Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tổ chức làng xã thời vua lê thánh tông, vua minh mạng và kinh nghiệm cần kế thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.2 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------

HỒ PHƯỚC LONG
MSSV: 1853801090036

TỔ CHỨC LÀNG XÃ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG,
VUA MINH MẠNG VÀ KINH NGHIỆM CẦN KẾ THỪA
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022

Người hướng dẫn: TS. Dương Hồng Thị Phi Ph

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2022


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng em,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Dương Hồng Thị Phi Phi.
Khóa luận đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích
tài liệu tham khảo. Em xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả

Hồ Phước Long


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
: Hội đồng nhân dân
HĐND
Luật Tổ chức chính quyền : Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,


địa phương
sửa đổi bổ sung năm 2019
Nghị quyết liên tịch : Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP09/2008/NQLT-CPUBTWMTTQVN

UBTWMTTQVN của Chính phủ và Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi
hành Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều
26 Pháp lệnh thực dân chủ ở xã, phường, thị trấn
: Thành phố Hồ Chí Minh

TPHCM

Thơng tư 04/2012/TT- : Thông tư 04/2012/TT-BNV hướng dẫn về tổ chức
BNV sửa đổi bổ sung năm
và hoạt động của thôn, tổ dân phố, sửa đổi bổ sung
2018
Thông
BNV



bởi Thông tư 14/2018/TT-BNV
14/2018/TT- : Thông tư 14/2018/TT-BNV sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày
31 tháng 8 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ
hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ
dân phố

Quyết định 22/2018/QĐ- : Quyết định 22/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng
TTg

UBND

Chính phủ ngày 08 tháng 5 năm 2018 về xây
dựng, thực hiện hương ước, quy ước
: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔ CHỨC LÀNG XÃ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG VÀ VUA
MINH MẠNG ............................................................................................................5
1.1. Khái niệm làng xã ...........................................................................................5
1.2. Tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh Tông.....................................................6
1.2.1. Bối cảnh tiến hành cải cách ........................................................................6
1.2.2. Nội dung cải cách .......................................................................................7
1.3. Tổ chức làng xã thời vua Minh Mạng .........................................................16
1.3.1. Bối cảnh tiến hành cải cách ......................................................................16
1.3.2. Nội dung cải cách .....................................................................................18
1.4. Những nhận xét chung về tổ chức làng xã Việt Nam thời vua Lê Thánh
Tông và vua Minh Mạng .....................................................................................24
1.4.1. Nhà nước tăng cường quản lý những vẫn đảm bảo không gian tự trị cho
làng xã .................................................................................................................24
1.4.2. Làng xã nào cũng có một bộ máy quản lý do dân làng bầu lên và tương
đối độc lập với cấp trên ......................................................................................24
1.4.3. Các làng xã được quyền tổ chức soạn thảo “bộ luật” – hương ước của
làng......................................................................................................................25
1.4.4. Làng xã có quyền tổ chức cơ quan tuần phịng riêng để phụ trách cơng
việc bảo vệ an ninh..............................................................................................26
1.4.5. Làng xã nào cũng có một cơ quan giải quyết tranh chấp là pháp đình ...26
1.4.6. Làng xã có nhiều quyền hạn trong việc phân chia và định đoạt các tài sản

công .................................................................................................................... 26
1.4.7. Nhà nước đã thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả trong khi trao
quá nhiều quyền lực cho làng xã đã dẫn đến sự tha hóa quyền lực của bộ máy
làng xã và đỉnh điểm là nạn cường hào. .............................................................27
CHƯƠNG 2. BẤT CẬP TRONG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HIỆN
NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI TRÊN CƠ SỞ KẾ THỪA MƠ HÌNH TỔ CHỨC
LÀNG XÃ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG VÀ VUA MINH MẠNG ..............30


2.1. Tổ chức chính quyền cấp xã theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019 ......................30
2.1.1. Vị trí, cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp xã ..........................................30
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã .........................................32
2.1.3. Mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã với chính quyền địa phương cấp
trên ......................................................................................................................35
2.1.4. Mối quan hệ giữ chính quyền cấp xã với các tổ chức tự quản cộng đồng37
2.2. Bất cập trong tổ chức chính quyền cấp xã hiện nay ..................................40
2.2.1. Chưa có sự phân định rõ ràng trong tổ chức giữa chính quyền cấp xã
vùng nơng thơn và đơ thị .....................................................................................40
2.2.2. Chức năng “chấp hành” của chính quyền cấp xã cao hơn chức năng “tự
quản” ..................................................................................................................43
2.2.3. Chưa mạnh dạn phân cấp, phân quyền cho chính quyền cấp xã..............45
2.2.4. Sự bất hợp lý trong quy định về chức năng của HĐND xã và hoạt động
thiếu hiệu quả của cơ quan này ..........................................................................46
2.2.5. Sự bất hợp lý trong mô hình trách nhiệm tập thể kết với trách nhiệm cá
nhân của Chủ tịch UBND ...................................................................................47
2.2.6.“Hành chính hóa” và “cơng chức hóa” hoạt động của thơn, tổ dân
phố….. .................................................................................................................47
2.2.7. Biểu hiện tha hóa quyền lực trong chính quyền cấp xã và các đơn vị tự
quản thôn, tổ dân phố .........................................................................................48

2.3. Kinh nghiệm trong tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh
Mạng đối với đổi mới tổ chức chính quyền địa phương cấp xã nước ta hiện
nay…......................................................................................................................49
2.3.1. Kế thừa những nhân tố hợp lý trong tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh
Tông và vua Minh Mạng vào đổi mới tổ chức chính quyền địa phương cấp xã
hiện nay ...............................................................................................................50
2.3.3. Nhận diện những nhân tố hạn chế trong tổ chức chính quyền thời vua Lê
Thánh Tơng và vua Minh Mạng cần loại bỏ khi đổi mới chính quyền địa phương
hiện nay ...............................................................................................................53
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................57


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với những nét độc đáo và vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc, khi
nghiên cứu về lịch sử tổ chức làng xã giúp ta hiểu được kết cấu xã hội Việt Nam cũ,
văn hóa và văn minh Việt Nam, cũng như hiểu được lịch sử và những truyền thống
lịch sử của Việt Nam1. Không chỉ vậy việc nghiên cứu làng xã cổ truyền cịn có thể
giúp hiểu rõ hơn về tổ chức, tính chất, các mối quan hệ trong làng xã và giữa làng
xã với Nhà nước. Ngoài ra lịch sử tổ chức làng xã còn đưa đến những góc nhìn về
chính sách của mỗi triều vua đối với làng xã và sự biến đổi của làng xã dưới sự tác
động của chính sách đó. Trong suốt tiến trình lịch sử thời phong kiến Việt Nam, vua
Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng được xem là hai nhà cải cách lớn, đặc biệt là cải
cách nền hành chính quốc gia. Cải cách của hai vị vua đã để lại dấu ấn về nhiều
mặt, mang lại nhiều giá trị tích cực, trong đó, có thể nói những chính sách trong cải
cách của họ cũng đã tác động sâu rộng và mạnh mẽ đến tổ chức làng xã thời kỳ này.
Do vậy, qua việc nghiên cứu chính sách tổ chức làng xã của hai vị vua có thể rút ra
những kinh nghiệm hay cần kế thừa và những bài học cần tránh trong đổi mới tổ

chức chính quyền cấp xã.
Đổi mới tổ chức chính quyền cấp xã là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong quá trình đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, được Đảng ta xác định
trong những ngày đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Bởi vai trị quan trọng của
cấp chính quyền này “trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội,
tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”2. Ngồi ra, cấp xã cịn là “cấp gần gũi với
dân nhất, là nền tảng của nền hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc
đều xong xi”3. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức chính quyền cấp xã cho phù hợp với
tính chất và tầm quan trọng của nó là một vấn đề quan trọng cần được cân nhắc kỹ.
Theo đó, nghiên cứu về lịch sử tổ chức làng xã các thời kỳ trước có thể đưa ra
những kinh nghiệm quý giá cần kế thừa trong đổi mới tổ chức chính quyền cấp xã
hiện nay. Trên cơ sở sự tương đồng về vị trí trong tổ chức chính quyền địa phương,
những thơng tin về làng xã giúp giải thích phần nào về q trình vận động của tổ
chức cấp xã, bản chất mối quan hệ giữa tổ chức cấp xã với Nhà nước và những đặc
1

