của nó đối với sự phát triển chung
của nền kinh tế - xã hội. Những vấn đề về bí mật kinh doanh còn mới mẻ với
đa số các chủ thể kinh doanh và với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc quản lý. Mặt khác, khi tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy
đây là vấn đề thời sự hấp dẫn còn ẩn giấu những điều mới của một công cụ
đắc lực mà chúng ta chưa khai thác được nhiều công dụng của nó để phát
triển sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp nói riêng và trong sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước nói chung.
8

Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến BMKD
còn rất ít, hầu như không xảy ra trên thực tế, hiện tại ở Việt Nam vẫn chưa có
tranh chấp nào xảy ra về BMKD. Điều đó chứng tỏ người dân của chúng ta
nói chung cũng như các nhà kinh doanh nói riêng còn chưa quan tâm nhiều
đến đối tượng này.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn “Bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo quy định của pháp
luật Việt Nam” làm đề tài cho luận văn cao học của mình với mong muốn có
cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật trong nước về bảo hộ bí mật kinh doanh. Hy vọng rằng luận văn hoàn
thành sẽ góp phần nhỏ cho việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí
mật kinh doanh ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO
được hơn 4 năm (Việt Nam gia nhập WTO chính thức từ ngày 11/1/2007),

Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực được 5 năm ( luật này được Quốc Hội thông
qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006). Luật Sở hữu trí
tuệ đã có những quy định mới mẻ, cập nhật những quy định về xác lập quyền
sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, quyền tự bảo vệ khi có hành vi
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bí mật kinh doanh…
Là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh cũng đã được quan tâm đề cập
nghiên cứu nhiều nhưng có thể do tính mới mẻ của chúng so với các đối
tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp nên những nghiên cứu đó có thể
chỉ là các khóa luận tốt nghiệp đại học hoặc là các nghiên cứu mang tính riêng
lẻ, ở một vài khía cạnh trong các bài viết trên các tạp chí trong nước hoặc
9

được đề cập đến trong hội thảo khoa học về bí mật kinh doanh … Ví dụ như
bài viết “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật
bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Quế Anh đăng
trên tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế – Luật số
3 năm 2004, hoặc trong cuốn sách “Quyền sở hữu trí tuệ” của TS. Lê Nết nhà
xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 có dành
chương 7 để nói về bí mật kinh doanh… Trong bài viết nói trên của mình, TS.
Nguyễn Thị Quế Anh cho rằng “BMKD với tư cách là đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp là một trong những phạm trù còn ít được nghiên cứu”.
Trong mấy năm trở lại đây hầu như không có nghiên cứu nào đáng kể về đối
tượng sở hữu công nghiệp này. Do đó các khía cạnh của đối tượng vẫn chưa
được nghiên cứu một cách tổng thể, hoàn chỉnh về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo
quy định của pháp luật Việt Nam, đồng thời có sự tham khảo việc bảo hộ đối

với đối tượng này của một số nước trên thế giới.
Về mục đích nghiên cứu của luận văn, trên cơ sở kế thừa và phát triển
các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn tập trung làm rõ
những vấn đề lý luận, bản chất, nội dung của bí mật kinh doanh, vai trò, ý
nghĩa của việc bảo hộ. Muốn vậy, chúng tôi đã có sự nghiên cứu về sự hình
thành pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
trên thế giới và ở Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ cụ
thể của luận văn là:
 Tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh;
10

 Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, so sánh với các quy định của
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, từ đó chỉ ra những định
hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí
mật kinh doanh.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận:
chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền sở hữu công nghiệp; thành tựu của
triết học, các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp luật, lý luận
nhà nước và pháp luật, luật dân sự, luật sở hữu trí tuệ … và những luận điểm
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
trên các tạp chí khoa học về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử
dụng kết hợp các phương pháp sau: Phương pháp duy vật biện chứng, Phương
pháp duy vật lịch sử, Phương pháp lịch sử cụ thể, Phương pháp thống kê,
Phương pháp luật học so sánh, Phương pháp phân tích - tổng hợp, Phương

pháp điều tra xã hội học …
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến bí mật kinh doanh cùng với
việc đánh giá thực trạng bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam từ đó đưa ra
những kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao kết quả của hoạt động
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng này.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
11

Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách tổng hợp về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo quy định của Luật
sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009.
Nghiên cứu một cách hệ thống về bí mật kinh doanh với tư cách là đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ 2005.
Dựa vào việc phân tích thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh trong thời gian qua, luận văn chỉ ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
bí mật kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục những từ viết tắt, Danh mục
các tài liệu tham khảo và Mục lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3
chương với kết cấu như sau:
Chương I: Khái quát chung về bí mật kinh doanh và bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Chương II: Những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Chương III: Thực trạng hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh ở Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.



