Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

đánh giá tình hình tổ chức chuyển giao và tiêp nhận công nghệ các tỉnh miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.89 KB, 28 trang )


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÙNG







BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU

TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUYỂN GIAO
TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CHO VÙNG NÔNG THÔN VÀ MIỀN NÚI

THUỘC ĐỀ TÀI CẤP BỘ
“NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TÍNH BỀN
VỮNG CỦA CÔNG TÁC CHUYỂN GIAO TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC”


Chủ nhiệm đề tài: KS. TRẦN ANH TUẤN












7505-1
07/9/2009

HÀ NỘI – 6/2009


I – KHÁI NIỆM VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO TIẾN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
1 – Khái niệm về khoa học và công nghệ
1.1. Khoa học, theo cách hiểu thông thường là một hình thái ý thức xã hội,
bao gồm tập hợp các hiểu biết của con người về các quy luật tự nhiên, xã hội, tư
duy, và nó sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi nó được đem vào áp dụng
trong sản xuất và cuộc sống của con ng
ười.
1.2. Công nghệ: là tập hợp những hiểu biết (các phương pháp, các quy tắc, các
kỹ năng) hướng vào cải thiện thiên nhiên phục vụ cho các nhu cầu của con người.
Công nghệ là hiện thân của văn minh xã hội và sự phát triển của nhân loại.
Quá trình lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy, trong giai đoạn
phát triển, nhờ hoạt động thực tiễn con người đã dần dần tích luỹ được nh
ững kinh
nghệm nghề nghiệp nhất định, và việc tổng kết các kinh nghiệm này đã tạo nên
những bộ môn công nghệ khác nhau. Việc hệ thống hoá các tri thức tích luỹ được
đã dẫn tới sự ra đời của khoa học. Nói một cách khác, ở giai đoạn đầu, sản xuất đi
trước công nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học.
Nhưng trong giai đoạn cách mạng khoa học - kỹ
thuật ngày nay, nhờ những
phát minh lớn của khoa học, một xu thế mới đã hình thành là nhiều nghành công

nghệ mới như: điện tử và tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công
nghệ vũ trụ v.v lại là kết quả trực tiếp của vận dụng các thành quả của hoạt động
nghiên cứu cơ bản.
Tuy mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ hết sứ
c gắn bó, nhưng giữa
chúng cũng có những khác biệt quan trọng:
Một là, nếu như các tri thức khoa học có thể được phổ biến không hạn chế, thì
công nghệ lại là một thứ hàng dùng để mua bán với các yếu tố sở hữu và giá cả.
Hai là, trong khi các hoạt động khoa học thường được giá bằng các thước đo
trực cảm thì thước đo đối với công nghệ lại là phần đóng góp cụ
thể đối với việc
giải quyếtcác mục tiêu kinh tế xã hội.

2
Ba là, các hoạt động khoa học thường đòi hỏi phỉ có một khoảng thời gian
giải quyết dài với các yếu tố bất định khá lớn, ngược lại, đối với hoạt động công
nghệ thời gian giải quyết thường ngắn hơn.
2 – Khái niệm về chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ
Khái niệm về chuyển giao công nghệ (CGCN) đã xuất hiện ở nhiều n
ước
trên thế giới trong thế kỷ 20. Dưới đây xin trích dẫn một số định nghĩa về chuyển
giao công nghệ của các cơ quan, tổ chức từ nhiều góc nhìn khác nhau:
Định nghĩa 1. CGCN được định nghĩa trong Dự thảo luật quốc tế về thực
hiện CGCN là: chuyển giao một hệ thống kiến thức để tạo ra một sản phẩm, để áp
dụng một quy trình hay
để cung cấp dịch vụ; khái niệm này không bao trùm các
giao dịch chỉ đơn thuần là bán và cho thuê hàng hóa
1
.
Định nghĩa 2. CGCN có nghĩa là việc tiếp nhận công nghệ nước ngoài và là

một quá trình vật lý (trí tuệ), một quá trình đi kèm với việc huấn luyện toàn diện
của một bên và sự hiểu biết, học hỏi của một bên khác
2
.
Định nghĩa 3. Chuyển giao kỹ thuật: việc một xí nghiệp (công ty) chuyển
cho một xí nghiệp khác kiến thức kỹ thuật hay một bí quyết kỹ thuật mà công ty đó
đã phát triển và có khi đang khai thác
3
.
Định nghĩa 4. CGCN là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở hợp
đồng CGCN đã được thỏa thuận, phù hợp với các quy định pháp luật của nước bên
bán và bên mua
4
. Bên bán cí nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức công nghệ hoặc
cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ,…kèm theo công nghệ cho bên mua và
bên mua có nghĩa vụ thanh toán các khoản cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các
kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã được ghi trong hợp đồng CGCN.

1
Water Goode: Từ điển chính sách thương mại quốc tế. Trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế - Đại học Adelaide,
NXB Thống kê 1995.
2
Ủy ban kinh tế - xã hội châu Á – Thái Bình Dương: Hỏi đáp về CGCN nước ngoài, đàm phán và ký kết hợp đồng,
Hà nội 1999.
3
Từ điển kinh tế, tài chính, kế toán Anh Pháp Việt, NXB KHKT – 2001.
4
Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I, năm 1995.

3

CGCN có hai loại: chuyển giao ra và chuyển giao vào. Chuyển giao vào là
bên không có công nghệ có nhu cầu nhập công nghệ vào. Ngược lại, chuyển giao
ra là bên có công nghệ cần xuất công nghệ ra nước ngoài.
Định nghĩa 5. CGCN liên quan đến phương thức một nước tiếp nhận công
nghệ (thu nhận) hoặc khả năng công nghệ từ nước khác. Nó cũng bao gồm bất cứ
hình thức chuyển giao một công nghệ nào giữa các hình thái tổ chức hoặc trong nội
b
ộ một tổ chức. (Theo J.Dunning – OECD, 1992).
Định nghĩa 6. CGCN thường là cách gọi việc mua bán công nghệ mới. Nó
thường xảy ra do có sự tồn tại của “người mua” và “người bán”. Người bán thường
được gọi là “người giao” và người mua thường được gọi là “người nhận” của quá
trình CGCN.
CGCN có thể diễn ra:
- Từ một ngành công nghiệp sang một ngành khác.
- Từ một tổ chức này sang một tổ chức khác.
- Ở
quy mô quốc tế.
- Giữa hai nước phát triển.
- Giữa hai nước đang phát triển.
- Giữa một nước phát triển và đang phát triển.

