Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Khái niệm, giải nghĩa và việc sử dụng thuật ngữ 'vấn đề dân tộc'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.59 KB, 33 trang )

Viện Dân tộc







Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện chuyên đề:

Khái niệm, giải nghĩa và việc sử dụng
thuật ngữ "vấn đề dân tộc"


Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Nhiên













8623

Hà nội - 2010



1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh
chiếm đa số, dân tộc thiểu số gồm 53 dân tộc anh em. Trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. "thực hiện tốt chính sách các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát tri
ển", là sức mạnh để đảm
bảo sự phát triển bền vững, đạt tới mục tiêu chung là: Độc lập, dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh". Trong tiến trình phát triển của đất nước, trong bất kể thời kỳ nào, dù
chiến tranh hay hoà bình vấn đề dân tộc luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, ứng vớ
i
mỗi thời kỳ, thì nội dung vấn đề dân tộc được đặt trong mối quan hệ phát triển
chung của đất nước phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Trong
suốt những năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, vấn đề dân tộc được các nhà
yêu nước, mà tiêu biểu là thời đại của chủ tịch Hồ Chí Minh đó là đánh đuổi
thực dân pháp xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, nguỵ quân, nguỵ quyền vấn đề dân tộc vẫn là vấn đề đánh đủôi
đế quốc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc ở nước ta những năm gần đây được quan tâm nghiên cứu
trên nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận và thự
c tiễn. Tuy nhiên, chưa có một
công trình nào tổng kết và đánh giá một cách đầy đủ về nội hàm của thuật ngữ
“vấn đề dân tộc”. Do đó, với tư cách là đơn vị nghiên cứu duy nhất của cơ quan
làm công tác dân tộc ở Trung ương, việc tiếp cận và phân tích nội hàm cũng
như cách sử dụng thuật ngữ vấn tộc dân tộc là hết sức cần thiết trong bối cảnh

hiện nay với rất nhiều vấn đề được đặt ra đối với sự phát triển của các dân tộc
thiểu số.
2. Mục tiêu
2

Thông qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn nội dung của vấn đề dân tộc
nói chung và của Việt Nam nói riêng đưa ra được nội hàm của vấn đề dân tộc là
gì và cách sử dụng thuật ngữ vấn đề dân tộc trong từng trường hợp cụ thể.
3. Phạm vi
Chuyên đề tập trung nghiên cứu vị trí, vai trò, nội dung và ý nghĩa của
vấn đề dân tộc trong quá trình phát triển trong các giai đoạn từ năm 1946 trở lạ
i
đây
4. Đối tượng nghiên cứu
- Các khái niệm, quan niệm về dân tộc, vấn đề dân tộc theo quan điểm
của Mác – lê Nin; của Hồ Chí Minh và trong các văn kiện đại hội, nghị quyết,
chỉ thị, chiến lược phát triển kinh tế xã hội…
- Nội dung của vấn đề dân tộc trong các giai đoạn lịch sử từ 1946 trở lại
đây
5. Nội dung
Chuyên đề tập trung nghiên cứu m
ột số nội dung chính:
- Khái niệm, quan niệm, vị trí, vai trò của dân tộc, vấn đề dân tộc trong
tiến trình phát triển của đất nước từ năm 1946 trở lại đây.
- Vấn đề dân tộc trong mối quan hệ chung của phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá, an ninh, quốc phòng…
- Đưa ra nhận xét về cách sử dụng thuật ngữ “vấn đề dân tộc” hiện nay;
- Những kiến nghị cho việc sử
dụng thuật ngữ “vấn đề dân tộc” cho đúng
và chính xác trong từng trường hợp.

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp kế thừa tài liệu thứ cấp
Chuyên đề đã sử dụng các tài liệu, tổng hợp các tài liệu liên quan về dân
tộc, vấn đề dân tộc qua các quan điểm của Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
3