12

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÍ MẬT KINH DOANH VÀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH
1.1. Khái niệm bí mật kinh doanh và quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh
1.1.1. Khái niệm bí mật kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm
Từ xa xưa con người đã biết giữ gìn các bí quyết nghề nghiệp của
mình. Các bí quyết này chính là thế mạnh, là lợi thế để họ cạnh tranh với các
đối thủ của mình. Là người kinh doanh ai cũng có bí mật thương mại hay bí
quyết sản xuất riêng. Những bí mật hay bí quyết riêng đó đem lại lợi ích cho
chủ sở hữu của nó nên chúng không thể chia sẻ cho người khác, chúng tồn tại
dưới dạng thông tin và được bảo vệ để không bị lộ ra bên ngoài. Đơn giản là
vì nếu người khác biết được nội dung của bí quyết đó thì có nghĩa là thông tin
đó không còn bí mật, giá trị của nó hay khả năng cạnh tranh đã mất, lợi thế
trong kinh doanh đã không còn. Việc tạo ra hay có được thông tin bí mật là
rất quan trọng nhưng việc bảo mật chúng cũng quan trọng không kém. Lúc
đầu các bí quyết đó là bí mật riêng của cá nhân và được giữ gìn bởi cá nhân,
được tích lũy, phát triển từ đời này sang đời khác hoặc chỉ truyền cho những
người thân thuộc nhất của họ. Sau này khi trình độ sản xuất phát triển cao
hơn, chủ sở hữu các bí mật kinh doanh bên cạnh các biện pháp bảo mật của
mình còn được nhà nước thông qua hệ thống pháp luật góp phần đắc lực vào
việc giữ gìn các bí mật đó. Chính các quy định của pháp luật trong việc chống
lại những hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của các chủ thể sản xuất kinh
doanh được thiết lập một cách có hệ thống ở các nước hiện nay đã tạo nên sự
bảo hộ của nhà nước đối với các bí mật kinh doanh, bảo hộ kết quả của một

13

loại hoạt động trí tuệ của con người – đây là yếu tố quan trọng góp phần thúc
đẩy hoạt động sáng tạo của con người trong sản xuất, kinh doanh.
Bí mật kinh doanh là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
thuộc nhóm các đối tượng có tính thương mại. Thông thường bí mật kinh
doanh được hiểu như một thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh, được giữ bí mật và có một giá trị kinh tế nhất định bởi nó tạo cho
người nắm giữ thông tin một lợi thế trước những đối thủ cạnh tranh.
Trên thế giới, vấn đề bảo hộ BMKD đã được quy định đầu tiên trong
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ,
ra đời năm 1994 (TRIPS). Theo Hiệp định này thì một thông tin bí mật phải
có tính chất bí mật với nghĩa là những người thường xuyên xử lý loại thông
tin đó nói chung không biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận thông tin đó
dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác
mọi chi tiết của thông tin đó; có giá trị thương mại vì có tính chất bí mật; và
được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng những biện pháp
phù hợp thực tế (Điều 39).
Có một số thuật ngữ khác nhau có liên quan đến bí mật kinh doanh
như: thông tin bí mật, thông tin không được tiết lộ.
Thông tin bí mật gồm bí mật kinh doanh, thông tin đặc quyền và
thông tin không bị tiết lộ khác chưa trở thành đối tượng phải bị tiết lộ công
khai không hạn chế theo pháp luật (khoản 1 Điều 2 Chương 2 Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ).
Thông tin không được tiết lộ khác như những thử nghiệm hoặc dữ liệu
không được tiết lộ nhất định được đệ trình như là điều kiện để phê duyệt việc
14

tiếp thị dược phẩm hoặc các sản phẩm hóa nông có sử dụng các thành phần
hóa học mới ( Điều 39.3 Hiệp định TRIPs).