(Theo Nawaz Sharif, Quản lý chuyển giao và phát triển công nghệ - APCTT, 1983).
Định nghĩa 7. Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao
sang bên nhận công nghệ. (Luật chuyển giao công nghệ – Quốc hội khoá XI – Số
80/2006 QH II ngày 29-11-2006).
Trong sản xuất vè đời sống, các cụm từ “công nghệ” và “kỹ thuật” hay được
dùng khá phổ biến. Theo nghĩa hẹp, “kỹ thuật” thường được hiể
u là các yếu tố
phần cứng của quá trình sản xuất ra một sản phẩm cụ thể (ví dụ, yếu tố đất, phân,

giống để sản xuất ra lúa gạo) còn “công nghệ” thì ý nghĩa rộng hơn, gồm cả “phần
cứng” và “phần mềm” của quá trình sản xuất. “Phần mềm” của quá trình sản xuất

4
mà “công nghệ” chứa đựng bao gồm quy trình sản xuất (sự phối hợp, kết hợp giữa
các yếu tố đầu vào, máy móc và thiết bị trong quá trình sản xuất), các biện pháp và
hình thức tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản xuất. Tuy nhiên, trong điều
kiện nông nghiệp nhất là nông nghiệp ở vùng miền núi phía Bắc, các yếu tố cho
phép áp dụng một quy trình công nghệ đồng bộ và hiện
đại như ở trong công
nghiệp còn hạn chế. Vì thế nghiên cứu này, cụm từ “chuyển giao tiến bộ khoa học
và công nghệ” có ý nghĩa tương tự như “chuyển giao công nghệ”. Nó bao gồm việc
chuyển giao “phần cứng” và cả “phần mềm” cho sản xuất.
Chuyển giao TBKHCN là quá trình đưa các kỹ thuật tiến bộ đã được khẳng
định là đúng đắn trong thực tiễn vào áp dụng trong diện rộng để
đáp ứng nhu cầu
của sản xuất và đời sống của con người. Thông thường, quá trình phát triển khoa
học và công nghệ bào gồm các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao thực nghiệm và
chuyển giao diện rộng. Trong giai đoạn nghiên cứu, các vấn đề nghiên cứu được
đặt ra do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất và đời sống và được giải quyết tập trung
chủ yếu ở ph
ạm vi cơ quan nghiên cứu. Sau khi được đánh giá là thành công ở cơ
quan nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu này được kiểm định về tính thích ứng của
chúng về sinh thái, kinh tế xã hội ở từng vùng khác nhau. Sau khi thử nghiệm ở
các vùng khác nhau thành công, các kỹ thuật đó được chuyển giao trên diện rộng.
Giai đoạn chuyển giao bao gồm việc nhân rộng các kỹ thuật đã được khẳng định là
đúng đắn không những của cơ
quan nghiên cứu mà còn là do nông dân tổng kết và
đúc rút kinh nghiệm. Như vậy, phạm trù “chuyển giao TBKHCN” trình bày trong
nghiên cứu này chủ yếu là giai đoạn thứ ba của việc chuyển giao công nghệ.

TBKHCN trong nông nghiệp là những kỹ thuật được khẳng định là phù hợp
và khả thi về sinh thái, kinh tế xã hội trên đồng ruộng của người dân, góp phần
nâng cao hơn hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, tạo điều kiệ
n phát
triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường cho nông nghiệp và nông thôn.
Tính từ “tiến bộ” ở đây thể hiện sự “tốt hơn” và “mới hơn” so với những gì hiện
có. TBKHCN góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cải
thiện đời sống của nông dân và cư dân nông thôn. KHCN mang tính “tiến bộ” phải

5
phù hợp với nhu cầu địa bàn chuyển giao. Theo tác giả Bùi Mạnh Hải và Nguyễn
Văn Thu (năm 2002), khi xem xét khả năng ứng dụng và phổ cập một TBKHCN
vào thực tiễn, cần phải tính toán đến “sức đẩy của công nghệ” và “sức kéo nhu
cầu” của công nghệ đó. Sự phổ cập của một TBKHCN phụ thuộc rất nhiều vào
“sức kéo của nhu cầu”. Vì thế, vẫn theo hai tác giả trên khi l
ựa chọn TBKHCN để
chuyển giao cần không những xem xét “tính tiến bộ” mà quan trọng hơn phải làm
rõ được “nhu cầu” thật của địa bàn sẽ tiếp thu công nghệ. TBKHCN là khái niệm
chỉ mang tính tương đối, TBKHCN có thể mới với cộng đồng nông dân này, vùng
này mà có thể là không “mới” với cộng động nông dân khác, vùng khác.
TNKHCN có thể là sản phẩm của cơ quan nghiên cứu và chuyển giao, cũng có thể
là kết quả của quá trình tự đánh giá, lự
a chọn và đổi mới của nông dân cho phù hợp
hơn với nhu cầu sản xuất và đời sống của họ. Chuyển giao TBKHCN trong nông
nghiệp là quá trình giúp nông dân áp dụng được các TBKHCN để giải quyết được
các khó khăn trong nông nghiệp và nâng cao đời sống, lợi ích của nông dân.
3 – Các phương thức chuyển giao TBKHCN tới nông dân hiện nay
3.1. Khái quát các phương thức:
Phương thức là cách tiến hành để đem lại hiệu quả cao. Như vậy, muốn
chuyể

n giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đạt hiệu quả cao cần phải có phương
thức tốt. Tổ chức lương thực quốc tế (FAO) đã đưa ra 8 phương thức chuyển giao
công nghệ. Những phương thức này gồm có:
- Chuyển giao theo phương thức dự án, chương trình
- Chuyển giao theo phương thức có người dân tham gia
- Chuyển giao theo phương thức chuyên ngành
- Chuyển giao theo phương thức huấn luyện và thăm h
ỏi
- Chuyển giao theo phương thức cùng chịu phí tổn
- Chuyển giao theo phương thức chung
- Chuyển giao theo phương thức hệ thống
- Chuyển giao theo phương thức giáo dục, đào tạo