Minh, của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1946 trở lại đây; thực trạng kinh tế - xã
hội các dân tộc thiểu số hiện nay và những vấn đề dân tộc đặt ra trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay
6.2. Phương pháp tổng hợp, phân tích
Thông qua nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu về các vấn đề liên quan đến
nội dung của chuyên đề đã tổng hợp, phân tích và kế
thừa những luận điểm
khoa học đã được nghiên cứu
6.3. Phương pháp so sánh
Từ nghiên cứu tài liệu thứ cấp, tổng hợp, phân tích và so sánh các luận
điểm khoa học đã được nghiên để đưa ra khái niệm và nội hàm của thuật ngữ
Vấn đề dân tộc” theo cách hiểu chung nhất.
7. Cấu trúc của báo cáo
Chuyên đề có cấu trúc ngoài phần mở đầu và kết luận đi sâu vào 3 phần
chính:
I. V
ấn đề dân tộc – Quan niệm và những giá trị cốt lõi
1. Dân tộc
2. Vấn đề dân tộc
2.1. Theo quan điểm Mác-Lênin
2.2. Theo quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh
2.3. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
II. Vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc
1. Nhận thức hệ quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc trong nghị Quyết

trung ương 7 khóa IX
2. Một số vấn
đề cần quan tâm về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay
2.1. Về quan điểm
4

2.2. Về kinh tế - xã hội
2.3. Về An ninh – Quốc phòng
2.4. Về Văn hóa
2.5. Về Môi trường
2.5.Vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác dân tộc
2.6. Hệ thống chính trị cơ sở
III. Một số vấn đề khi sử dụng thuật ngữ “Vấn đề dân tộc”
1. Đề xuất việc sử dụng khái niệm thuật ngữ “vấn đề dân tộc”
2. Kiến nghị
8. Kinh phí thực hiệ
n chuyên đề
3.000.000đ (Ba triệu đồng chẵn – Kinh phí nghiên cứu khoa học cấp Viện
năm 2010)













5

I. VẤN ĐỀ DÂN TỘC – QUAN NIỆM VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT
LÕI
1. Dân tộc
Trước khi tìm hiểu khái niệm và nội hàm của thuật ngữ “vấn đề dân tộc”
chúng ta xem xét khái niệm và nội hàm của thuật ngữ “dân tộc”
Xung quanh khái niệm về dân tộc đã có rất nhiều học giả bàn luận tới
trong suốt thế kỷ XX cho tới nay. Dưới nhiều nhìn nhận cũng như các trường
phái khác nhau, cũng như sự
thay đổi về thể chế chính trị ở mỗi quốc gia, sự
thay đổi và phát triển của các dân tộc thì khái niệm “dân tộc” cũng chưa có sự
thống nhất.
1
Trong hệ tư tưởng Đức, Các Mác và Ăngghen viết năm 1845-1846
cho rằng, hoàn cảnh xuất hiện dân tộc chính là “Sự đối lập giữa thành thị và
nông thôn xuất hiện cùng với bước quá độ từ thời kỳ dã man sang thời đại văn
minh, từ chế độ bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa phương lên dân tộc và cứ tồn tại
mãi mãi suốt toàn bộ lịch sử”
V.I. Lê Nin nhiều lần nói đế
n sự hình thành dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa tư bản hay nói đúng hơn là bàn về dân tộc tư sản. V.I.Lê Nin cho rằng
cộng đồng tộc với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, là kết quả của sự chiến thắng
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với phương thức sản xuất phong
ki
ến.
Năm 1913 trong tác phẩm chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, Stalin đã đưa
ra định nghĩa về dân tộc “Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được thành
lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt

kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hóa”
Theo quan niệm dân tộc theo Stalin như vậy thì có thể thấy rằng khi nói
về dân tộc cần có các điểm cần phải chú ý đó là: Thứ nhất, dân tộc chỉ có thể
hình thành được khi nó bao gồm đủ 4 đặc trưng có thể nói trên. Thứ hai, dân
tộc được hình thành trong thời đại tư bản chủ nghĩa. Nếu đúng như định nghĩa

1
PGS,TS. Lê Ngọc Thắng, Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, tr15, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005
6