Như vậy bí mật kinh doanh là một dạng của thông tin bí mật. Phần lớn
các nước hiện nay đều có quy định về bảo hộ BMKD, phù hợp với Điều 10bis
của Công ước Paris. BMKD có vai trò quyết định trong việc tạo ưu thế cạnh
tranh giữa người nắm thông tin và những người khác. Để được bảo hộ, người
sở hữu BMKD phải có ý định giữ BMKD và thực hiện các biện pháp cụ thể
cần thiết để giữ bí mật chúng trên thực tế.
Tại Việt Nam, Nghị định 54/2000/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 3-10-
2000 cũng đã quy định về bảo hộ BMKD. Theo quy định của pháp luật Việt
nam hiện hành, Khái niệm bí mật kinh doanh được quy định tại khoản 23
Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được
từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử
dụng trong kinh doanh”.
Trên thực tế kinh doanh ngày nay, các thương nhân có thể coi nhiều
loại thông tin khác nhau là bí mật kinh doanh. Đó có thể là các thông tin khoa
học như hướng nghiên cứu phát triển khoa học, các kết quả nghiên cứu khoa
học…Hoặc đó có thể là thông tin công nghệ, kỹ thuật như các công thức pha
chế, quy trình sản xuất, cấu trúc của sản phẩm, mã nguồn của các chương
trình máy tính, sơ đồ kiến trúc…Hay đó có thể là các thông tin thương mại
như danh sách khách hàng, nhu cầu, thái độ, cơ cấu tiêu dùng của khách hàng,
phương án cung ứng, lưu trữ, chăm sóc khách hàng, kế hoạch, chiến lược kinh
doanh tiếp thị, quảng cáo, ý tưởng kinh doanh, kết quả nghiên cứu, khảo sát
thị trường… Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định các thông tin bí mật không
được bảo hộ dưới danh nghĩa bí mật kinh doanh gồm các loại thông tin sau:
15

các bí mật nhân thân, về quản lý nhà nước, về an ninh, quốc phòng, các thông
tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.
1.1.1.2. Đặc điểm
Bí mật kinh doanh là một đối tượng đặc biệt của quyền sở hữu công
nghiệp, ngoài những tính chất chung của các đối tượng quyền sở hữu công

nghiệp như mang tính chất vô hình và là sản phẩm của hoạt động sáng tạo, trí
tuệ của con người nó có các đặc điểm riêng cơ bản sau:
Thứ nhất, bí mật kinh doanh là thông tin nên nó có chức năng
thông tin. Chức năng này đem đến cho người có khả năng tiếp cận nó những
hiểu biết, những nhận thức, kiến thức nhất định mà không phải ai cũng dễ
dàng có được nó. Những thông tin này có thể được biểu hiện ở những dạng
khác nhau như các ký tự, các ký hiệu, hình vẽ, công thức… và có thể được thể
hiện dưới dạng vật chất nhất định như tài liệu, giấy tờ chứa đựng thông tin,
mô hình, mẫu vật hay dưới dạng dữ liệu trong máy tính hoặc có khi còn tồn
tại dưới dạng phi vật thể như kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của con người…
và nó là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người. Thông tin trong bí mật
kinh doanh là những tri thức của con người nên con người muốn nhận thức
được nó thì phải thông qua hoạt động nhận thức. Điều đó còn có nghĩa là
thông tin đó phải là những kiến thức mà con người có thể nhận thức được.
Thứ hai, bí mật kinh doanh là thông tin bí mật. BMKD là thông tin
thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ chưa được bộc lộ và có khả
năng sử dụng trong kinh doanh. Yếu tố bí mật trong BMKD có vai trò tạo ưu
thế cạnh tranh giữa người nắm thông tin và những người khác. Đó là ý nghĩa
quan trọng nhất của BMKD. BMKD một khi đã bị bộc lộ công khai sẽ mất
hết giá trị, tính bí mật không còn thì thông tin đó không còn là ưu thế cạnh
16

tranh nữa. Do đó, để cho ý nghĩa của BMKD tồn tại thì nhất thiết phải làm
cho BMKD luôn được giữ kín. Thí dụ điển hình nhất về BMKD là công thức
pha chế nước ngọt của Công ty Coca – Cola đã được giữ bí mật hơn một trăm
năm nay. Hoặc một ví dụ khác đó là công thức chế biến món gà rán KFC
được một người Mỹ tên là Harland Sanders sinh năm 1890 nghĩ ra và được
giữ bí mật tính đến nay đã được gần hai trăm năm.
Đây là đặc tính “cần” của bí mật kinh doanh, là đặc điểm cơ bản nhất
và mang tính chất quyết định của BMKD. Một khi tính bí mật không còn thì