6
Do những mục đích chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ khác nhau
nên cần lựa chọn phương thức thích hợp. Tuy 8 phương thức trên đây có những
điểm khác nhau nhưng tất cả các phương thức này đều có những điểm giống nhau.
Đó là:
- Các phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đều là cách
giáo dục, đào tạo không chính thức cho nông dân và người sản xuấ
t nhằm nâng cao
năng lực và kỹ năng cho họ.
- Các phương thức này đều thực hiện mục tiêu chung là chuyển giao công
nghệ, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân và người sản xuất.
Để thực hiện việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ các phương
thức này đều phải thực hiện cách tiếp cận giống nhau đối với người nông dân và
người sản xuấ
t. Những cách tiếp cận bao gồm:
+ Xây dựng mô hình để tiếp cận: chuyển giao, trình diễn, lan rộng
+ Huấn luyện kỹ thuật cho nông dân và người sản xuất là một trong những

cách tốt nhất để tạo cơ hội cho họ tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật.
+ Tiếp cận qua thăm hỏi nông dân và người sản xuất ở đồng ruộng, chuồng
trại, cơ sở
sản xuất hoặc qua câu lạc bộ khuyến nông, các nhóm cùng sở thích. Đó
là cách tiếp cận trực tiếp. Cũng có thể tiếp cận với người nông dân và người sản
xuất thông qua điện thoại trao đổi, viết thư cá nhân hoặc sử dụng các phương tiện
thông tin công cộng để trả lời hay hướng dẫn. Đó là cách tiếp cận gián tiếp.
+ Sử dụng phương tiện nghe, nhìn để nông dân và người s
ản xuất tiếp cận
thực hiện phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
+ Thông tin, quảng bá qua các tài liệu, ấn phẩm, áp phích…
Vì các phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đều áp dụng
cách tiếp cận phổ biến là: xây dựng mô hình, tổ chức huấn luyện, thực hiện tuyên
truyền quảng bá cho nên nhiều khi người ta cho cách tiếp cận này là phương thức
chuyể
n giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
3.2. Các phương thức chuyển giao công nghệ đang được áp dụng

7
* Phương thức dự án, chương trình (The project approach)
Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo phương thức dự án, chương
trình là phương thức chủ yếu được chương trình nông thôn, miền núi áp dụng giai
đoạn 1998-2002. Trong thời gian này, chương trình đã xây dựng 242 dự án, mô
hình trong cả nước.
Phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo dự án có mục
tiêu, biện pháp đồng bộ được ứng dụ
ng rộng rãi cho nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Trong đó, được xác định mục tiêu chung có tính lâu dài và mục tiêu cụ thể cần đạt
được khi kết thúc dự án. Vì vậy, dự án thường có kinh phí thực hiện. Về tài chính
được xây dựng trên cơ sở tính toán nguồn vào, nguồn ra, giá trị và hiệu quả thu

được của dự án. Tính hiệu quả của dự án được xem đến về các mặt kinh tế, xã hội
và môi trường. Nếu hiệu qu
ả kinh tế không cao thì chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ khó được chấp nhận.
Địa bàn áp dụng phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
theo dự án được áp dụng ở những nơi triển khai chương trình, dự án nông thôn,
miền núi.
Đối tượng tiếp thu phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
theo dự án là những người được hưởng thụ chươ
ng trình, dự án.
Về lực lượng cán bộ kỹ thuật thực hiện phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ theo dự án là cán bộ của các ngành tham gia dự án.
Điều kiện để thực hiện phương thức này là phải có kinh phí và cán bộ.
Chuyển giao công nghệ theo phương thức dự án là phương thức tổng hoà của nhiều
công đoạn từ việc đề xuất ý tưởng
đến việc lựa chọn công nghệ phù hợp với điều
kiện kinh tế – xã hội nơi sẽ được lựa chọn để triển khai. Sau đó phải lựa chọn đối
tác chuyển giao công nghệ, xây dựng đề cương thuyết minh chi tiết để trình Hội
đồng khoa học thẩm định.
Thực hiện phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo dự
án có ư
u điểm do được tập trung nguồn lực nên nhanh chóng đạt được mục tiêu.

8
Nhược điểm của phương thức này là cần có kinh phí lớn, nội dung tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ được chuyển giao chủ yếu phục vụ để thực hiện dự án. Thời
gian thực hiện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ phụ thuộc vào thời gian
thực hiện dự án.
* Phương thức chuyển giao công nghệ có người dân tham gia (The
Participatory – Rural – Approach, PRA)

Phương thức chuy
ển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ có người dân tham
gia (PRA) là phương thức được nhiều nước tiên tiến áp dụng và ngày càng trở
thành phương thức chính thống bởi tính hiệu quả và sự bền vững của nó. Phương
thức này được FAO khuyến khích áp dụng. Chương trình xây dựng mô hình
chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nông thôn miền núi
trong thời gian 1998-2002 có hàng vạn hộ nông dân tham gia là một chứng minh
cụ thể cho việ
c ứng dụng phương thức này.
Mục tiêu của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ có
người dân tham gia là tạo ra sự bền vững cho những tiến bộ kỹ thuật được áp dụng
trong sản xuất và đáp ứng yêu cầu của người sản xuất.
Địa bàn áp dụng phương thức này ở tất cả mọi nơi khi nông dân và người
sản xuất có yêu cầu.
Đối tượng áp dụng phương thức chuyển tiến bộ kỹ thuật và giao công nghệ
có người dân tham gia là nông dân và người sản xuất. áp dụng phương thức này
người dân tham gia được bảo đảm sự dân chủ và bình đẳng khi lựa chọn tiến bộ,
kỹ thuậtvà công nghệ không bị áp đặt bởi các cơ quan của Nhà nước, của các đơn
vị nghiên cứu khoa học và của doanh nghiệp. Người dân tham gia thảo luận quy
ho
ạch và xây dựng kế hoạch, nội dung và phương thức chuyển giao công nghệ.
Do đặc thù chế độ chính trị ở nước ta, nên việc tham gia thực hiện chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của người dân có sự lãnh đạo của Đảng và sự
chỉ đạo của chính quyền để định hướng và tổ chức thực hiện.