Viện sử học (2021), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử tập I, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nôi, tr.3.
Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
3
Hồ Chí Minh tồn tập , Tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 269
2


2

tính vốn có của cấp chính quyền này. Từ việc có cái nhìn đầy đủ và đúng đắn về
tính chất của cấp xã và bản chất mối quan hệ giữa cấp xã với các cấp trên, Nhà nước

có thể đề ra được những chính sách hợp lý cho q trình đổi mới tổ chức chính
quyền cấp xã.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ tổ chức làng xã thời vua
Lê Thánh Tơng và vua Minh Mạng, từ đó đưa ra các nhận định về ưu và khuyết
điểm của tổ chức làng xã những thời kỳ này. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh
nghiệm cần kế thừa trong quá trình đổi mới tổ chức chính quyền cấp xã hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức làng xã
thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng. Cũng như những quy định pháp luật,
thực trạng thực hiện pháp luật liên quan đến tổ chức chính quyền cấp xã hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tác giả không nghiên cứu tổ chức làng xã trong
suốt tiến trình lịch sử mà chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức làng xã thời vua Lê
Thánh Tông và vua Minh Mạng, cũng như quy định của Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019.
4. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về các tính chất của làng xã cổ truyền để từ đó rút ra những kinh
nghiệm cần kế thừa cho đổi mới tổ chức chính quyền là một chủ đề đã được nhiều
tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên mỗi tác giả có cách tiếp cận khác nhau về chủ đề này.
Thứ nhất đề tài khóa luận tốt nghiệp “Tổ chức làng xã Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX với nhu cầu đổi mới chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thị Thảo. Khóa luận tập trung phân tích tổ chức làng xã từ thế kỷ XV đến
XIX, từ đó rút ra nhũng kinh nghiệm cho nhu cầu đổi mới tổ chức chính quyền cấp
xã. Điểm khác biệt của khóa luận này so với khóa luận của tác giả đó là khóa luận
này phân tích tổ chức làng xã trong suốt thời gian từ thế kỷ XV đến XIX, trong khi
khóa luận của tác giả chỉ tập trung vào cải cách của hai vị vua là Lê Thánh Tông và
vua Minh Mạng. Thứ hai, đề tài khóa luận tốt nghiệp “Tổ chức chính quyền địa
phương Triều Nguyễn (1802-1884) và một số bài học kinh nghiệm” tác giả Huỳnh
Cơng Chí. Đề tài tập trung phân tích tổ chức chính quyền địa phương thời Nguyễn,
trong đó tổ chức làng xã là một phần nội dung trong tổ chức chính quyền địa

phương. Điểm khác biệt là khóa luận này của tác giả có phạm vi tiếp cận rộng hơn


3

về mặt thời gian (bao gồm cả vua Lê Thánh Tơng), cũng như có cách tiếp cận hẹp
hơn về mặt nội dung khi chỉ tập trung vào tổ chức làng xã. Thứ ba, luận án tiến sĩ
“Chế độ tự quản địa phương trên thế giới và vấn đề áp dụng trong đổi mới tổ chức
chính quyền địa phương Việt Nam” tác giả Nguyễn Thị Thiện Trí. Theo đó, tổ chức
làng xã chỉ là một phần nội dung trong luận án. Tuy nhiên, luận án khai thác tính tự
trị của làng xã chứ không đi sâu vào tổ chức của làng xã như khóa luận tốt nghiệp
của tác giả.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử triết học Mác – Lênin, khóa luận sử dụng kết hợp linh hoạt
nhiều phương pháp nghiên cứu để có thể trả lời các câu hỏi nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp duy vật lịch sử Mác - Lênin: dựa vào nền tảng tài liệu lịch sử
chính thống và phương pháp luận lịch sử nhằm “tái hiện” và làm sáng tỏ về tổ chức
làng xã thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng.
Phương pháp liệt kê: liệt kê các quy định pháp luật về tổ chức làng xã thời vua
Lê Thánh Tông cũng như các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức chính quyền
cấp xã.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: tổng hợp các điểm nổi bật về tổ chức làng
xã thời vua Lê Thánh Tơng và vua Minh Mạng thơng qua phân tích các tư liệu lịch
sử. Đồng thời, phân tích các quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật để tổng hợp lại những điểm bất cập trong tổ chức chính quyền cấp xã hiện nay.
Phương pháp so sánh: so sánh sự giống và khác nhau giữa tổ chức làng xã thời
vua Lê Thánh Thông và vua Minh Mạng để đưa ra các điểm chung nổi bật của tổ
chức làng xã thời kỳ này. Bên cạnh đó là so sánh quy định về tổ chức chính quyền

cấp xã hiện nay với tổ chức làng xã thời kỳ của hai vị vua để tìm ra những điểm
tương đồng và kinh nghiệm cần kế thừa.
6. Bố cục khóa luận
Kết cấu khóa luận gồm có 3 phần: phần mở đầu, phận nội dung và phần kết
luận. Phần nội dung được chia thành hai chương:
Chương 1. Tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng.


4

Chương 2. Bất cập trong tổ chức chính quyền cấp xã hiện nay và vấn đề đổi mới
trên cơ sở kế thừa mơ hình tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh
Mạng.


5

CHƯƠNG 1
TỔ CHỨC LÀNG XÃ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG VÀ
VUA MINH MẠNG
Cải cách hành chính thời vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng được xem là
những cuộc cải cách quy mô trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Trong đó, cả hai
cuộc cải cách đều hướng đến việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với làng
xã. Tuy nhiên, mỗi cuộc cải cách diễn ra trong hồn cảnh khác nhau, nếu của vua
Lê Thánh Tơng diễn ra trong bối cảnh xã hội tương đối ổn định và nền kinh tế với
ruộng công chiếm phần lớn. Cuộc cải cách của vua Minh Mạng lại diễn ra trong bối
cảnh xã hội còn nhiều biến động và ruộng tư phát triển mạnh cùng với nạn cường
hào. Thơng qua tìm hiểu về chính sách quản lý làng xã của mỗi vị vua trong bối
cảnh xã hội có nhiều điểm khác biệt đó, sẽ giúp ta có cái nhìn tồn diện về tổ chức
làng xã thời kỳ này và rút ra những kinh nghiệm cho q trình đổi mới tổ chức

chính quyền cấp xã hiện nay.
1.1. Khái niệm làng xã
Làng là đơn vị tụ cư truyền thống lâu đời của người nơng dân4, cộng đồng của
những gia đình có cùng địa bàn cư trú liên kết với nhau để chống chọi với thiên
nhiên, làm ăn sinh sống và để tự vệ chống lại sự xâm lấn từ bên ngoài5. Làng Việt
xuất hiện từ rất sớm, cùng với quá trình tan rã của cơng xã thị tộc hình thành cơng
xã nơng thơn6, có lịch sử khoảng 4000 năm7.
Cịn xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước phong kiến ở vùng nông
thôn Việt Nam (miền núi, vùng các tộc người thiểu số gọi là sách)8. Xã lần đầu tiên
xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ VII dưới thời thống trị của nhà Đường9.
Tuy nhiên phải đến khi họ Khúc giành được quyền tự chủ vào đầu thế kỷ thứ X, ý
tưởng biến làng Việt cổ truyền thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước
trước đây mới được khẳng định và chính thống hóa10.

Bùi Xuân Đính (2007), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam những suy ngẫm, NXB Tư pháp,
Hà Nội, tr.312.
5
Vũ Minh Giang (2008), Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý Nhà nước và hệ thống chính trị nước
ta trước thời kỳ đổi mới, NXB NXB Chính trị sự thật, Hà Nội, tr.119-120.
6
Sự khác nhau giữa công xã nông thôn và công xã thị tộc là tuy ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu công xã
nhưng đã được chia có các thành viên cơng xã, những gia đình nhỏ để canh tác và các thành viên này được
quyền sở hữu sản phẩm lao động của mình. Trường đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình lịch sử Nhà nước
và pháp luật Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.9.
7
Nguyễn Quang Ngọc, Quan hệ Nhà nước – làng xã: quá trình lịch sử và bài học kinh nghiệm, tham khảo
thêm
tại: , truy cập lần cuối ngày 31/5/2022.
8
Bùi Xuấn Đính, tlđd (4), tr.312.