thông tin dù có giá trị đến mấy cũng không còn là BMKD và không còn là ưu
thế của chủ sở hữu BMKD nữa. Do đó, trước tiên thông tin đó phải còn tồn tại
trong tình trạng bí mật, thông tin hoặc phần quan trọng của thông tin đó phải
không được dễ biết hoặc dễ suy đoán. Không cần thiết tất cả các phần của
thông tin đều phải bí mật mà sự bí mật có thể chỉ là sự kết hợp của những
điều đã biết. Những người quan tâm đến BMKD không thể dễ dàng có được
chúng thông qua các phương tiện truyền thông thông thường như sách, báo,
giáo trình hay các tài liệu khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật …
Phạm vi những người biết BMKD là rất hạn chế, chỉ những người được chủ
sở hữu thông tin thực sự tin tưởng thì mới được phép sử dụng hoặc quản lý
BMKD. Tất cả những người làm việc có liên quan đến BMKD đều phải có
các cam kết về bảo mật thông tin, ví dụ như cam kết trong hợp đồng lao động
về trách nhiệm giữ BMKD giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Trong Hiệp định TRIPS, tại khoản 2 Điều 39 đã nói về tính bí mật của
BMKD như sau: “Có tính bí mật nghĩa là những người thường xuyên xử lý
thông tin đó nói chung không thể biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận
thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật
tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó”.
17

Chính vì tính bí mật của thông tin mà bí mật kinh doanh có cơ chế xác
lập quyền một cách tự động, tức là không cần phải đăng ký bảo hộ như sáng
chế hay kiểu dáng công nghiệp. Cũng có thể do thông tin trong bí mật kinh
doanh quá quý báu đối với người tạo ra nó và với các đối thủ cạnh tranh nên
không thể tiết lộ được tạo nên tính bí mật của thông tin. Điều này làm cho
việc soạn thảo hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng bí mật kinh doanh trở
nên phức tạp do bên chuyển giao không biết được bên nhận chuyển giao đã
biết đến thông tin này hay chưa, họ cũng không thể mô tả cụ thể về thông tin
đó rồi hỏi phía bên kia xem họ có muốn nhận chuyển giao hay không. Về phía
người đi mua quyền sử dụng bí mật kinh doanh cũng không thể ký hợp đồng

chuyển giao mà không biết sản phẩm mình giao dịch đó cụ thể như thế nào
bởi vì nếu mô tả ra để biết được giá trị của sản phẩm trí tuệ là bí mật kinh
doanh đó thì tính bí mật của thông tin không còn nữa.
Thứ ba, bí mật kinh doanh là thông tin có giá trị thương mại. Đây
cũng là một thuộc tính quan trọng, không thể thiếu của một thông tin được coi
là BMKD. Điều này có nghĩa là thông tin đó phải đóng vai trò quan trọng
trong quy trình sản xuất tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Tính quyết định của
BMKD thể hiện ở chỗ nó có giá trị và có khả năng sử dụng được và được chủ
sở hữu áp dụng vào sản xuất kinh doanh tạo nên ưu thế cạnh tranh hoặc nâng
cao vị trí của người nắm được BMKD đó.
Thông tin được coi là BMKD phải có giá trị nhất định. Tính giá trị của
thông tin thể hiện ở chỗ khi đưa vào sử dụng nó mang lại cho người nắm giữ
thông tin một lợi thế hơn hẳn so với những người còn lại. Lợi thế đó có thể là
chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, lợi thế về thị trường tiêu thụ …
18

Có thể thông tin được coi là BMKD có giá trị cao do chủ sở hữu nó
phải bỏ ra một khoản tiền, một số vốn nhất định, một khoảng thời gian, công
sức mới có được nó, hoặc tạo ra, thu thập được nó nhưng ở đây chúng ta chú
trọng đến khía cạnh giá trị của thông tin là lợi ích mà người nắm giữ thông tin
thu được khi sử dụng thông tin đó.
BMKD phải là thông tin có khả năng sử dụng được. Khi đưa vào sản
xuất kinh doanh, BMKD đó phải phát huy được lợi thế mà nó có thể mang lại.
Nếu thông tin mà không có khả năng sử dụng được bởi chủ sở hữu hoặc
người khác được chủ sở hữu cho phép thì đương nhiên nó không có giá trị gì
cả, không có tính quyết định và không tạo ra ưu thế cạnh tranh và như vậy sẽ
không được chủ sở hữu giữ bí mật. Một khi thông tin không có khả năng sử
dụng, không tạo ra ưu thế cho chủ sở hữu nữa thì nó sẽ không còn là BMKD
và không được bảo hộ.
Như vậy, BMKD là loại thông tin có tính bí mật, tính giá trị và có khả