trên thì một số dân tộc trên thế giới như Do Thái không phải là một dân tộc, vì
không có cộng đồng lãnh thổ và kinh tế, vì trước đây họ rải rác khắp nơi trên thế
giới. Nhưng trên thực tế họ là một dân tộc. Cũng như vậy, chiếu theo định nghĩa
của Stalin thì ở nước ta, hoàn cảnh các dân tộc cư trú xen kẽ và phân tán cao độ
thì danh mục các dân tộc nước ta làm sao lên đến con số 54.
Và hạn chế
của định nghĩa của Stalin về dân tộc đó là Stalin không đề cập
đến những đặc điểm khác của dân tộc như quan hệ chính trị, nhà nước dân tộc,
luật pháp, lợi ích. Ông cũng cho rằng dân tộc là một phạm trù lịch sử gắn liền
với chủ nghĩa tư bản đang lên, còn trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện không
thể có dân tộc. Đây đượ
c xem là một quan niệm phi lịch sử, không đúng với
thực tế lịch sử.
Đối với Việt Nam trong khi giới khoa học còn bị ràng buộc bởi định
nghĩa của Stalin về dân tộc thì năm 1946 đồng chí Lê Duẩn đã đưa ra quan
điểm cho rằng ở Việt Nam dân tộc được hình thành từ khi lập nước chứ không
phải khi chủ nghĩa tư bản nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam.
Vậy n
ội hàm cụ thể của thuật ngữ dân tộc là gì? Đã có rất nhiều ý kiến
khác nhau và hiện nay nhiều người cho rằng, tộc người (dân tộc) là một nhóm

người xã hội đặc thù, được hình thành không phải do ý muốn chủ quan của con
người, mà là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử. Tôi cho đồng tình với
khái niệm về dân tộc và tộc người được đưa ra bởi GS.TS. Hoàng Chí Bảo như
sau:
Dân tộ
c hay quốc gia – dân tộc (nation) là một cộng đồng chính trị - xã
hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, có
một tên gọi, một ngôn ngữ hành chính (trừ trường hợp cá biệt), một sinh hoạt
kinh tế chung, với những biểu tượng văn hóa chung, tạo nên một tính cách dân
tộc.
Tộc người hay dân tộc (theo thuật ngữ thường dùng) – ethic, là một cộng
đồng mang tính tộ
c người, có chung một tên gọi, một ngôn ngữ (trừ trường hợp
7

cá biệt), được liên kết với nhau bằng những giá trị sinh hoạt văn hóa tạo thành
một tính cách tộc người, có chung một ý thức tự giác tộc người, tức là có chung
một khát vọng cùng chung sống, có chung một số phận lịch sử thể hiện ở những
ký ức lịch sử (truyền thống, lịch sử, huyền thoại, kiêng cữ)
Một tộc người không nhất thiết phải có cùng một lãnh th
ổ, một cộng đồng
sinh hoạt kinh tế, có thể ở tầm quốc gia dân tộc khác nhau.
Nhóm địa phương (groupe local) của một tộc người, có một tên gọi riêng
phổ biến trong vùng do có ý thức tự giác về tộc người và về nhóm địa phương
mà mình là thành viên
2

2. Vấn đề dân tộc
Như vậy, mặc dù cũng đã có rất nhiều ý kiến, quan niệm về thuật ngữ dân
tộc, nhưng cho tới nay vẫn là khái niệm đặt ra cho các học giả, các nhà khoa học

bàn luận tiếp. Cũng như vậy, vấn đề dân tộc cũng luôn gắn liền với tiền trình
lịch sử, ở mỗi thời kỳ thì vấn đề dân tộc được đặ
t ra với những nội dung khác
nhau đáp ứng với từng tiến trình phát triển của mỗi quốc gia.
2.1. Theo quan điểm của Mác – Lênin
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập
trường của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin
chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyế
t đúng
đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập
mối quan hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ
ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân
tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, phải t
ự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp
dân tộc, không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –
Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của

2
GS,TS. Hoàng Chí Bảo, Chủ biên, “Đảm bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay “, NXB Chính trị Quốc gia, tr35
8

mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp
bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho
dân tộc mình và cho dân tộc khác.
GS,TS. Hoàng Chí Bảo đã đúc kết lại những luận điểm cơ bản của Mác
và Ăng ghen về vấn đề dân tộc như sau
3
:

- Công bằng, bình đẳng giữa người và người phải gắn liền với công bằng,
bình đẳng trong quan hệ dân tộc
- Chỉ có xóa bỏ ách áp bức bóc lột giữa người với người, xóa bỏ sự khác
biệt về giai cấp và áp bức giai cấp thì mới xóa bỏ được ách áp bức dân tộc này
với dân tộc khác
- Giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền, thông qua chính quyền
mà giải quyết những vấn đề về công bằ
ng, bình đẳng trong quan hệ dân tộc.
- Đối với dân tộc bị áp bức, giải phóng dân tộc là điều kiện trước tiên để
thực hiện công bằng, bình đẳng dân tộc
- Bình đẳng dân tộc cần đặt trong quan hệ với quyền tự quyết dân tộc
(bao hàm cả việc phân lập về chính trị, đối với dân tộc bị áp bức và việc tự
nguyện liên hiệp lại thành liên bang)
- Đoàn kết giai c
ấp công nhân trong tất cả các quốc gia dân tộc là điều
kiện cơ bản nhất để phát huy bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết
quốc tế và đoàn kết các dân tộc.
- Trong từng quốc gia đa dân tộc, chính sách của nhà nước sẽ quyết định
xu hướng phát triển của quan hệ dân tộc – tộc người. Chỉ có chính sách của nhà
nước, của giai cấp công nhân mới bảo
đảm được công bằng, bình đẳng giữa các
dân tộc

3
GS,TS. Hoàng Chí Bảo, Đảm bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển Kinh tế -
xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr54,55
9

Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác,

vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới,
cách mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận c
ủa cách mạng vô sản, Lênin
mới phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin
cho rằng cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không
liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu
của Mác được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại.” Lênin đã th
ực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng
trong các nước thuộc địa.” Lênin đã chọn lọc, kế thừa, bổ sung những quan
niệm nêu trên của Mác và Ăngghen, phát triển thành những quan niệm mang
tính hệ thống của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc,
công bằng, bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc trong những điều kiện lị
ch
sử mới Trong các tác phẩm của mình Lênin đã luận chứng một cách khoa học
cho những luận điểm có tính chất cương lĩnh của Đảng mác xít về vấn đề dân
tộc, về quyền bình đẳng của các dân tộc và về quyền tự quyết của các dân tộc
thiểu số; về quyền tự quyết của các dân tộc, kể cả quyền phân lập về mặt nhà
nướ
c; về ngôn ngữ và quyền bình đẳng về ngôn ngữ
Vấn đề dân tộc được Lênin đề cập tới với những giác độ như: bình đẳng
dân tộc thể hiện ở bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; quyền dân tộc
tự quyết thể hiện ở quyền phân lập và thành lập quốc gia riêng biệt nhưng cũng
khẳng định rằng, quyền tự quyết hoàn toàn không có ngh
ĩa là nhất thiết phải
tách khỏi nước lớn trong mọi điều kiện.
Theo quan điểm của Lênin thì đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các dân
tộc chính là điều kiện giải quyết tốt các quan hệ dân tộc, thực hiện quyền bình
đẳng và quyền dân tộc tự quyết trên thực tế.

10

Lênin đã nêu rõ quan điểm cần thiết phải xây dựng những quy tắc và phải
sớm có bộ luật thật chi tiết về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, để tránh sự lạm
dụng và những sai lầm trong hoạt động thực tiễn do ảnh hưởng của chủ nghĩa
dân tộc. Lênin đã đề cập rất nhiều vấn đề dân tộc trong nhiều tác phẩm của
mình, ông luôn kh
ẳng định các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được
quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.
2. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đã
nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, l
ựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa
phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh
đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.
Theo quan điểm c
ủa người các nước thuộc địa phương Đông không phải
làm ngay cách mạng vô sản mà trước tiên phải giành độc lập dân tộc. Với luận
điểm này Người cũng khẳng định rằng để giải phóng giành độc lập dân tộc các
nước thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn
kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế gi
ới để phải đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước
ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng

phải cương quyết giành cho được độc l
ập.”
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh
đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được
11

quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi
bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việ
t Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con
người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người
dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều ki
ện để dân tộc
Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các
dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận
và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá
bỏ nghèo nàn và lạc hậ
u, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi
người, mọi dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở
cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp
cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập,

có tự do mà nhân dân vẫn đ
ói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý
nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục
của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải
phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo
nàn và lạc h
ậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự
12

cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh
và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam.
Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.”
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như m
ột, là chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải
phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ
các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghi
ệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất

nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân
đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc,
già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần
được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt, đó là chủ ngh
ĩa xã hội.”
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn luôn đấu tranh phê phán những biểu hiện tư tưởng dân
tộc lớn, xem thường dân tộc nhỏ hoặc dân tộc hẹp hòi, cục bộ, tự ti dân tộc.
Khẳng định công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc
đa số trên
đất nước ta. Người nói “Các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến
13

gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng
chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các
dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của
chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc ở Việt Nam: “Chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải
đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi
phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.”
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà
chính Người là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực ti
ếp tổ chức khối đại
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ,
hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân

tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam
được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; Thành công, thành công, đại thành công”
Sự
quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí
Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành,
từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và
thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến mộ
t thực tế của đời sống thế giới, là
người dân của nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược
lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm
chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm và chủ trương chính sách khác
nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương
đoàn
kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất
14

tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng
thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện
với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm
chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu
phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, ph
ục vụ nhân dân,
trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện
thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi
Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:

“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối
với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta ph
ải lịch sự. Đối
với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc
văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng
thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, không có thể và
không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta
chóng thành công.”
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh c
ũng thể hiện quan
điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng
cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công
dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới
đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng trong
đời số
ng kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những cuộc xung
đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam.
Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em, trong
thư, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta đối với bà con Hoa Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam: “Chính phủ
nhân dân lâm thời Vi
ệt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp của Pháp
trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ bản là bảo đảm tự do,
15

hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức xây dựng nước Việt
Nam mới.
Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì
giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường
nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây

điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…”
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm
của Hồ Chí Minh là tôn tr
ọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công
việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng
giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng định
trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung s
ướng và quyền tự do”
Như vậy, từ việc trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, trong
hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng đúng đắn mà
còn sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đối với Lê Nin về vấn đề dân
tộc ông đã đề ra chính sách dân tộc của chính đảng của giai cấp vô sản Nga để
giải quyết vấn đề dân tộc
ở một nước lớn, vốn là đế quốc Nga Sa hoàng với các
nguyên tắc cơ bản là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền
tự quyết, liên hiệp công nông tất cả dân tộc lại thì Hồ Chí Minh trong tư tưởng
của người về vấn đề dân tộc ở nước ta, vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến,
lại rất quan tâm đến vấn đề bình đẳng, đoàn kết, tươ
ng trợ và giúp đỡ nhau cùng
phát triển giữa các dân tộc.
Đúc kết lại suốt quá trình hoạt động cách mạng bốn nguyên tắc cơ bản
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc được đưa ra đó là: Bình đẳng
dân tộc, đoàn kết dân tộc, tương trợ giữa các dân tộc, các dân tộc giúp nhau
cùng phát triển. Bốn nguyên tắc trên là một thể thống nhất, mỗi nguyên tắc có
một vị
trí riêng và có tầm quan trọng lớn lao, gắn bó hữu cơ với nhau, bổ sung,
16


hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm cho Đảng ta giải quyết thắng
lợi vấn đề dân tộc trong một quốc gia Việt Nam đa dân tộc.
3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
Chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin và nhữ
ng quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được
cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm ph
ấn khởi và đầy tin tưởng,
cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành
thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Trước khi đi sâu về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộ
c
tôi xin trích tham luận của đồng chí Cư Hòa Vần tại đại hội đại biểu lần thứ X
của Đảng Cộng sản Việt Nam như sau: "Có thể khẳng định rằng chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam mới là người đem đến cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
quyền chí bình đẳng như ngày nay. Các dân tộc trong cộng đồng đại gia đình
các dân tộc Việt Nam từ chỗ
bị áp bức, bóc lột dưới sự đô hộ của thực dân đế
quốc đã trở thành những thành viên làm chủ đất nước Việt Nam độc lập thống
nhất. Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường mạnh mẽ hơn bất
cứ lúc nào. Đồng bào các dân tộc đời đời ghi nhớ công lao to lớn của Bác Hồ và
Đảng Cộng sản Việ
t Nam, mãi mãi theo lời dạy của Bác Hồ là "dân tộc Việt
Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi", " Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay Dao,

Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính
17

phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ
để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ
để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau,
tôn trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta
và con cháu chúng ta", không kẻ thù nào có thể chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết
mà Bác Hồ và Đả
ng ta đã xây dựng nên. Sự thất bại nhục nhã của bọn phản
động gây rối ở Tây Nguyên tháng 2/2001 đã chứng minh điều đó. Đồng bào các
dân tộc đều đã cực lực lên án và chống lại bọn phản động lợi dụng vấn đề dân
tộc để hoạt động trái với Chính sách và Pháp luật của Đảng và Nhà nước ta,
hòng kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
4

Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ "nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam". Các dân tộc thực hiện quyền làm
chủ của mình bằng hai hình thức, trực tiếp và đại diện. Dân chủ đại diện qua hệ
thống cơ quan dân cử cho thấy: Đại biểu Quốc hộ
i khóa X là người dân tộc
thiểu số chiếm 17,3%, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh chiếm 18,2%, huyện
chiếm 18,7%, xã chiếm 22,7% so với tổng số đại biểu dân cử cấp đó. Điều đó
đã thể hiện được sự bình đẳng giữa các dân tộc trong việc tham gia quản lý Nhà
nước.
Như vậy, có thể thấy rằng từ khi ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định vấ

n đề dân tộc có vị trí chiến lược của cách mạng trên nền tảng tư
tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc.Trong từng giai đoạn cách mạng, vấn đề dân tộc được nhận thức và giải
quyết theo các quan điểm cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra. Từ Đại
hội I đến Đại hội l
ần thứ X của Đảng, vấn đề dân tộc luôn được quan tâm và
không thể thiếu trong định hướng quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân
tộc.

4
Tham luận của đồng chí Cư Hòa Vần đại biểu Đảng bộ khối 1 các cơ quan Trung ương, tại Đại hội
đại biểu lần thứ 9 Đảng Cộng sản Việt Nam
18

Đại hôi I (tháng 3 năm 1935), Đảng đã thông qua nghị quyết về công tác
dân tộc thiểu số. Nghị quyết đã "xác định “cho các dân tộc thiểu số được quyền
tự quyết” và “lực lượng tranh đấu của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất
lớn”; chống địa phương chủ nghĩa, chống miệt thị dân tộc mà không thấu rõ tinh
thần quốc tế…. Nghị quyết cũ
ng đề ra cho Trung ương và các xứ ủy (trong
những tỉnh có dân tộc thiểu số) phải cử ra một số người chuyên môn nghiên cứu
và chỉ đạo công tác vận động các dân tộc thiểu số. Chính những yếu tố nêu trên
của sự đoàn kết toàn bộ các dân tộc đã góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi
của cách mạng tháng 8 năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đến đại hội II c
ủa Đảng năm 1951 đã nêu rõ : “Các dân tộc sống trên đất
Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để
kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành
động gây hận thù, chia rẽ các dân tộc. Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về
mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Cụ thể hóa Ngh

ị quyết Bộ Chính trị
tháng 8/1952 đã ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số với những nội
dung chính đó là việc vận động các dân tộc thiểu số được xem là một trong
những công tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, mặt trận và Chính phủ và
được xem là chính sách quan trọng trong chính sách đại đoàn kết của Đảng.
Trong nội dung của nghị quyết cũng đã đề cập tới các nộ
i dung cụ thể về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự
Đại hội III của Đảng với chủ trương “Đảng và Nhà nước cần phải có kế
hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa miền núi làm cho miền
núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số”
5

Đại hôi IV của Đảng diễn ra sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, nước nhà hoàn toàn độc lập và thống nhất, Đảng chủ
trương đưa nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội với việc xác định: “Giải quyết

5
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.937
19

đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược
của cách mạng Việt Nam”
6

Tiếp theo đó đại hội V cũng đã chỉ rõ: “Đảng phải lãnh đạo thực hiện tốt
Nghị quyết đại hội IV về chính sách dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để
giải quyết kịp thời những vấn đề mới về công tác dân tộc Nhà nước phải tăng
cường đầu tư cho các vùng dân tộc và đời sống của đồng bào các dân tộc, đáp
ứng kịp thời các yêu cầu cấp bách về sản xuất và đời sống của đồng bào các dân

tộc, nhất là ở vùng cao, vùng biên giới”
7

Đại hội VI là đại hội của việc khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện,
bắt đầu đổi mới trong tư duy, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Trong đó vấn đề dân tộc
cũng được đề ra theo tinh thần đổi mới với những quan điể
m “Sự tăng cường
tính cồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng,
tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong
bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài
và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có
thái độ trân trọng đối với những gì liên quan đến lợ
i ích của mỗi dân tộc, tỉnh
cảm dân tộc của mỗi người. Chống thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân
tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi”
8
. Đồng thời đại hội
VI cũng đã đưa ra những nội dung của chính sách dân tộc đó là phát triển kinh
tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy
đủ chính sách dân tộc, phát triển tốt mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc
trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ tập thể; kết hợp
phát tri
ển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống
con người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ.