9
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
10
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
4


6

Theo đó, từ một đơn vị tụ cư, làng bị lắp ghép thành đơn vị hành chính cấp cơ
sở của Nhà nước phong kiến11, nên được gọi là làng xã. Cùng với q trình này là
sự ra đời thơn – cấp trung gian giữa làng và xã. Cấp thôn ra đời chính là do nhu cầu
quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước thông qua xã để quản lý dân
làng, nhưng xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành chính của mình nếu như
khơng thông qua một cấp trung gian khác là thôn. Thôn vì thế đã trở thành đầu mối
giáp nối, gắn kết và điều hịa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và
tục lệ, chính trị và xã hội12. Thời kỳ đầu một xã chỉ có một làng – “nhất xã nhất
thôn”, nhưng dần dần trong quá trình phát triển, một xã có khi bao gồm vài ba làng,
thậm chí nhiều hơn nữa “nhất xã nhị tam thôn”13.
Như vậy, làng xã là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, đồng thời là đơn vị hành chính cấp cơ sở Nhà nước phong
kiến14.
1.2. Tổ chức làng xã thời vua Lê Thánh Tông
1.2.1. Bối cảnh tiến hành cải cách
Thứ nhất, về mặt xã hội, các vị vua đầu thời Lê sơ, như vua Lê Thái Tổ, Lê Thái
Tông đã không ngừng các biện pháp tăng cường quản lý nhằm duy trì sự ổn định và
trật tự cho xã hội. Cùng với đó là đưa Nho giáo thành hệ tư tưởng chính thống của
Nhà nước và xã hội. Điều này làm củng cố vị trí của tầng lớp Nho sĩ cũng như thiết
lập và duy trì hệ thống đẳng cấp của Nho giáo trong xã hội. Có thể nói, triều Lê tại
thời kỳ này là đang trong thời kỳ phát triển hưng thịnh cả về kinh tế, văn hóa và xã

hội:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tơng
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”15
Thứ hai, về mặt kinh tế, trong thời kỳ bị quân Minh đô hộ với những chính sách
thuế khóa khắc nghiệt, vơ vét tài ngun, cấm chỉ ngoại thương đã làm cho nền
kinh tế công thương nghiệp bị phá hoại nặng nề. Riêng đối với nông nghiệp, chiến
sự liên miên khiến dân chúng phiêu tán bỏ hoang ruộng đất, một số nơi thì bị nhà
Minh cướp đoạt ruộng đất để ban thưởng cho ngụy quân. Những điều đó làm phá
sức sản xuất của nền nơng nghiệp, gây rất nhiều khó khăn trong việc cày cấy, trồng

Bùi Xuấn Đính, tlđd (4), tr.312.
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
13
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7); Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Lịch sử
Nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.199.
14
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
15
Báo Văn nghệ, Về câu ca “đời vua Thái tổ Thái tông…”, truy cập lần cuối ngày 12/6/2022.
11
12


7

trọt16. Ngay sau khi giành lại độc lập, vua Lê Thái Tổ đã nhanh chóng khơi phục lại
nền kinh tế, kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về làm cày cấy17. Những chính sách này
bước đầu đã đem lại hiệu quả tích cực. Cùng với đó, nhà vua cho tiến hành đo đạc
và phân phối lại ruộng đất. Theo đó, Nhà nước tăng cường chiếm hữu ruộng đất, bộ
phận ruộng đất công thuộc sở hữu Nhà nước bao trùm tất cả. Về ruộng đất tư: phát

triển từ những thời kỳ trước, đến nay ngày càng mở rộng nhưng vẫn chỉ chiếm một
diện tích nhỏ. Ruộng đất tư chủ yếu nằm trong tay quý tộc, quan lại và địa chủ.
Tóm lại, nước Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông lên ngôi đang trong thời kỳ yên
bình, vững chắc18.
Sau khi lật đổ vị vua “tiếm quyền” Lê Nghi Dân và thái hậu Nguyễn Thị Anh.
Năm 1460, Lê Tư Thành được quần thần truy phong lên ngôi vua. Ngay khi lên
ngôi ông đặt niên hiệu là Quang Thuận, năm 1469 lấy niên hiệu là Hồng Đức. Ơng
trị vì 37 năm, năm 1497 thì băng hà, miếu hiệu Thánh Tông. Sử thường gọi là Lê
Thánh Tơng.
Với mục đích tập trung tuyệt đối quyền lực Nhà nước vào tay nhà vua theo
nguyên tắc “tôn quân quyền” của Nho giáo và tăng cường hiệu lực của bộ máy quan
liêu19. Vua Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách hành chính trong cả nước, trong đó
đặc biệt là tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với làng xã.
1.2.2. Nội dung cải cách
Với mục tiêu tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với làng xã, nhà vua đã
tiến hành cải cách ở các nội dung: (i) xác định vị trí của cấp xã trong hệ thống tổ
chức chính quyền địa phương, (ii) cải tổ lại bộ máy quản lý làng xã, (iii) tăng cường
chính sách quản lý của Nhà nước đối với làng xã.
Thứ nhất, về vị trí của làng xã trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương.
Cuộc cải tổ bộ máy hành chính của vua Lê Thánh Tơng được tiến hành bắt đầu từ
năm 1466 với việc định lại các cấp hành chính địa phương, cụ thể: “Đặt 13 đạo
thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai,
Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang,Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ
Trung Đô.Đổi lộ thành phủ, đổi trấn thành châu, đổi an phủ sứ các lộ Tri phủ, Trấn
phủ thành Đồng tri phủ, Chuyển vận thành Tri huyện, Tuần sát thành Huyện thừa,

16

Viện sử học (2017), Lịch sử Việt Nam tập 3, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.288.
Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn và Nguyễn Cảnh Minh (2014). Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB.

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr 325.
18
Trường đại học Luật Hà Nội, tlđd (6), tr.134.
19
Trường đại học Luật Hà Nội, tlđd (6), tr.135.
17


8

Xã quan thành Xã trưởng”20. Trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương này
thì xã là cấp hành chính cơ sở. Về đơn vị tổ chức và quản lý làng xã: nếu thời vua
Lê Thái Tổ, Nhà nước lấy số dân để làm tổ chức và quản lý làng xã21, thì nay vua
Lê Thánh Tơng lại sử dụng hộ gia đình làm đơn vị tổ chức và quản lý làng xã. Theo
đó, dựa vào số hộ, Nhà nước chia làng xã thành ba loại: xã lớn (500 hộ), xã vừa
(300 hộ) và xã nhỏ (100 hộ). Nếu xã nào lên đến 600 hộ thì cho phép tách ra thành
một xã lớn và một xã nhỏ22. Có thể nói, việc dựa vào số hộ để phân loại này của vua
Lê Thánh Tông đã đưa làng quê trở về với truyền thống, đạo lý, lối sống lâu đời.
Bởi lẽ, gia đình là tế bào của xã hội, là đơn vị sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế
tiểu nông23. Bên cạnh đó việc nhà vua định số hộ để tách xã thì cũng đã giới hạn
quy mơ của làng xã nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Thứ hai, về bộ máy quản lý làng xã, theo cải cách năm 1466, người đứng đầu
làng xã được đổi từ Xã quan thành Xã trưởng. Người đứng đầu làng xã lúc này
khơng cịn đứng trong hàng ngũ quan lại, cũng khơng do triều đình cử về mà do dân
làng bầu lên. Việc bầu chọn này phải tuân theo những quy định của pháp luật về
tiêu chuẩn bầu chọn, quá trình bầu chọn, xét đặt và khảo hạch.
Một là, về tiêu chuẩn bầu chọn Xã trưởng, vào năm Quang Thuận thứ 3 (1462),
nhà vua đã cho ban hành lệ bầu Xã trưởng:
“Từ nay về sau bầu đặt Xã trưởng, nên họp hội đồng lượng lấy hoặc thuộc hạng
tuổi đã già hoặc giám sinh hoặc sinh đồ tuổi cao nhưng kém cỏi học nghiệp không

tiến bộ và xét các con em nhà hiền lành 30 tuổi trở lên: không vướng việc quân
những đó người nào biết chữ có hạnh kiểm làm Xã trưởng của xã đó để tiện đối xét
mỗi khi có việc và tiện để làm việc. Bầu đặt không đúng người là có tội”
Ngồi ra, để tránh nạn kéo bè kéo phái, nhà vua đã đặt thêm các điều kiện về hồi
tỵ đối với việc bầu Xã trưởng. Cụ thể, năm Hồng Đức thứ 19 (1488), lệnh xét đặt
Xã trưởng nêu rõ:

20

Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê (1697), Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội Việt Nam,

tr.445.
“Ngày 27, ra lệnh chỉ đặt Xã quan. Xã lớn từ 100 người trở lên thì đặt 3 viên, xã vừa từ 50 người trở lên
đặt 2 viên, xã nhỏ 10 người trở lên đặt 1 viên.” – Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428). Xem thêm tại Ngô Sĩ
21

Liên và các sử thần thời Lê, tlđd (20), tr.365.
22
Lệnh về tách xã trong Hồng Đức thiện chính thư. Xem thêm tại: Phạm Đình Hổ, Quốc triều hội điển (Lê
triều hội điển), tr.240-241.
23
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).