năng sử dụng trong kinh doanh đem lại lợi thế nhất định cho chủ sở hữu. Đó
là một trong những tài sản trí tuệ, là thành quả lao động, nghiên cứu, sáng tạo
của con người cần được bảo vệ và phát triển khuyến khích sáng tạo trong kinh
doanh và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Ở nước ta, chúng ta cũng đã ý thức được vai trò quan trọng của các
BMKD cũng như các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp nhưng
phải đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000
chúng ta mới chính thức bảo hộ đối tượng này. Trong Nghị định này, tại
khoản 1Điều 6, BMKD được ghi nhận là thành quả đầu tư dưới dạng thông
tin và phải thỏa mãn các điều kiện mà Nghị định quy định. Với những quy
định của Nghị định này thì thực chất pháp luật vẫn chưa đưa ra được khái
19

niệm của BMKD mà mới chỉ đề cập đến các điều kiện để một thông tin được
bảo hộ như một BMKD.
Năm 2005, khi Luật Sở hữu trí tuệ ra đời, đánh dấu một sự phát triển
mới trong khoa học pháp lý về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam một cách toàn diện,
phù hợp với các điều ước quốc tế song phương và đa phương, thúc đẩy và bảo
vệ cho các quan hệ sở hữu trí tuệ trong đó có những quy định tương đối đầy
đủ về BMKD. Theo khoản 23 Điều 4 Luật này thì: “Bí mật kinh doanh là
thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ chưa được bộc lộ và
có khả năng sử dụng trong kinh doanh”.
Khái niệm BMKD nói trên đã phản ánh được đầy đủ những đặc trưng
mang tính bản chất của BMKD đó là tính thông tin, tính bí mật và tính có giá
trị thương mại.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh
doanh
1.1.2.1. Khái niệm
Các sản phẩm khoa học, kỹ thuật do con người sáng tạo ra có đặc
trưng khác biệt so với các sản phẩm thông thường đó là người sáng tạo ra nó

không thể chiếm hữu nó một cách tuyệt đối mà nó rất dễ bị tước đoạt, chiếm
dụng. Chính vì vậy việc bảo vệ thành quả của hoạt động sáng tạo, người ta đã
sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau trong đó có công cụ bảo vệ hữu
hiệu nhất vẫn là pháp luật. Ngày nay vấn đề này không chỉ bó hẹp trong phạm
vi một quốc gia mà nó đã mang tính toàn cầu. Khi nhà nước ban hành các quy
phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh sau khi con người
sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ đã làm xuất hiện các khái niệm như quyền tác giả,
20

quyền sở hữu công nghiệp và trong đó có khái niệm quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh.
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân
đối với tài sản vô hình - kết quả của các hoạt động tư duy, sáng tạo của con
người như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý, tên thương mại và bí mật kinh doanh, bao gồm các quy định của
luật dân sự và một số ngành luật khác cũng như các quy định trong các điều
ước quốc tế song phương và đa phương về các đối tượng đó.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh là quyền sở hữu
của các tổ chức, cá nhân đối với bí mật kinh doanh. Nó bao gồm các quy định
về việc xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh, chuyển giao quyền sử dụng
bí mật kinh doanh, hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh…
1.1.2.2. Đặc điểm
Bí mật kinh doanh là một đối tượng truyền thống của sở hữu công
nghiệp, nó có thể được hình thành từ rất lâu đời và truyền từ đời này sang đời
khác một cách tự nhiên theo sự phát triển của xã hội. BMKD thường không
được đăng ký bảo hộ mà được bảo hộ tự động khi nó thỏa mãn các điều kiện
do pháp luật quy định. So với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, bí mật
kinh doanh có những đặc trưng riêng nên quyền sở hữu công nghiệp đối với
đối tượng này cũng mang những đặc điểm riêng.
Thứ nhất là về cơ sở của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