9
Về lực lượng thực hiện phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ này rất rộng rãi bao gồm người dân và cán bộ kỹ thuật.
Điều kiện để thực hiện là phải có phương thức vận động quần chúng tốt thì
mới có người dân tham gia. Muốn vậy người cán bộ kỹ thuật phải biết vận động,

chứng minh, thuyết phụ
c và giúp đỡ nông dân và người sản xuất áp dụng tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ. Mặt khác phải lựa chọn các hoạt động chuyển giao tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ có người dân tham gia là không tốn kém, tạo được sự bền
vững và dễ dàng khi mở rộng ra diện.
Nhược điểm của phương thức này khi người dân tham gia theo kiểu tự phát
thì khó khăn cho việc quản lý và kiểm soát.
*Phương th
ức chuyển giao công nghệ theo ngành (The Commodity
Specialized Approach)
Mục tiêu của phương thức này thường được các ngành hàng áp dụng nhằm
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ để người nông dân sản xuất ra những
sản phẩm theo yêu cầu của ngành hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, phương thức này sẽ được các ngành hàng áp
dụng rộng rãi vì chính sự tồn tại của ngành hàng. Ở nước ta, phương thức này cũng
đã được nhiề
u ngành hàng áp dụng như: Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn (
Thanh Hoá) chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thâm canh mía cho vùng
nguyên liệu quanh Nhà máy; Công ty cà phê chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ phát triển các giống cà phê chè (arabica) để cải thiện chất lượng và thương
hiệu cà phê Việt Nam.
Công ty dâu tằm tơ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ về giống tằm
lưỡng hệ và giống dâu Sa Nhị Luân vào sản xuất để nâng cao ch
ất lượng tơ 3A.
Công ty cao su chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ các giống cao su có sản
lượng nhựa khai thác cao. Nông trường sông Hậu chuyển giao đồng bộ các tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ từ gieo sạ đến chế biến gạo xuất khẩu ở Đồng bằng sông

10
Cửu Long. Ngành chăn nuôi chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ nuôi bò

sữa, bò thịt, lợn nạc, vì ngành hàng của họ.
Về địa bàn áp dụng phương thức thực hiện ở những nơi ngành hàng có nhu
cầu thu mua sản phẩm.
Đối tượng áp dụng phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
theo ngành hàng là những người thực hiện theo hợp đồng với ngành hàng.
Điều ki
ện để áp dụng là có hợp đồng đảm bảo vật tư đầu vào đối với sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm đầu ra đối với người sản xuất.
Ưu điểm của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo
ngành là người sản xuất yên tâm, áp dụng phương thức này nên nhanh chóng đạt
được mục tiêu của ngành hàng.
Nhược điểm của ph
ương thức này là tính cục bộ, phiến diện về tiến bộ kỹ
thuật và công n ghệ được chuyển giao, bởi vì ngoài lợi ích phục vụ cho ngành
hàng có nhiều sản phẩm, họ không quan tâm đến bất cứ lĩnh vực nào khác.
* Phương thức chuyển giao công nghệ theo huấn luyện và thăm hỏi (The
Training and Visit approach - T and V):
Đây là một trong những phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ được áp dụng ph
ổ biến ở nước ta. Nông dân vốn là người thực hiện cho nên
đối với tiến bộ kỹ thuật họ mong muốn “trăm nghe không bằng một thấy” cho nên
cách tốt nhất là xây dựng mô hình trình diễn để nông dân và người sản xuất được
thăm quan, huấn luyện tại chỗ từ đó thuyết phục để họ làm theo.
Mục đích của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thu
ật và công nghệ theo
huấn luyện và thăm hỏi là nhằm nâng cao năng lực cho nông dân và người sản xuất.
Địa bàn áp dụng phương thức này được thực hiện rộng rãi nhất là những
vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn.
Đối tượng áp dụng là người nông dân và người sản xuất.
Điều kiện để thực hiện cần đảm bảo các yêu cầu:

+ Có đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên môn giỏi.

11
+ Có kinh phí để thực hiện đào tạo.
+ Công việc đào tạo huấn luyện phải đều đặn, liên tục.
Về huấn luyện:
Mục đích cuối cùng là huấn luyện nông dân và người sản xuất có khả năng
tự giải quyết công việc của bản thân, gia đình, cộng đồng của họ.
Người thực hiện huấn luyện cho nông dân và người sản xuất là nhữ
ng cán bộ
kỹ thuật các cấp. Vì vậy họ phải được đào tạo có bài bản về chuyên môn và
phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ để họ có khả năng giúp đỡ
và huấn luyện cho nông dân.
Về thăm hỏi:
Cán bộ kỹ thuật ở các cấp nhất là ở cơ sở phải có lịch tiếp xúc trao đổi
thường xuyên với nông dân và người sản xu
ất, thăm các hoạt động sản xuất của
nông dân liên quan đến tiến bộ kỹ thuật đang áp dụng. Mục đích thăm cơ sở là để:
- Nắm được những vấn đề của thực tiễn và đời sống của nông dân và người
sản xuất.
- Trên cơ sở khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của mình, cán bộ kỹ thuật
giúp nông dân và người sản xuất tìm ra và thực hi
ện các giải pháp thích hợp cho
những vấn đề đặt ra theo từng vụ sản xuất hoặc cả năm.
- Kiểm chứng lại những giải pháp do kết qủa nghiên cứu đưa ra cho nông
dân và người sản xuất xem có hiệu quả hay không?
- Xây dựng hoặc phát hiện những điển hình tốt của nông dân và người sản
xuất để tổ chức thăm quan, trao đổi, học tập. Đó là cách để nông dân
đến nông dân.
Ưu điểm của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo

huấn luyện và thăm hỏi có những điểm nổi bật.
+ Do được đào tạo thường xuyên, cán bộ kỹ thuật có thể nắm vững thông tin
và kỹ thuật mà nông dân và người sản xuất yêu cầu.
+ Các cán bộ kỹ thuật ở cơ sở được giám sát chặt chẽ hơn về
mặt kỹ thuật.