9

“Nếu là anh em ruột thịt, anh em con chú con bác con cơ con cậu thì chỉ một
người làm Xã trưởng, anh em họ hàng với nhau không được cùng làm để tránh tệ
nạn đồng đảng phe cánh”24.
Như vậy, về cơ bản Xã trưởng được bầu chọn trong số những người già, giám

sinh, sinh đồ tuổi cao hoặc con em nhà hiền lành trên 30 tuổi không vướng việc
quân, biết chữ và có hạnh kiểm tốt. Và anh em thân thích khơng được có hai người
cùng làm Xã trưởng25.
Hai là, về thủ tục bầu chọn Xã trưởng, thật tiếc rằng lại không được sử sách ghi
chép rõ26. Nhưng thông qua lệ bầu Xã trưởng năm 1462, có thể hình dung rằng việc
bầu chọn Xã trưởng phải được bàn bạc và thống nhất thông qua cuộc họp hội đồng.
Tuy nhiên, hội đồng này gồm những thành phần nào thì khơng biết rõ. Sau khi chọn
được người phù hợp với tiêu chuẩn thì trình lên quan huyện, châu để xét duyệt. Tùy
thuộc vào điều kiện của mỗi làng mà Xã trưởng có sự xếp đặt khác nhau. Cụ thể,
tùy theo số hộ trong xã mà số lượng Xã trưởng được xếp đặt sẽ có sự khác nhau27:
- Xã có 500 hộ trở lên: đặt 5 Xã trưởng
-

Xã có 300 hộ trở lên: đặt 4 Xã trưởng
Xã có 100 hộ trở lên: đặt 2 Xã trưởng
Xã có 60 hộ trở xuống: đặt 1 Xã trưởng

Ba là, về chức vụ, Xã trưởng bao gồm Xã chính (Xã trưởng), Xã sử và Xã tư
(Xã phó), mỗi người một nhiệm vụ28. Nhiệm vụ của mỗi người cụ thể như thế nào
thì sách sử khơng ghi chép rõ. Tuy nhiên, việc tổ chức như vậy cũng cho thấy các
chức danh đứng đầu mỗi xã được phân cơng, phân nhiệm rõ ràng, khơng hề có sự
chồng chéo29.

24

Phạm Đình Hổ, tlđd (22), tr.236.

25

Trường đại học Luật Hà Nội (2020), tlđd (6), tr.153.


26

Viện sử học, tlđd (16), tr.199.
Lệ tách xã năm Hồng Đức thứ 14 (1483): “Lệ tách xã, xã lớn 500 hộ trở lên thì được 5 Xã trưởng, xã vừa

27

300 hộ trở lên thì được 4 Xã trưởng, xã nhỏ 100 hộ trở lên 2 Xã trưởng, nếu xã nhỏ mà số hộ tăng lên đến
300 thì gọi là xã vừa, số hộ nhiều đến 500 hộ trở lên thì gọi là xã lớn.” Xem thêm tại: Phạm Đình Hổ, tlđd
(22), tr.240-241.
28
Trong Hồng Đức thiện chính thư, năm Hồng Đức thứ 25 (1494): “Các làng bầu chọn Xã trưởng thì phải
chọn lấy người giỏi, theo lệ co sxã chính, Xã sử và Xã tư mỗi người một việc. Bầu ai thì phải chọn người
đứng tuổi có đức hạnh, khơng được bầu người khơng có tài có đức, lơi bè kéo cánh làm tổn hại đến phong
hóa. Những kẻ vi phạm điều này thì chỉ bắt tội kẻ chủ xướng sai trái đó”. Xem thêm tại: Viện nghiên cứu
Hán Nôm (2011), Điển chế và pháp luật Việt Nam thời trung đại, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.450.
Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Huyền, Chính sách của nhà nươc trung ương thời Lê Thánh Tông đối với
bộ máy quản lý làng xã,
29


10

Bốn là, trong q trình cơng tác, Xã trưởng cũng thường bị Nhà nước khảo hạch
để xét xem có được xét chọn lại hay không. Nội dung khảo hạch chủ yếu là:

-


Đức hạnh: Xã trưởng phải là người có đức hạnh tốt, nếu gian tham, thơ lỗ thì
cắt giảm30;
Trình độ: Xã trưởng phải là người “biết chữ, có tài cán mới nên giữ lại để

-

giải quyết công việc, thúc thu thuế khố, tiện cho dân, nếu khơng biết chữ thì
cho nghỉ việc”31;
Sức khỏe: Xã trưởng phải đảm bảo được sức khỏe tốt, nếu “người nào già

-

yếu, bệnh tật không kham nổi cơng việc thì bắt về làm dân thường”32.
Sau khi được bầu chọn, khảo hạch và công nhận, các Xã trưởng trở thành lực
lượng trung gian khi vừa là người đại diện cho dân làng, vừa là người đại diện cho
Nhà nước33. Do vậy, nhiệm vụ và chức năng của Xã trưởng cũng thể hiện tính hai
mặt này, bao gồm hai nhóm34:
- Nhóm chức năng, nhiệm vụ thực thi các chính sách Nhà nước: làm sổ, quản
lý hộ khẩu, hộ tịch; thu thuế, chọn lính, chọn thí sinh đi thi hương;
-

Nhóm chức năng, nhiệm vụ quản lý làng xã: đảm bảo an ninh trật tự, tham
gia lập và duy trì hương ước, duy trì thuần phong mĩ tục và xét xử các vụ
kiện tụng trong phạm vi quyền hạn được quy định.

Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức làng xã thời kỳ này khá lớn, “nhất xã nhị tam thôn”
(một xã gồm ba bốn thôn), nên vua Lê Thánh Tông đã cho đặt thêm chức Thôn
trưởng. Cũng giống như Xã trưởng, Thôn trưởng không phải quan lại Nhà nước, mà
do dân trong thơn bầu lên. Tiếc rằng, q trình bầu chọn chức danh Thơn trưởng
như thế nào, có quyền hạn và nghĩa vụ ra sao thì sử liệu khơng cho biết một cách

tường tận35. Nhưng thông qua các tư liệu lịch sử sau có thể hình dung phần nào
nhiệm vụ của Thôn trưởng.
Hồng Đức năm thứ 6 (1475):

, truy cấp lần cuối
ngày 12/6/2022.
Quy định giảm bớt Xã trưởng ngoại lệ năm Hồng Đức thứ 14 (1483). Xem thêm tại: Phạm Đình Hổ, tlđd
(22), tr.242.
30

31
32

Phạm Đình Hổ, tlđd (22), tr.236.
Phạm Đình Hổ, tlđd (22), tr.234.

Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Huyền, tlđd (29).
Viện sử học, tlđd (16), tr.202-206.
35
Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Huyền, tlđd (29).
33
34


11

“ra sắc chỉ rằng: Nếu các xứ có trộm cướp nhóm họp thì các quan phủ, châu,
huyện, các Xã trưởng, Thơn trưởng của nơi đó đều phải trị tội theo như pháp
luật”36.
Hồng Đức năm thứ 17 (1486):