đối với BMKD, đó chính là sự độc quyền thực tế của một chủ thể xác định
đối với một tập hợp kiến thức nhất định - BMKD. Việc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với BMKD chủ yếu dựa trên cơ sở các biện pháp mà chủ sở
hữu áp dụng trên thực tế nhằm bảo vệ quyền của mình đối với những thông
tin gọi là BMKD. Những công cụ pháp lý mà nhà nước dành cho chủ sở hữu
BMKD có thể bảo vệ một cách hữu hiệu các BMKD khỏi sự vi phạm của
21

những người khác như các quy định về những hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, xử lý hành vi xâm phạm… nhưng
chúng lại kém hiệu quả hơn so với công cụ tương ứng của các chủ sở hữu đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ khác như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn
hiệu… Do vậy, “sự sống còn của các quyền năng của chủ sở hữu đối với
BMKD phụ thuộc vào chính chủ sở hữu, vào sự toàn diện và hiệu quả của các
biện pháp mà chủ sở hữu áp dụng nhằm bảo về độc quyền của mình đối với
thông tin”[1]. Sự độc quyền thực tế này là đặc điểm riêng chỉ chủ sở hữu
BMKD mới có, và nó phát sinh ngay khi một tập hợp kiến thức nhất định hội
đủ các điều kiện của một BMKD. Chính những biện pháp thực tế mà chủ sở
hữu BMKD áp dụng nói trên mà thể hiện sự độc quyền thực tế của họ đối với
BMKD cũng là một trong những điều kiện bắt buộc để thành quả đầu tư dưới
dạng thông tin được coi là BMKD. Để được bảo hộ, người sở hữu BMKD
phải có ý định giữ BMKD và thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ bí mật
đó.
Thứ hai, với tư cách là một đối tượng của quyền SHCN, BMKD
có tính chất tổng hợp cao. Nếu như các đối tượng khác của quyền sở hữu
công nghiệp như sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa… là những
kết quả xác định của hoạt động sáng tạo thì BMKD có thể là tập hợp những
thông tin thuộc nhiều mặt khác nhau của lĩnh vực kinh doanh như sản xuất,
quản lý, tài chính, thương mại…, hoặc tồn tại trong nhiều loại hình thức thể
hiện khác nhau như kết quả nghiên cứu khoa học, công thức pha chế, quy

trình sản xuất, cấu trúc của sản phẩm, mã nguồn của các chương trình máy
tính, sơ đồ kiến trúc, danh sách khách hàng, chiến lược kinh doanh tiếp thị, ý
tưởng kinh doanh, kết quả nghiên cứu, khảo sát thị trường. BMKD có thể là
những giải pháp có khả năng được bảo hộ như là sáng chế, giải pháp hữu ích,
22

kiểu dáng công nghiệp nếu chủ sở hữu đăng ký bảo hộ theo thủ tục của pháp
luật về patent.
Thứ ba, BMKD không bị hạn chế về thời hạn bảo hộ. Khi nào mà
độc quyền thực tế của chủ sở hữu BMKD còn tồn tại và thông tin vẫn đảm
bảo được các điều kiện của BMKD thì quyền của chủ sở hữu đó vẫn được bảo
hộ. Đây vừa là đặc điểm cơ bản của quyền sở hữu công nghiệp đối với
BMKD vừa là ưu điểm nổi trội của loại đối tượng này. Chính vì không bị hạn
chế về thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ thường chọn
BMKD làm đối tượng để được bảo hộ, trong khi các đối tượng khác lại bị hạn
chế về thời hạn này làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ trong kinh doanh.
Thứ tư, quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD được xác lập
theo cơ chế bảo hộ tự động mà không phải thông qua cơ chế đăng ký văn
bằng bảo hộ như phần lớn các đối tượng quyền SHCN khác. Cơ chế bảo hộ tự
động cho phép quyền SHCN đối với BMKD được tự động xác lập khi thành
quả đầu tư dưới dạng thông tin có đủ các điều kiện là BMKD theo quy định
của pháp luật. Chủ sở hữu của nó không cần phải đăng ký với bất kỳ cơ quan
nhà nước nào, không cần phải thực hiện bất kỳ thủ tục mang tính chất hình
thức nào và cũng không cần phải trả lệ phí đăng ký hay lệ phí bảo hộ nào cả.
Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ đặc trưng quan trọng của quyền
SHCN đối với BMKD, đó là tính độc quyền tuyệt đối. Bản chất của BMKD là
bí mật nên việc bảo mật là quan trọng hàng đầu và chủ sở hữu là người bảo
mật là an toàn nhất cho nên họ bắt buộc phải áp dụng các biện pháp thực tế để
bảo vệ bí mật của mình là thượng sách mà pháp luật quy định riêng cho đối
tượng BMKD. Từ đó dẫn tới quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD được