12
+ Nói chung phương thức này dễ áp dụng, năng lực của người nông dân và
người sản xuất tăng lên, cán bộ kỹ thuật dễ gắn kết với cơ sở.
Nhược điểm của phương thức này là cần có kinh phí để đào tạo, phải có lực
lượng cán bộ kỹ thuật giỏi, đôi khi người sản xuất tiếp thu một cách thụ động qua
các lớp hu
ấn luyện.
* Phương thức chuyển giao có sự chia sẻ phí tổn (The cost sharing
approach)
Theo phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ có sự chia sẻ
phí tổn của người dân và người sản xuất là để đạt mục tiêu của Nhà nước và người
sản xuất đều mong muốn. Đây là cách chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Những nơi quá nghèo, Nhà nước hỗ tr
ợ đầu tư một phần và trả lương cho cán
bộ đến địa phương làm việc, thực hiện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
cho nông dân và người sản xuất. Địa phương bỏ một phần kinh phí chủ yếu giá trị
được tính từ đóng góp công, đất đai, chuồng trại và các vật tư địa phương đã có
cũng như việc bố trí nhà ở, văn phòng làm vi
ệc cho cán bộ kỹ thuật, có nơi còn
cung cấp lương thực thực phẩm cho cán bộ kỹ thuật khi họ ở địa phương để thực
hiện nhiệm vụ xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
Chương trình nông thôn, miền núi trong thời gian 1998 - 2002 đã hỗ trợ các
tỉnh 131.095 triệu đồng bằng 42% so với tổng đầu tư 313.437 triệu đồng (các

nguồn vốn khác huy động t
ừ ngân sách địa phương, đóng góp của nhân dân, vốn
các doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng ) đã thể hiện rõ việc thực hiện phương thức
chuyển giao công nghệ theo cùng chia sẻ phí tổn với người dân. Hiện nay chương
trình khuyến nông, khuyến ngư quốc gia đang thực hiện hỗ trợ từ nguồn ngân sách
bằng 60% kinh phí đầu tư đối với mô hình thực hiện ở các tỉnh miền núi, những
vùng khó khăn và 40% đối v
ới các tỉnh đồng bằng phần còn lại do dân đóng góp
nhằm huy động nguồn nhân lực tại chỗ và tăng cường trách nhiệm của người dân
thông qua đóng góp đối với tiến bộ kỹ thuật họ được chuyển giao và tiếp nhận.

13
Địa bàn thực hiện phương thức này ở những nơi dân có yêu cầu được tiếp
nhận tiến bộ kỹ thuật và ở những nơi triển khai các mô hình, dự án chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
Đối tượng áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo phương
thức cùng chia sẻ phí tổn đối với tất cả mọi nông dân và người sản xuất. Tuy nhiên
ở những vùng rẻo cao với dân tộc ít người như H’Mông, Khơ Mú, Giáy, Dao, một
số vùng sâu ở miền núi phía Baqức và Tây Nguyên thì sự đóng góp của người dân
khi tiếp thu tiến bộ kỹ thuật là một vấn đề khó khăn cần phải xem xét cụ thể trong
việc hỗ trợ kinh phí cũng như phải kiên trì sự vận động thuyết phục.
Điều kiện để thực hiện phương thức này là ng
ười nông dân và người sản
xuất có yêu cầu tiếp thu tiến bộ kỹ thuật và công nghệ phải thực hiện nghĩa vụ chia
sẻ phí tổn. Nhà nước có kinh phí để hỗ trợ.
Ưu điểm của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cùng
chia sẻ phí tổn là cơ sở bền vững cho việc tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật. Do có đóng
góp kinh phí thự
c hiện của nông dân tham gia xây dựng mô hình, dự án, giám sát
việc thực hiện nên chương trình đạt kết quả và hiệu quả cao.

Nhược điểm của phương thức này là nguồn tài chính của nông dân có hạn
nhất là ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn
không phải hộ nào cũng sẵn sàng chia sẻ phí tổn với Nhà nước.
* Phương thức chuyển giao công nghệ chung (The general agricultural
extension approach)
Mục tiêu của phương thức này là thực hiện tấ
t cả các biện pháp tổng hợp:
kinh tế, kỹ thuật, quản lý để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo các chương
trình quốc gia của Nhà nước như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình
327, chương trình 135, chương trình 661, chương trình 186
Việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo điều hành trên quy mô cả nước do Chính
phủ đảm nhiệm và có sự điều chỉnh hợp lý khi tiến hành ở từng địa phương. Số

14
lượng cán bộ và kinh phí tương đối lớn để thực hiện phương thức chuyển giao
công nghệ chung, đôi khi tổ chức các ban điều hành tương đối cồng kềnh.
Địa bàn áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo phương
thức chung được áp dụng ở những nơi thực hiện chương trình Quốc gia.
Đối tượng áp dụng cho tất cả người dân được hưởng l
ợi chương trình quốc
gia, ví dụ như chương trình nước sạch nông thôn.
Lực lượng tham gia thu hút đông đảo cán bộ nhiều ngành, nhiều cấp không
đơn thuần chỉ là cán bộ kỹ thuật.
Điều kiện áp dụng chuyển giao là phải có kinh phí và cán bộ.
Ưu điểm của phương thức này là nhanh chóng đạt mục tiêu vì bản thân nó
được thực hiện có các biện pháp đồng bộ kèm theo.
Nhược điểm nói chung là tốn kém, nếu qu
ản lý không tốt còn có thể gây ra
sự lãng phí về tài chính và đôi khi không phát huy nguồn lực tại chỗ.
* Phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hệ thống phát