“Khi rảnh việc làm ruộng, quan phủ huyện chiếu theo bốn mặt giới hạn của
ruộng đất trong sổ và ruộng đất được ban cấp, tập hợp những người già cả và xã
Thôn trưởng cùng nhau chỉ dẫn ruộng công và ruộng đất thế nghiệp là những chổ
nào, dựng mốc giới để làm phép vững chắc lâu dài”37.
Nhìn chung, Thơn trưởng có nhiệm vụ hỗ trợ để Xã trưởng hồn thành nhiệm
của mình.
Thứ ba, thơng qua Xã trưởng Nhà nước từng bước can thiệp vào cơng việc của
làng xã dưới ba khía cạnh: quản lý hành chính, quản lý kinh tế và quản lý văn hóa –
xã hội.
Một là, đối với Nhà nước phong kiến, trong quản lý hành chính, cơng tác lập sổ
hộ tịch – tăng cường quản lý hộ khẩu đóng một vai trị vơ cùng quan trọng, thơng
qua đó Nhà nước có thể đề ra và thực thi hiệu quả hơn các chính sách đối với làng
xã38. Nhận thức được điều đó nên ngay khi lên ngôi năm 1460, vua Lê Thánh Tông
đã cho tiến hành làm sổ hộ tịch39. Định lệ, cứ 03 năm làm sổ hộ tịch một lần là tiểu
điển, 06 năm làm một lần gọi là đại điển40. Trong quá trình điều tra và lập sổ đinh
như vậy, làng xã, cụ thể hơn là Xã trưởng có nhiệm vụ rất lớn41:
- Kê khai các loại chính hộ và khác hộ;
- Xét các hạng học trò, người nào sảo thơng thì cho làm hạng nhiều học;
- Xét những người có chức sắc để thanh trừng những kẻ giả mạo
- Xét đến dân đinh (đàn ông) để chia làm các hạng42: (i) hạng tráng: người có
đủ sức khỏe tham gia quân ngũ; (ii) hạng quân: người ở nhà làm ruộng, khi
nào khuyết ngạch lính thì bổ sung vào qn ngũ; (iii) hạng dân; (iv) hạng lão;
(v) hạng cố; (vi) hạng cùng: nghèo đói, túng thiếu phải đi làm thuê cho người
khác để kiếm sống.
Sau khi làm xong, Xã trưởng nộp lại sổ hộ tịch lên huyện để huyện tra xét rồi
chuyển lên các cấp cao hơn và cuối cùng sổ hộ tịch này sẽ được chuyển đến triều
36

Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, tlđd (20), tr.481.


37

Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, 20), tr.503.
Viện sử học, tlđd (16), tr.220.

38
39
40
41
42

Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, tlđd (20), tr.432.
Phan Huy Chú (1821), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.90.
Phan Huy Chú, tlđd (40), tr.90.
Viện sử học, tlđd (16), tr.221-222.


12

đình43. Trên cơ sở sổ hộ tịch, Nhà nước có thể chủ động trong việc tuyển quân, xây
dựng quân đội thường trực để bảo vệ đất nước. Cụ thể, dựa vào số đinh của mỗi hộ
mà vua Lê Thánh Tông quy định số lượng xung quân: “nhà có 3 đinh thì 1 người bổ
hạng lính tráng, 1 bổ vào hạng quân, 1 bổ vào hạng dân; nhà có 4 đinh, thì được 2
người bổ vào hạng dân; nhà có 5-6 đinh trở lên, thì 2 người bổ vào hạng lính tráng,
1 bổ vào hạng qn”44. Ngồi ra, Nhà nước cịn có thể đề ra các chính sách thiết
thực đối với làng xã, như đề ra chính sách thuế khóa phù hợp45. Chính vì tầm quan
trọng như vậy, nên Nhà nước đã có những quy định nghiêm khắc đối với Xã trưởng
về các tội liên quan đến lập sổ hộ tịch. Như Điều 285 Quốc triều hình luật, chương
hộ hơn quy định nếu các Xã quan làm sổ hộ khẩu mà khai bỏ sót dân đinh, thì từ
một người trở lên xử tội biếm; 6 người trở lên xử tội đồ; 15 người trở lên xử tội lưu;

20 người trở lên xử tội lưu đi châu xa là cùng. Như vậy, có thể thấy trong việc quản
lý dân cư Nhà nước vẫn chỉ dừng lại ở làng xã, thông qua các số liệu được Xã
trưởng báo cáo lên chứ chưa thể tự mình tiến hành điều tra và lập sổ hộ khẩu đến
từng gia đình, từng nhân khẩu.
Hai là, về quản lý kinh tế, thời kỳ phong kiến, nơng nghiệp đóng một vai trị
quan trọng trong nền kinh tế, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống nhân dân. Vì
vậy, ruộng đất – tư liệu sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp luôn là mối quan tâm
hàng đầu của Nhà nước. Vào thời Lê sơ, ruộng đất công vẫn chiếm phần lớn ruộng
đất trong cả nước, hay nói cách khác, Nhà nước sở hữu gần như toàn bộ ruộng đất46.
Tuy nhiên, Nhà nước không thể trực tiếp thực hiện việc canh tác nên đã chia ruộng
đất cho các chủ thể khác nhau trong xã hội canh tác và nộp thuế cho Nhà nước.
Theo đó, Nhà nước thực hiện hai chế độ chia ruộng đất là chế độ lộc điền và chế độ
quân điền. Chế độ lộc điền là nhà vua chỉ chia ruộng đất cho một số nhóm đối
tượng nhất định có cơng lao, phẩm hàm. Cịn theo chế độ quân điền, dựa vào địa vị,
hạng người để phân chia ruộng đất, từ quan viên cho đến những người bị bệnh
nặng, tàn tật, trẻ mồ cơi, vợ góa đều được chia. Nếu trước đây, ruộng công làng xã
do các làng xã tự chia theo tập quán của làng, thì nay theo phép quân điền, Nhà
nước đã can thiệp vào quyền phân chia này của làng xã bằng cách định lệ để các
làng theo đó mà chia. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, Nhà nước chỉ định phần ruộng
của mỗi chủ thể, còn việc định mốc và phân chia vẫn thuộc thẩm quyền của làng.

43
44
45
46

Viện sử học, tlđd (16), tr.223.
Phan Huy Chú, tlđd (40), tr.90.
Viện sử học, tlđd (16),tr.224.
Viện sử học, tlđd (16), tr.289.



13

Theo lệ, cứ 06 năm, ruộng đất công làng xã lại được tiến hành chia lại một lần47.
Việc chia cấp ruộng đất này phải được thực hiện theo đúng pháp luật nếu không sẽ
bị trừng trị nghiêm khắc, Hồng Đức thiện chính thư có chép năm Hồng Đức ngun
niên:
“Ruộng cơng ở bản xã. Phép nước rõ ràng. Phân chia ruộng công để cày cấy
nộp thuế; luật pháp rành rành định rõ cao thấp để ban cấp khác nhau. Điều lệ này
ban ra là để lưu truyền cho hậu thế. Nếu có kẻ nào gian tham, khơng tn theo
pháp luật chiếm dụng quá nhiều thì từ năm Hồng Đức đến nay hình luật đã xét xử
trừng trị rất nghiêm minh, thận trọng. Nay bản xã các quan viên và binh lính được
ban cấp ruộng có khác nhau, nếu ai vi phạm điều lệ này thì bị phạt đánh 80 trượng,
xử tội đồ.”48
Về tổng thể, chính sách ruộng đất thời Lê sơ đã đem lại nhiều ruộng đất cho
nông dân các làng xã, giúp họ duy trì và ổn định đời sống49. Tuy nhiên, cũng phải
khẳng định một điều rằng mặc dù là chính sách qn điền nhưng trong đó chế độ
đẳng cấp vẫn được thể hiện rõ khi mà các đẳng cấp cao hơn được chia phần nhiều
hơn. Và cũng thông qua chính sách này Nhà nước đã biến làng xã thành người quản
lý ruộng đất công cho nhà vua và người nông dân trở thành tá điền cho Nhà nước.
Những làng xã tương đối tự trị trước đây bây giờ trở thành một đơn vị kinh tế phụ
thuộc Nhà nước, vừa cung cấp lương thực, thực phẩm, lao dịch, binh dịch cho Nhà
nước, vừa cung cấp đất đai để Nhà nước ban cho những viên chức của mình50.
Ba là, Xã trưởng cùng với Thơn trưởng có trách nhiệm rất quan trọng trong việc
đảm bảo an ninh trật tự của làng xã. “Nếu các xứ có trộm cướp nhóm họp thì các
quan phủ, châu, huyện, các Xã trưởng, Thôn trưởng của nơi đó đều phải trị tội theo
như pháp luật.”51. Các trai đinh trong làng được tổ chức thành các đội, với vũ trang
thơ sơ gậy gộc thay nhau tuần phịng tự bảo vệ tính mạng tài sản của dân làng.
Chẳng hạn, khi bọn cướp tấn công làng, dưới hiệu lệnh của Xã trưởng (đánh trống

ngũ liên, thổi tù và cấp báo) thì mọi người đều phải hợp lực đánh cướp52. Có thể
thấy rằng, làng xã có trách nhiệm rất lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, Nhà
nước rất ít can thiệp vào vấn đề này.