6
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.605
7
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, t.I, tr.133

8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.98
20

Tiếp sau những tư tưởng đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986
là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua đại hội VII cùng với văn kiện, nghị quyết Đại hội với những
quan điểm chủ đạo: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộ
c, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn
minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín
ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị
và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù h
ợp với đặc thù của
các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”
9

Đại hội VIII đã cụ thể hóa những tư tưởng, quan điểm của Đảng từ đại
hội VII thành những chủ trương, chính sách, dự án và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội tại các vùng đa dân tộc của Nhà nước, của Chính phủ. Ngoài Hiến
pháp, chúng ta có tới 26 luật, bộ luật và 3 pháp lệnh có đề cập tới vấn đề dân
tộc.
Đại hội Đảng lần thứ IX c
ủa Đảng đã tổng kết từ thực tiễn và kinh
nghiệm của 15 năm đổi mới, bổ sung và hoàn thiện hệ mục tiêu đổi mới của
nước ta trong đó có vấn đề dân tộc. “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việ
t Nam; là nguồn

sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
10

Đại hội X (4/2006): “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;

9
Đảng Cộng sản Việt nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự
thật, Hà Nội, 1991, tr.16
10
Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.13

21

cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh
tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình
độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền
thống tốt đẹp của các dân tộc…”
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VẤN ĐỀ DÂN T
ỘC TRONG TIẾN
TRÌNH PHÁT TRIỂN CUẢ ĐẤT NƯỚC TỪ NĂM 1946 TRỞ LẠI ĐÂY
1. Nhận thức hệ quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc trong nghị
Quyết trung ương 7 khóa IX
Sở dĩ chuyên đề muốn đề cập sâu về nghị Quyết trung ương 7 Khóa IX về
vấn đề dân tộc bởi lẽ đây được xem là nghị quyết mà hệ quan điểm c
ủa Đảng

được nêu trong Nghị quyết là toàn diện và có tính hệ thống. Bao hàm đầy đủ,
đúc kết toàn bộ quá trình phát triển cũng như vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc trong suốt tiến trình phát triển của đại gia định các dân tộc
Việt Nam tính từ năm 1946 trở lại đây.
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản và
lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay
Hai là, Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hôi chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị
, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc, quan tâm phát
triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số, giữ gìn và phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số
, giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa
22

truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng
đồng và dân tộc Việt Nam thống nhất
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của vùng dân tộc và miền
núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo
v
ệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của

toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống
chính trị.
2. Một số v
ấn đề cần quan tâm về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay
Qua những phân tích trên có thể đưa ra một số vấn đề cần quan tâm khi
giải quyết vấn đề dân tộc trong quốc gia đa dân tộc như nước ta hiện nay.
2.1. Về quan điểm
Lấy quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc là tư tưởng chủ
đạo xuyên suốt khi xem xét, đề ra các giải pháp
mang tính chiến lược đối với vấn đề dân tộc ở nước ta trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”, phải luôn “lấy dân làm gốc” trong mọi hoạt động, với phương
châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”; thực hiện chính sách “an dân”; mỗi
công trình, mỗi việc làm đều phải thực sự xu
ất phát từ quan điểm “do dân, vì
dân”, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng-an
ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, giải quyết vấn đề dân tộc, trên thực tế, không dừng lại ở những
vấn đề chung, ở bình diện vĩ mô mà còn phải đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể ở
cơ sở, ở bình diện vi mô củ
a nó, đó là đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu
23