triển nông nghiệp (The Farming systems Development - FSD).
Phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hệ thống phát triển
nông nghiệp cho thấy một số tiến bộ kỹ thuật nào đấy muốn được người dân áp dụng
phải xem xét
đến tính hệ thống hay mối quan hệ của tiến bộ kỹ thuật ấy đối với các
vấn đề khác để có giải pháp đồng bộ. Phương thức phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM
được áp dụng trong công tác bảo vệ thực vật là phương thức giống như việc chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hệ thống phát triển nông nghiệp.
Như vậy, ph
ương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hệ
thống phát triển nông nghiệp - FSD dựa trên cơ sở nông nghiệp sinh thái và nhân
văn, bao gồm:
+ Về tự nhiên gồm: Đất, nước, khí hậu, thảm động - thực vật.
+ Về xã hội gồm: Dân cư, dân tộc, đời sống, tập quán canh tác, văn hóa và tổ
chức xã hội.

15
Đây là phương thức đem đến cho người nông dân và người sản xuất những
tiến bộ kỹ thuật phù hợp trong hệ thống phát triển mà họ đang cần.
Địa bàn áp dụng được triển khai tương đối rộng rãi.
Đối tượng áp dụng phương thức này là tất cả nông dân và người sản xuất.
Lực lượng thực hiện phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuậ
t và công nghệ
theo hệ thống phát triển nông nghiệp có thể được nhiều ngành tham gia nhưng chủ
yếu vẫn là cán bộ kỹ thuật ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
Điều kiện thực hiện phương thức này là phải có kinh phí và cán bộ.
Ưu điểm của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hệ
thống phát triển nông thôn là do giải quyết vấn đề được đặt trong hệ thố
ng phát
triển nông nghiệp nên có sự bền vững và nhanh chóng đạt được mục tiêu.

Nhược điểm thực hiện phương thức này cũng tốn kém và đòi hỏi cán bộ thực
hiện chuyển giao công nghệ phải có trình độ chuyên môn giỏi, hiểu biết rộng trong
nhiều lĩnh vực.
* Phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ công nghệ theo
đào tạo, giáo dục ( The Education institution approach)
Đây là phương thứ
c chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ với sự tham
gia của các trường Đại học, Trung cấp chuyên nghiệp và các trường quản lý
nhằm gắn học đường với thực tế sản xuất.
Quan điểm của trường Đại học tổng hợp Philippines ở Los Banos cho rằng:
“Họ không chỉ tham gia vào việc nghiên cứu kỹ thuật mà còn phải thường xuyên
tiếp xúc với nông dân để thích nghi với họ
, nắm bắt được những kinh nghiệm mới
về bản chất con người và kinh tế xã hội, thực tế nông thôn”.
Ở nước ta nhiều trường Đại học như: Đại học Nông nghiệp I; Đại học Nông
nghiệp II- Huế; Đại học Nông nghiệp III- Thái Nguyên; Đại học Lâm nghiệp
đều có xây dựng giáo trình khuyến nông và đưa vào giảng dạy chính khóa. Các
trường Đại học này còn lập Trung tâm chuyển giao kỹ thuật và cử các giáo viên

16
đến cơ sở đào tạo, hướng dẫn và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ để
người nông dân, người sản xuất áp dụng.
Mục tiêu của phương thức này là áp dụng việc giáo dục cơ bản, lâu dài, có
hệ thống về kỹ thuật trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và đào tạo về phương
thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
, phương thức khuyến nông cho các
học viên và sinh viên.
Địa bàn áp dụng phương thức này chủ yếu ở trong trường học.
Đối tượng để được giáo dục, đào tạo là học sinh, sinh viên, học viên của các
địa phương được gửi đến đào tạo hệ thống tại nhà trường.

Điều kiện để thực hiện phương thức này là phải có nguồn tài chình ổn định
hàng năm, có cơ sở v
ật chất và trường sở để đào tạo.
Ưu điểm của phương thức chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo
giáo dục, đào tạo là kiến thức truyền đạt tương đối toàn diện, hệ thống và cơ bản.
Phương thức này là cách nâng cao năng lực cho cán bộ và người nông dân, người
sản xuất. Đó là cách đào tạo nguồn nhân lực tốt nhất nên khi h
ọ đã tiếp thu tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ thì sẽ tạo được sự bền vững.
Nhược điểm của phương thức này là tốn kém, số lượng người được đào tạo
hạn chế vì phụ thuộc vào trình độ của người được đào tạo và nguồn kinh phí đào
tạo được Nhà nước cấp. Đôi khi phương thức này còn nặng về lý thuyế
t.
Trên đây là 8 phương thức để thực hiện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ, được giới thiệu một cách tóm tắt. Mỗi phương thức có đặc thù, ưu điểm,
nhược điểm riêng, nhưng cả 8 phương thức đều giống nhau mục đích là chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cho nông dân và người sản xuất, giống nhau về
phương thứ
c tiếp cận.
Đây là 8 phương thức để cùng thực hiện một mục đích chuyển giao tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ tùy thuộc theo điều kiện cụ thể từng ngành, của địa phương,
của người nhận chuyển giao để lựa chọn áp dụng phương thức nào cho phù hợp