47

Lệ chia cấp đều phần ruộng đất công – Hồng Đức năm thứ 11 (1480). Xem thêm tại: Phạm Đình Hổ, tlđd

(22), tr.226.
48
Viện nghiên cứu Hán Nôm, tlđd (28), tr.468.
49
50
51
52

Viện sử học, tlđd (16), tr.229-230.
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, tlđd (20), tr.481.
Viện sử học, tlđd (16), tr.204.


14

Cuối cùng là, về quản lý văn hóa, xã hội, trong Hồng Đức thiện chính thư, năm
Hồng Đức thứ 25 (1494) có chép như sau:
“Xã trưởng là người gìn giữ phong hóa, phải khuyên dân làm điều thiện, tránh
xa tội ác, làm cho phong tục trở lại thuần phong thời Thái tổ. Nếu để cho dân kiện
tụng tranh giành lại kết bè đảng lộng hành làm điều sai trái làm cho phong hóa đồi
bại thì sẽ bị tăng mức xử tội đồ”53.

Hay trong Đại Việt sử ký toàn thư năm Quang Thuận thứ 9 (1468) có chép:
“Trẫm nghĩ, người ta sở dĩ khác giống cầm thú là vì có lễ làm khn phép giữ
gìn. Nếu khơng có lễ thì tình dục bừa bãi, phóng đãng xằng bậy, khơng gì khơng
làm. Từ nay về sau, các sắc quan lại, ai được thăng chức hay bổ dụng, thì Lại bộ
phải sức giấy cho phủ, huyện, xã, bắt Xã trưởng phải làm tờ đoan khai là tên ấy đã
đủ tuổi quy định, giá thú làm theo hơn lễ thì mới tâu cho lên để thăng bổ như lệ.
Nếu để cho kẻ xấu lạm dự vào hàng quan chức, thì viên đó bị thích chữ đi đày”54.
Dựa vào các sử liệu trên có nhận định rằng thông qua Xã trưởng, Nhà nước dần
đưa các lễ giáo phong kiến vào đời sống làng xã như đạo vua tôi, cha con, chồng
vợ55. Không chỉ vậy, vua Lê Thánh Tơng cũng đã có sự can thiệp đối với việc lập
hương ước, để từ đó “nắm” quyền quản lý đời sinh hoạt và đời sống tinh thần của
làng xã và đồng thời đưa vào đó ý thức hệ của Nhà nước – đạo lý Nho giáo. Các tục
lệ hay lệ làng là những phong tục, tập quán riêng của mỗi làng xã đã có từ rất lâu
đời, những phong tục này được thể hiện dưới nhiều hình thức nhưng phần nhiều
được truyền khẩu là chủ yếu56. Mãi đến, thời vua Lê Thánh Tông, các tục lệ và lệ
làng này mới được ghi chép thành văn bản gọi là hương ước hoặc khốn ước. Năm
1476, vua Lê Thánh Tơng đã ban hành quy định cấm dân chúng tự tiện lập khốn
ước:
“Nhà nước có điều luật để căn cứ vào đó mà thi hành, quốc dân an khang thịnh
trị khơng cần có những khốn ước riêng. Nếu muốn trừ bỏ các điều tệ hại, theo
chính bỏ tà, trong làng khơng có những tục xấu, muốn lập ra khốn ước điều cấm,
tất phải nhờ vào những người có học thức, có đức hạnh, cao tuổi, thì khốn ước đó
mới có thể tuân hành. Khi khoán ước điều lệ đã lập ra thì phải trình lên để các
quan xem xét các điều khoản có tn theo được hay khơng, rồi mới phê chuẩn giao
cho thi hành. Nếu thấy trong khốn ước có tà ý vì lợi ích riêng thì phê chữ “bác” để
53

Viện nghiên cứu Hán Nôm, tlđd (28), tr.449.

54


Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, tlđd (20), tr.462.
Viện sử học, tlđd (16), tr. 231-236.

55

Nguyễn Thị Thiện Trí (2020), Luận án tiến sĩ: Chế độ tự quản địa phương trên thế giới và vấn đề áp dụng
trong đổi mới tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam, tr.113.
56


15

tránh nảy sinh gian kế. Nếu người nào không dự vào việc lập khoán ước mà lén lút
tụ tập cho phép làng xã tố cáo với nha môn trị tội, để trừ bỏ thói xấu”57
Qua quy định trên có thể rút ra một số ý về quan điểm của vua Lê Thánh Tông
đối với hương ước như sau:
Một là, ngay đầu quy định, nhà vua đã thể hiện rõ tư tưởng pháp trị đó là trị
quốc phải bằng pháp luật, nhà vua không mong muốn sự tồn tại của những quy định
nào khác ngoài pháp luật nhà vua. Tuy nhiên, nhà vua nhận thấy rằng, hương ước
có nguồn gốc từ các phong tục, có sức sống bền bỉ nên dù bị ngăn cản, nó vẫn tồn
tại. Hơn nữa, mặt tích cực rõ nhất của hương ước là tạo ra một sự trật tự và ổn định
cho xã hội làng xã, cùng chung mục đích như luật pháp. Do vậy, nhà vua đã chấp
nhận hương ước tồn tại trong đời sống làng xã. Tuy nhiên sự tồn tại đó phải nằm
trong khuôn khổ của Nhà nước, không đi ngược lại pháp luật và “phong hóa”.
Hai là, hương ước vốn xuất phát từ những phong tục, từ đời sống của làng xã,
do vậy nó như là “tun ngơn về quyền tự trị” và “cương lĩnh về lối sống” của mỗi
cộng đồng cư dân Việt ở nơng thơn58. Vì vậy, muốn có thể quản lý được hương ước,
Nhà nước khơng cịn cách nào khác ngoài việc phải nắm lấy quyền soạn thảo hương
ước. Trong quy định trên của vua Lê Thánh Tông, Nhà nước chỉ cho phép các đại

diện cho quyền lực, giai cấp, đẳng cấp của mình tại làng xã được phép soạn thảo
hương ước. Đó có thể là những người có chức phận chính thức (quan lại về hưu
hoặc quan lại đương chức), người có Nho học, đức hạnh và có tuổi tác, nhìn chung
đây là các chủ thể đã thấm sâu tư tưởng Nho giáo và có quyền lợi gắn với Nhà
nước59. Thơng qua đó Nhà nước dần dần đưa các quy định pháp luật, các chuẩn
mực Nho giáo vào trong hương ước và để điều chỉnh hành vi của dân làng. Khơng
chỉ dừng lại ở kiểm sốt đối tượng soạn thảo hương ước, Nhà nước còn tiến hành
hậu kiểm đối với nội dung của hương ước với quy định: hương ước sau khi soạn
thảo còn phải được kiểm duyệt bởi quan trên, để loại trừ tà ý và các lợi ích riêng
được “cài cắm” vào.
Từ chỗ nghi ngờ và ngăn cản đối với hương ước, vua Lê Thánh Tông đã chấp
nhận hương ước, dùng hương ước để “lệ làng hóa phép nước”, “biến hương ước
thành một cơng cụ để quản lý làng xã” được người nông dân chấp nhận60. Hương
ước tồn tại song hành với pháp luật quốc gia, và cùng với pháp luật quốc gia duy trì
sự ổn định của làng xã.
57
58
59
60

Viện nghiên cứu Hán Nôm, tlđd (28), tr.475.
Bùi Xuân Đính, tlđd (4), tr.287.
Bùi Xuân Đính, tlđd (4), tr.289.
Bùi Xuân Đính, tlđd (4), tr.287.