số tại các thôn làng, ấp bản, phum sóc trên tất cả các vùng, miền, địa phương
trong cả nước.
2.2. Phát triển kinh tế - xã hội
Đối với tình hình hiện nay thì giải quyết nhiệm vụ cấp bách, bức xúc
trước mắt trong lĩnh vực kinh tế, đồng thời có chương trình, kế hoạch lâu dài
phát triển kinh tế vùng và miền núi phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội của cả nước nhằm
đưa các vùng dân tộc và miền núi đạt được trình độ
phát triển chung của cả nước, khai thác được tiềm năng và thế mạnh của vùng,
miền, thay đổi căn bản cuộc sống và mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu
số.
Biến đổi kinh tế ở các vùng dân tộc và miền núi phải đem lại cho đồng
bào dân tộc thiểu số có cuộc sống hằng ngày no đủ, thoát khỏi tình trạng
đói
nghèo triền miên. Phải làm cho người dân và hộ dân có đất sản xuất, có nhà ở
và các phương tiện sinh hoạt, định canh, định cư, để ổn định cuộc sống và phát
triển sản xuất theo phương thức sản xuất tiến bộ, nhờ đó đủ ăn, đủ mặc mà từng
bước vươn tới khá giả, giàu có. Những vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu
số th
ời gian tới cần phải giải quyết:
Phát triển kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xoá đói, giảm nghèo,
phát triển vùng dân tộc thiểu số với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nói chung nguồn đầu tư của Nhà nước
vào các vùng dân tộc mang lại hiệu quả thấp, đầu tư thiếu chính xác, dẫn tới
tình tr
ạng thất thoát và lãng phí. Sự lãng phí thể hiện ở chỗ: thứ nhất, do đầu tư
dàn trãi, thiếu trọng điểm nên không thể tập trung nguồn lực vào những nơi,
những việc cần thiết; thứ hai, nơi thực sự được đầu tư thiếu sự chuẩn bị để tiếp
thu, sử dụng các nguồn lực, gây ra tình trạng thất thoát vốn; thứ ba, tính chủ
động của các dân t
ộc còn nhiều hạn chế, chưa khắc phục được thói quen ỷ lại
vào nhà nước, tăng cường hợp tác với Nhà nước, với các dân tộc khác. Điều này
thể hiện rõ hơn đối với các dân tộc thiểu số thuộc địa bàn đặc biệt khó khăn bởi
24

lẽ đó là những địa bàn có giao thông đi lại khó khăn, mức độ tiếp cận với văn

hoá – xã hội còn nhiều hạn chế.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn.
Cần giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như tình trạng thiếu lương
thực, thi
ếu nước sinh hoạt, xóa nhà tạm bợ, tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất,
giải quyết cơ bản cơ sở hạ tầng cho đồng bào (giao thông, điện sinh hoạt)
Giải quyết tốt tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và tình trạng tranh chấp
đất đai. Vấn đề về đất đai được xem là một trong những vấn đề nổi cộ
m nhất đã
trực tiếp gây ra những điểm nóng chính trị - xã hội trong thời gian vừa qua. Bản
thân mục đích của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là đúng
đắn, nhưng khi thực hiện, chúng ta thiếu triển khai cụ thể, không tính đến thực
tế khách quan, có phần nóng vội, đơn giản, vì vậy có những biểu hiện áp đặt đối
với đồng bào các dân tộc. Do vậy, chúng ta đã không nắm b
ắt được chính xác
những xu hướng phát triển của vùng dân tộc và miền núi, không ứng phó kịp
thời với những diễn biến xảy ra, vẫn tiếp tục đầu tư tiền của vào vùng này như
thời bao cấp, nhưng thực tế sự đầu tư đó đã không đem lại hiệu qủa như mong
muốn. Cụ thế, vùng miền núi phía Bắc đã mất rừng, mất đấ
t canh tác, không
thực hiện được việc định cư, di dân ồ ạt vào khu vực Tây Nguyên, và lại gây
nên hiện tượng cuộc sống của đồng bào ở khu vực Tây Nguyên bị đảo lộn. Cần
nhìn nhận lại rằng, chính những sai sót và sơ hở trong chính sách và pháp luật
về đất đai đã dẫn đến những tranh chấp căng thẳng và gay gắt, là nguyên nhân
phát sinh mâu thuẫn dân tộc. Do đó, cần có quy hoạch, bố trí, sắp xế
p lại dân
cư, giải quyết tốt vấn đề du canh du cư và di cư tự do theo mục tiêu của các
chương trình, chính sách đề ra.

Vấn đề xã hội cũng đặt ra những câu hỏi cần được giải quyết trong thời
gian tới. Theo những kết quả như trên đã phân tích, có thể khẳng định rằng vùng

×