17
nhằm mang lại kết quả và hiệu quả . Trách nhiệm lựa chọn này thuộc về cán bộ kỹ
thuật khi thực hiện xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
II – PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ CHUYỂN GIAO TBKHCN.
1 – Phương pháp tiếp cận trong chuyển giao TBKHCN trong nông nghiệp
Quá trình phát triển nông nghiệp của các nước phát triển và đang phát triển
đã phản ánh quá trình tiến hóa của các phương thức chuyển giao TBKHCN trong

nông nghiệ
p. Theo Frank Ellis (1992), quá trình chuyển giao TBKHCN trên thế
giới trải qua các phương thức tiếp cận khác nhau: Chuyển giao công nghệ
(Transfer of Technology – TOT). Chuyển giao công nghệ ứng dụng (Adoptive
Technology Transfer – ATT), nghiên cứu hệ thống nông nghiệp (Farming system
research – FRS). Theo thời gian , các phương thức tiếp cận trong chuyển giao ngày
một hoàn thiện. Vào những năm cuối thế kỷ 20, đã xuất hiện phương pháp tiếp cận
mới trong chuyển giao “nghiên cứu có sự tham gia của nông dân” (Farmer
Participatory Research – FPR) (Daniel,1997). Dưới đây, xin thảo luậ
n một số đặc
trưng chủ yếu của quá trình trong phương pháp tiếp cận chuyển giao TBKHCN tới
nông dân. Theo nguồn của TBKHCN, người ta có thể chia ra thành ba nhóm tiếp
cận khác nhau. Phương thức chuyển giao từ trên xuống có đặc trưng là kỹ thuật
nông nghiệp được chuyển giao từ bên ngoài (các cơ quan nghiên cứu và khuyến
nông). Phương thức này có nhược điểm là kỹ thuật chuyển giao thường không phù
hợp, không góp phần giải quyết tri
ệt để các vấn đề của nông dân. Phương thức tiếp
cận từ dưới lên coi nhu cầu của người dân và giải quyết các vấn đề của nông trại là
hệ thống, là điểm xuất phát của nghiên cứu và chuyển giao. Tuy nhiên, do tiếp cận
từ dưới lên nên các vấn đề thường phức tạp và không được giải quyết một các triệt
để và thiếu tầm vĩ mô. Phương thức chuyển giao có s
ự tham gia của người dân là
phương thức cả nông dân và các cán bộ chuyển giao chủ động giải quyết các vấn
đề của chính nông dân. Như vậy, phương thức chuyển giao từ trên xuống bao gồm
TOT và ATT, phương thức chuyển giao từ dưới lên bao gồm FSR và phương thức
chuyển giao có sự tham gia của người dân bao gồm FPR.

18
* Chuyển giao công nghệ TOT: Phương pháp tiếp cận này rất phổ biến trên
thế giới trong nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp ở thập kỷ 50 và 60

của thế kỷ 20 (Frank Ellis, 1992). Theo phương thức này, việc tạo ra và lan truyền
những TBKHCN là một quá trình đường thẳng từ những viện nghiên cứu của các
nước giàu sang các nước nghèo và từ các viện của các nước nghèo tới trung tâm
khuyến nông và cuối cùng là tới nông dân. Tuy v
ậy, phương thức này vẫn còn khá
giá trị trong chương trình nghiên cứu nông nghiệp ở các nước. Các nhà khoa học
dựa vào các trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm quyết định chương trình nghiên
cứu, phát triển công nghệ nông nghiệp và công nghệ đó được chuyển tới các trung
tâm khuyến nông để truyền bá trong nông dân. Theo phương thức tiếp cận này,
người làm công tác chuyển giao TBKHCN có những quan niệm là:
i) Hiện đại là tốt nhất.
ii) Công nghệ trong nông nghiệp có khả năng chuyển giao toàn c
ầu không
cần tính đến các điều kiện sinh thái địa phương.
iii) Nông dân ở những nước nghèo còn lạc hậu họ cần phải áp dụng một
cách nhanh chóng các kỹ thuật để trở thành nông dân hiện đại. (Daniel,1997;
Frank, 1992; Chamber, 1989).
Những người áp dụng phương thức này cho là luôn tồn tại kỹ thuật nông
nghiệp phù hợp để nông dân ở các nước nghèo chuyển giao và ứng dụng
(Horton,1984; Havertkort, 1988). Đây là cánh nhìn sai lầm. Nông dân sản xuất nhỏ
đã không ti
ếp thu được những công nghệ đó. Trong những điều kiện đó, chỉ có thể
nông dân giàu, sản xuất quy mô lớn có thể tiếp cận và được lợi từ phương thức
chuyển giao này (Chamber và Ghidyal 1985).
Phương thức chuyển giao công nghệ (TOT) nhìn nông dân là người nhận
công nghệ một cách thụ động. Nếu nông dân làm theo công nghệ, người nông dân
đó sẽ là nông dân tiến bộ. Phong tục tập quán, sự bảo thủ, yếu tố tâm lý và xã hộ
i
là những nguyên nhân cơ bản lý giải sự thất bại của các chương trình chuyển giao
TBKHCN trong nông nghiệp ở nhiều nước (Chamber và Ghidylal 1985). Những


19
điều kiện ở các trung tâm nghiên cứu, các trạm thực nghiệm không thể phản ánh
được những điều kiện thực tế của nông dân, không thể tính đầy đủ sự khác nhau về
nguồn lực, lao động, đất đai và thị trường.
* Phương thức chuyển giao công nghệ ứng dụng (ATT): Phương thức này
còn được gọi là mô hình chuyển giao công nghệ cải biên (Daniel, 1997). Phương
thức này khác với TOT ở
chỗ yêu cầu về tính địa phương của công nghệ được
nhận diện, ứng xử của nông dân cũng được chú ý tới. Trong chuyển giao công
nghệ, người ta chú ý tới điều kiện địa phương, các ràng buộc về kinh tế và xã hội
để nông dân tiếp thu công nghệ mới. Phương thức này khá phổ biến ở những giai
đoạn thập 70 và 80 của thế kỷ 20. Đặc trưng nhất của ph
ương thức chuyển giao
này là hệ thống đào tạo và gặp gỡ nông dân (Training and visit system – TV)
(Benor, Harision, Baxter, 1984; Frank, 1992; Daniel, 1997). Khuyến nông có vai
trò lớn trong chuyển giao TBKHCN tới nông dân. TBKHCN được đưa tới nông
dân một cách chủ động thông qua đào tạo, tập huấn. Nông dân sau khi được tập
huấn thì làm theo. Cán bộ khuyến nông gặp gỡ nông dân để tư vấn cho họ các vấn
đề cụ thể sau tập huấn. Nhờ đó, phương pháp này đã giúp nông dân giải quyết các
vấ
n đề khác như đầu vào, phân bón và vốn. Phương thức này phát huy tác dụng
trong giai đoạn cách mạng xanh thập kỷ 70 (Frank, 1992). Nhiều nông dân trên thế
giới đã áp dụng thàng công giống mới về lúa mỳ, gạo,… tạo ra sự phát triển đáng
kể về năng suất. Tuy nhiên, những nông dân nghèo vẫn không được hưởng cac
thành quả của chuyển giao này. Theo phương thức này, thông tin phản hồi của
nông dân tới các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp được truyền chủ
yếu qua hệ
thống khuyến nông phản ánh lại. Thông tin từ các viện nghiên cứu không trực tiếp
tới nông dân mà lại qua hệ thống khuyến nông. Vì thế, công nghệ được phát triển ở