16

Tóm lại, Nhà nước phong kiến thời vua Lê Thánh Tông với tiềm lực lớn mạnh,
đã đủ khả năng để thực hiện việc quản lý làng xã. Qua đó, làm giảm tính tự trị của

làng xã, góp phần cũng cố nền quân chủ chuyên chế61. Tuy nhiên, nhà vua đã vô
cùng khéo léo khi không can thiệp một cách thô bạo vào làng xã, mà chỉ can thiệp ở
mức độ nhất định ở một số khía cạnh liên quan trực tiếp đến quyền lợi quốc gia như
quản lý hộ tịch, ruộng đất và đời sống văn hóa. Hay nói cách khác, vua Lê Thánh
Tông mặc dù tăng cường quản lý làng xã nhưng vẫn đảm bảo “khơng gian” cho tính
tự trị của làng xã tồn tại. Hơn nữa, Nhà nước cũng chỉ dùng các biện pháp “nhẹ
nhàng” để can thiệp vào làng xã đó là thơng qua Xã trưởng, bộ máy quản lý do dân
làng bầu lên. Điều này phần nào thể hiện sự khôn khéo của nhà vua, tránh đẩy làng
xã vào thế đối nghịch với một Nhà nước trung ương tập quyền62. Tuy vậy, mặc dù
không ngừng tăng cường sự hiện diện của quyền lực Nhà nước ở làng xã nhưng
Nhà nước cũng chỉ mới dừng lại ở “lũy tre làng”, có nghĩa là chỉ quản lý được làng
chứ chưa thể quản lý được từng dân làng.
1.3. Tổ chức làng xã thời vua Minh Mạng
1.3.1. Bối cảnh tiến hành cải cách
Thứ nhất, về mặt xã hội, sau thời Lê sơ, nước ta bước vào thời kỳ nội chiến phân
liệt, kéo dài từ thế kỷ XVI – XVIII, đàng ngoài là sự tồn tại của tập đoàn phong
kiến Lê – Trịnh, đàng trong là do thế lực chúa Nguyễn cai trị. Trong bối Nhà nước
trung ương tập quyền suy yếu như vậy, Nhà nước gần như bất lực trước nhiệm vụ
quản lý người đứng đầu làng xã. Chính điều này đã tạo cơ hội cho bọn cường hào
hoành hành, gây ra muôn vàn tệ nạn ở thôn quê. Người nơng dân Việt Nam vốn hết
sức gắn bó với làng q mình thì bây giờ đây bị bần cùng hóa, phá sản, phải rời bỏ
đồng ruộng, rời bỏ xóm làng đi lang thang kiếm ăn một cách tuyệt vọng. Nông thôn
Việt Nam thế kỷ XVIII đã thực sự tuột ra khỏi tay của các chính quyền phong
kiến63. Đến thời nhà Nguyễn, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã nhận thức được vai
trị quan trọng của làng xã trong chính sách cai trị của mình. Ơng mong muốn cải tổ
lại làng xã, nhưng trong bối cảnh Nhà nước mới thành lập, cũng như chưa tìm ra
được giải pháp thỏa đáng nên xem ra chính sách của vua Gia Long đối với làng xã
chưa có gì mới so với trước64.
Thứ hai, về mặt kinh tế, vào đầu thời Nguyễn, sở hữu tư nhân về ruộng đất ngày
càng phát triển, ruộng đất sở hữu công làng xã ngày càng bị thu hẹp. Quá trình tư

61

Trường đại học Luật Hà Nội, tlđd (13), tr. 153.

Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7)
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
64
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
62
63


17

hữu ruộng đất diễn ra dưới hai hình thức là do sự chiếm đoạt ruộng đất công, “biếm
công vi tư” hay do mua bán chuyển nhượng được Nhà nước công nhận. Hình thức
thứ hai là ruộng đất được hình thành trong quá trình khẩn hoang vùng bãi bồi ven
biển đồng bằng Bắc Bộ cũng như quá trình khai hoang ở các tỉnh miền Nam65.
Chính vì sự gia tăng của ruộng tư như vậy, nên mặc dù rất cố gắng nhưng chính
sách qn điền thời Nguyễn thực hiện khơng được thành cơng. Có thể thấy được
điều đó trong dụ sau đây của vua Minh Mệnh:
“Đời xưa chia ruộng cho dân làm ăn sinh sống khiến cho có của thường có lịng
thường, thực là ý tốt, nhưng ngày nay ngày xưa công việc có khác, từ phép tỉnh điền
bỏ ở đời Tần, trải qua Hán, Đường, Tống về sau, vẫn không làm lại được, tóm lại là
vì đời khác, việc khác, có làm cũng không được, huống chi lâu, sổ sách đã thành,
nay vô cớ cắt lấy của riêng, vốn liếng làm ăn khó nhọc của người, chắc khơng phải
lịng người được yên, mà một phen làm ra thay đổi, sợ chưa thấy lợi, mà đã nhiễu
khơng thể nói xiết. Việc ấy thực không thể làm được”66.
Trong bối cảnh ruộng tư phát triển đã làm trầm trọng thêm mâu thuẫn vốn có
của chế độ phong kiến đó là mâu thuẫn giữa địa chủ và nơng dân. Điều này, địi hỏi

sự can thiệp của Nhà nước vào làng xã nhằm điều hòa mâu thuẫn đó.
Nhìn chung, Vua Minh Mạng lên ngơi trong tình hình xã hội rất phức tạp: ở
nơng thơn, nơng dân đói khổ phải bỏ đi phiêu tán rất nhiều, làng xã chứa chất đầy
rẫy những vấn đề phức tạp67, đặc biệt đó là vấn nạn cường hào đang hồnh hành.
Chính điều này đã dẫn đến những cải cách của ông đối với làng xã, sách Đại Nam
thực lục, năm Minh Mệnh thứ 9 (1828) có chép:
“Bọn hào cường ở Bắc Thành hiếp tróc dân làng khi bầu Lý trưởng, hoặc đem
đồng đảng ra để tiện làm việc gian, hoặc giao cho người hèn nhát để tiện sai khiến.
Đến lúc gặp các việc quan thuế khóa binh dao thì tạ sự mà chia nhau ăn, lại cịn xúi
giục bình dân, ẩn giấu kẻ gian, mối tệ chẳng phải một việc mà thơi. Đến khi binh
lương kiện tụng, có việc trở ngại, cần phải đốc thúc, thì thượng ty địa phương cũng
chỉ đổ về dân nghèo, trách cứ người phần việc, mà bọn hương hào vẫn khơn khéo
mà được thốt ngồi lưới pháp luật. Gần đây lính trốn thuế thiếu, kiện tụng rối ren,
phạm nhân trốn thốt, các tệ chính bởi đấy mà ra, chưa có thể đổ cho bởi dân
nghèo túng bởi tục ngoan bạc được. Bây giờ phải lập phép thế nào để trừ bỏ thói tệ
ấy đi, nên bàn kỹ tâu lên

65

Viện sử học (2017), Lịch sử Việt Nam tập 5, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.254.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập V, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.450.
67
Nguyễn Quang Ngọc, tlđd (7).
66


18

Đến bấy giờ lời bàn tâu lên, xin cho các xã thôn các phường đều đặt 1 Lý trưởng,
định số 50 người trở lên thì đặt thêm 1 Phó Lý trưởng, định số 150 người trở lên thì

đặt thêm 2 Phó Lý trưởng. Đều lấy người vật lực cần cán cho làm, do Cai tổng
cùng dân làng đồng từ bầu cử, phủ huyện xét kỹ lại, bẩm lên trấn để cấp văn bằng
và mộc triện cho. Làm việc được 3 năm, xét ra giỏi giang thì tâu xin khen thưởng,
Lý trưởng sẽ bổ làm Phó tổng ngoại uỷ hay Cai tổng thí sai, Phó Lý trưởng sẽ bổ Lý
trưởng. Người hèn kém tham ơ thì cách đi, người bầu cử cũng phải tội thất sát. Vua
y theo lời bàn”.
Có thể thấy việc cải cách bộ máy quản lý làng xã của vua Minh Mạng trước hết
xuất phát từ mục đích là trừ nạn cường hào để từ đó tăng cường hiệu lực quản lý
của Nhà nước đối với làng xã.
1.3.2. Nội dung cải cách
Về cơ bản, nội dung cải cách của vua Minh Mạng khá tương đồng với vua Lê
Thánh Tơng, đó là tiến hành trên các nội dung: (i) xác định vị trí cấp xã trong hệ
thống tổ chức chính quyền địa phương, (ii) cải tổ bộ máy quản lý làng xã, (iii) tăng
cường chính sách quản lý của Nhà nước đối với làng xã. Với mục tiêu giải quyết
nạn cường hào ở làng xã nêu trên thì việc xác định và biện pháp giải quyết cường
hào cũng là một trong những nội dung quan trọng của cuộc cải cách.
Thứ nhất, vị trí của làng xã trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương. Vào
thời Gia Long, chính quyền địa phương được tổ chức thành bốn cấp: cấp thành (Bắc
thành và Gia Định thành), cấp trấn – dinh, cấp phủ – huyện (châu) và cấp tổng – xã.
Tổ chức chính quyền địa phương như vậy được duy trì cho đến năm Minh Mạng
thứ 12 (1831), vào năm này nhà vua tiến hành cải tổ lại hệ thống tổ chức chính
quyền địa phương: cấp thành đổi thành cấp tỉnh, dưới là cấp phủ – huyện (châu) và
cuối cùng là cấp tổng – xã. Như vậy, có thể thấy, trong suốt giai đoạn từ vua Gia
Long cho đến vua Minh Mạng, xã vẫn là cấp chính quyền cơ sở của Nhà nước.
Thứ hai, nhà vua tiến hành cải tổ tổ chức quản lý làng xã trên hai phương diện
(i) tăng cường sự quản lý của cấp tổng, (ii) tinh gọn bộ máy quản lý làng xã,
Một là, sự xuất hiện cấp tổng trong tổ chức chính quyền địa phương có thể được
xem là điểm đặc biệt trong tổ chức chính quyền địa phương dưới thời của hai vị vua
đầu nhà Nguyễn. Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa huyện với đơn vị hành
chính cơ sở là xã. Đứng đầu cấp tổng là Cai tổng, một chức danh không phải là

công chức Nhà nước68. Cai tổng được tuyển chọn từ người đứng đầu làng xã có
năng lực, đã làm việc lâu năm được phủ huyện giới thiệu tâu lên Bộ Lại, thỉnh vua
68

Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (13), tr. 376-377.