xác lập và bảo hộ tự động, không cần đăng ký, không phải trả lệ phí. Và đây
cũng là phương thức bảo hộ có nhiều ưu điểm mà nhiều chủ sở hữu thành quả
23

lao động sáng tạo ưu tiên lựa chọn để bảo hộ cho các sản phẩm trí tuệ của
mình.
1.1.3. Phân biệt bí mật kinh doanh với sáng chế
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm nhiều đối tượng như sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh. Chúng đều là các sản phẩm vô hình và là kết quả của hoạt
động lao động sáng tạo nên giữa chúng có sự giao thoa nhất định với nhau.
Pháp luật đã quy định cho mỗi đối tượng một chế độ pháp lý khác nhau để
điều chỉnh và bảo vệ một cách tốt nhất quyền của các chủ thể sở hữu công
nghiệp.
Những đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng) khi chưa
đăng ký bảo hộ phải có tính mới, lúc này chúng tồn tại với hình thức là bí mật
kinh doanh. Nhưng tùy thuộc tình hình phát triển công nghệ trên thị trường, bí
mật kinh doanh được đăng ký sẽ trở thành một đối tượng sở hữu công nghiệp
cụ thể. Do vậy, để áp dụng pháp luật về sở hữu công nghiệp một cách có hiệu
quả hơn, chúng ta cần phân biệt rõ ràng các đối tượng nói trên. BMKD như
trên đã đề cập đến, có tính chất tổng hợp cao, do đó việc phân biệt chúng với
các đối tượng còn lại là cần thiết và có ý nghĩa, đặc biệt với sáng chế. Việc
phân biệt BMKD với đối tượng này giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn bản chất
của BMKD.
Theo Khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung một
số điều 2009 thì: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc
quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy
luật tự nhiên”.
24


Những đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng) khi chưa
đăng ký bảo hộ phải có tính mới, lúc này chúng tồn tại với hình thức là
BMKD. Nhưng tuỳ thuộc tình hình phát triển công nghệ trên thị trường,
BMKD được đăng ký sẽ trở thành một đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể.
So với sáng chế thì BMKD có phạm vi rộng hơn. Nếu như sáng chế
chỉ là những sản phẩm trí tuệ trong lĩnh vực công nghệ - kỹ thuật cao thì
BMKD là những kiến thức trong cả hoạt động kinh doanh thương mại. Bí mật
kinh doanh có thể liên quan đến các loại thông tin khác nhau như kỹ thuật và
khoa học (công thức sản xuất, cấu tạo kỹ thuật, mã máy tính, dữ liệu thử
nghiệm…); thương mại (danh sách các nhà cung cấp và khách hàng, các
chiến lược tiếp thị, quảng cáo và kinh doanh, kết quả nghiên cứu thị trường,
phương pháp bán hàng…); tài chính (cơ cấu giá nội bộ, danh mục giá…);
thông tin phủ định (tình trạng bế tắc trong nghiên cứu, các giải pháp kỹ thuật
đã bị rút bỏ…)… Do đó BMKD có thể bao hàm cả sáng chế, có thể nói, sáng
chế là tập con của BMKD.
Bí mật kinh doanh liên quan tới các sáng chế hoặc quy trình sản xuất
mà không đáp ứng được các điều kiện cấp sáng chế và vì vậy, chỉ có thể được
bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh. Loại này có thể là trường hợp của các
danh sách khách hàng hoặc các quy trình sản xuất không đủ tính sáng tạo để
được cấp sáng chế (mặc dù chúng có thể có khả năng bảo hộ dưới dạng mẫu
hữu ích). Mặt khác, các bí mật kinh doanh có thể liên quan tới những sáng chế
đủ điều kiện để cấp và do vậy có thể được bảo hộ dưới dạng sáng chế.
Đối với sáng chế đang trong quá trình nộp đơn xin cấp văn bằng bảo
hộ mà bị xâm phạm thì sẽ được bảo hộ theo cơ chế bảo hộ BMKD. Điều 11
Luật SHTT có quy định về trách nhiệm bảo mật thông tin trong đơn đăng ký

×