19

cấp văn bằng69. Cai tổng và Lý trưởng hợp thành hệ thống “dân quan” quản lý làng
xã. Về nhiệm vụ, đối với cấp huyện, Cai tổng “theo các phủ, huyện phân phái việc
quan”70. Cịn đối với cấp xã thì: “đến kỳ binh lương thì thu thuế đúng hạn, có trộm
giặt lén lút thì thì hợp sức truy nã bắt, hoặc có cường hào gàn dở thì vạch trõ trị
tội, có kẻ điêu toa, gian dối thì trừng trị, để cho thuế khóa xong đủ, địa phương n
ổn, dân khơng bị tổn hại và khơng bị phiền nhiễu”. Ngồi ra, Cai tổng cịn phải “đốc
suất các Lý trưởng thuộc tổng mình theo các phủ, huyện sai phái làm những việc
bắt lính, diêu dịch, thuế khố, tuần phịng, bắt trộm cướp.”71. Về tổ chức, tổng nào
có số đinh dưới 5000 người, số điền dưới 1000 mẫu thì đặt một viên Cai tổng. Nếu
số đinh từ 5000 người trở lên, số điền từ 1000 mẫu trở lên và cơng việc nhiều thì
cho phép đặt 1 viên Phó Cai tổng72.
Hai là, tổ chức lại bộ máy quản lý làng xã. Tổ chức làng xã thời nhà Nguyễn
bao gồm cơ quan quyết nghị (Hội đồng kỳ mục hoặc Hội đồng tộc biểu) và cơ quan
chấp hành (Lý trưởng)73. Hội đồng kỳ mục (Hội đồng kì hào, Hội đồng làng) với
tính chất là cơ quan nghị quyết của làng xã, do vậy về chức năng, Hội đồng là nơi
thảo luận và quyết định những vấn đề của làng xã. Quyền cai trị trong làng xã hoàn
toàn do Hội đồng kỳ mục đảm nhiệm, nhà vua cũng như các quan triều đình khơng
can thiệp đến, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia như thu thuế, bắt
lính74. Trụ sở họp là đình làng. Về mặt tổ chức, người có quyền cao nhất trong Hội
đồng là tiên chỉ. Tiêu chuẩn để tham gia Hội đồng kỳ mục phải là các thân hào có
danh tiếng trong xã, đó có thể là những người đã đỗ đạt trong các kỳ thi, đã hoặc

đang làm quan, hoặc là những người có tài sản, cao niên và uy tín trong làng. Hội
đồng kỳ mục khơng do dân bầu, chỉ cần thỏa mãn các tiêu chuẩn là đủ điều kiện
tham gia. Về mặt trách nhiện, Hội đồng kỳ mục khơng chịu trách nhiệm trước cơ
quan hành chính Nhà nước mà chỉ chịu trách nhiệm trước dân làng. Tuy nhiên, bởi
vì thành viên của hội đồng là những người có chức tước, phẩm hàm hoặc xuất thân
từ khoa mục, quan trường, do đó Nhà nước có thể thơng qua việc thu hồi bằng cấp,
69

Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (13), tr.377; Nội các triều Nguyễn, Đại Nam hội điển

sự lệ, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.255.
70
71
72
73

Nội các triều Nguyễn, tlđd (69), tr.255.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập III, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.1094.
Nội các triều Nguyễn, tlđd (69), tr.236.
Trường đại học Luật Hà Nội, tlđd (6), tr.268; Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (13),

tr.377, 380 -382; Trần Hồng Nhung (2017), Thiết chế tổ chức, quản lý ở làng, xã đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ
XIX và những bài học kinh nghiệm,
/>_va_nhung_bai_hoc_kinh_nghiemall.html, truy cập lần cuối ngày 14/6/2022.
74
Nguyễn Thị Thiện Trí, tlđd (56), tr.131-132.


20


hạ phẩm tước để kiểm soát các thành viên của Hội đồng, từ đó nằm quyền kiểm sốt
đối với cơ quan này75. Về cơ quan chấp hành: nếu trước đây là do Xã trưởng đảm
nhiệm thì đến thời vua Minh Mạng được đổi thành Lý trưởng. Trong đoạn trích năm
Minh Mạng thứ 9 (1828) nêu trên quy định rằng: tại mỗi xã thơn sẽ chỉ có một Lý
trưởng, nếu định số người trên 50 thì thêm một Phó Lý, trên 150 người thì được đặt
thêm một Phó Lý nữa. Lấy người vật lực cần cán, do Cai tổng và dân làng đồng bầu
cử, phủ huyện xét kỹ lại, bẩm lên trên để cấp văn bằng, mộc triện. Định lệ, cứ ba
năm sẽ xét hạch lại, nếu giỏi giang thì cho khen thưởng hoặc thăng cấp, nếu tham ơ,
hèn kém thì bãi chức và người bầu cử cũng phải chịu tội. Nhiệm vụ của Lý trưởng
là thi hành các mệnh lệnh của Hội đồng kỳ mục và thực hiện các nhiệm vụ được
Nhà nước giao phó76.
Như vậy, có thể thấy, bộ máy quản lý làng xã thời vua Minh Mạng vô cùng gọn
nhẹ, tinh giảm hơn nhiều so với thời vua Lê Thánh Tông. Điều này vừa giúp hoạt
động của bộ máy quản lý làng xã hoạt động có hiệu quả hơn, vừa đảm bảo tăng
cường hiệu lực quản lý Nhà nước. Qua đó, phục vụ tốt hơn yêu cầu tăng cường
quản lý của Nhà nước đối với làng xã để trừ đi nạn cường hào đang hoành hành.
Hơn nữa, để đảm bảo sự hiệu quả trong công tác tổ chức bộ máy, nhà vua còn gắn
trách nhiệm của người bầu cử với những sai phạm của người đứng đầu làng xã
trong q trình cơng tác.
Thứ ba, nhìn chung chính sách quản lý của Nhà nước đối với làng xã dưới thời
Minh Mạng vẫn tập trung vào các lĩnh vực như quản lý hộ tịch, ruộng đất và gìn giữ
phong hóa trong làng xã như chính sách trước đây của vua Lê Thánh Tông. Cũng
thông qua người đứng đầu làng xã – Lý trưởng, Nhà nước thực hiện việc quản lý
đối với làng xã77. Ngồi ra, đối với chính sách tư pháp, Nhà nước cho phép bộ máy
quản lý làng xã được phép tham gia vào quá trình xét xử. Trong Đại Nam thực lục
tập III có chép:
“Hồng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, khi mới đại định, trong dân gian, phàm
những việc kiện cáo nhỏ đều cho Lý trưởng xử miệng trước, nếu cịn có sự oan
khuất ức hiếp thì mới được theo thứ tự, kiện lên phủ, huyện. Cho nên văn án được
bớt đi mà tiểu dân nhờ đó được n ổn. Kính nghĩ Hồng khảo là bậc đại thánh


75

Trường đại học Luật Hà, tlđd (6), tr.268 – 269.

Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (13), tr.381.
Như trong Điều 2 quyển VI, Bộ Quốc triều hình luật, phần hộ dịch có quy định Xã trưởng có trách nhiệm
trong việc lập sổ đinh. Hay trong Điều 1 phần điền trạch cùng quyển nêu trên quy định rằng Lý trưởng quản
lý điền trạch.
76
77


×