các viện nghiên cứu vẫn chưa phù hợp với điều kiện cụ thể của nông dân. Các công
nghệ được xây dựng trong các điều kiện lý tưởng (ruộng đất tốt và được tưới).
Theo Selener (1989), hệ thống TV không đ
áp ứng được nhu cầu của nông dân
có sống trên đất đai cằn cỗi, điều kiện sản xuất khắc nghiệt bởi những lý do sau:

20
i) Hệ thống TV được tạo ra chỉ để truyền bá các khuyến cáo kỹ thuật.
Mặc dù vậy, nông dân không nhận rõ được khó khăn của họ là do
thiếu công nghệ. Công nghệ nông nghiệp chỉ là một yếu tố cấu thành,
cần phải được để ý khi giải quyết các vấn đề phức tạp của nông dân.
Hệ thống TV không được trang bị để giải quyết các vấn đề ph
ức tạp
của nông dân và các phương diện khác ngoài vấn đề kỹ thuật.
ii) Các khuyến cáo khuyến nông thường đòi hỏi các đầu vào phải mua từ
thị trường (phân bón, thuốc BVTV). Trong khi đó nông dân sản xuất
nhỏ, thường không có các đầu vào đó và thường thiếu vốn nên không
có khả năng tiếp cận các đầu vào theo yêu cầu của quy trình kỹ thuật.
iii) Việc đào tạo một cách hệ thống các cán bộ
khuyến nông theo hệ
thống TV không thể thực hiện tốt vì hầu hết các cơ quan khuyến nông
thiếu nguồn vật chất và nhân lực cho các hoạt động tập huấn.
iv) Nông dân không được nhận thông tin về kỹ thuật một các đầy đủ và
kịp thời do họ thường thiếu các phương tiện vận chuyển và nhiên liệu.
v) Các cán bộ khuyến nông trình diễn TBKHCN cho những nông dân
nòng cốt để những ng
ười này truyền bá lại các kỹ thuật đó các nông
dân khác. Nhưng những nông dân nòng cốt phần lớn là những nông
dân có kinh tế khá, sản xuất quy mô lớn nên ít có liên hệ tới những
nông dân sản xuất nhỏ. Do đó thông tin về kỹ thuật không được chuyển

tới những nông dân sản xuất nhỏ và nghèo. Vì thế, công nghệ được
truyền bá chủ yếu là công nghệ phục vụ nhu cầu của nông dân có kinh
tế khá, sản xuất hàng hóa hơ
n là những nông dân sản xuất nhỏ.
vi) Những công nghệ đưa ra sản xuất không được điều chỉnh cho phù
hợp với tình hình thực tế do thiếu các cán bộ nghiên cứu tham gia ở
giai đoạn tập huấn và chuyển giao; các cán bộ khuyến nông thiếu
năng lực điều chỉnh các kỹ thuật đó.

21
vii) Những phản hồi từ nông dân tới cán bộ khuyến nông và cán bộ nghiên
cứu không được đầy đủ vì thiếu các kênh phản hồi phù hợp.
viii) Về lý thuyết, hệ thống TV đã có sự tham gia của dân. Nhưng chỉ có
những nông dân sản xuất quy mô lớn có sự tham gia. Sự tham gia đó
mang tính thụ động hơn là chủ động. Cán bộ khuyến nông khởi xướng
công nghệ theo yêu cầu từ bên ngoài để
nông dân làm theo.
Do những lý do trên, phương pháp tiếp cận chuyển giao công nghệ ứng dụng là
ít hiệu quả, không góp phần giải quyết các vấn đề của nông dân sản xuất nhỏ. Với
những nông dân sản xuất nhỏ, tài nguyên ít sản xuất trong những điều kiện sinh thái
nông nghiệp hết sức đa dạng, với hệ thống cây trồng vật nuôi phức tạp, thiếu thị
trường đầu vào thì hệ thố
ng trên là không phù hợp (Chamber và Jiggins, 1987).
* Hệ thống nghiên cứu nông nghiệp (Farming System Research – FSR):
Mẫu hình của nghiên cứu và phát triển nông nghiệp trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20
tập trung giải quyết các vấn đề nông dân sản xuất nhỏ, nông dân nghèo bằng các
cách sau:
- Nhận thức rằng nông dân nghèo có kiến thức quý báu phải được kết hợp
trong quá trình nghiên cứu.
- Nghiên cứu kiến thức bản địa cũng là một bộ phận cấu thành của quá trình

phát triể
n công nghệ mới (Kassorla, 1977). Vì thế vào nửa cuối của thập kỷ 70
phương pháp tiếp cận hệ thống nghiên cứu nông nghiệp được phát triển nhằm
mang lợi cho nông dân nghèo, sản xuất nhỏ. Phương pháp tiếp cận hệ thống nghiên
cứu nông nghiệp là quá trình nghiên cứu.
- Tập trung vào mối quan hệ phụ thuộc qua lại giữa các yếu tố hợp thành của
hệ thống nông trại với các yếu tố kinh tế
- xã hội bên ngoài.
- Và tập trung vào làm tăng hiệu quả của hệ thống nông nghiệp thông qua
nghiên cứu nông nghiệp nhằm thúc đẩy việc sáng tạo và kiểm nghiệm các công
nghệ được hoàn thiện (Daniel, 1997).

22
Yêu cầu của phương pháo tiếp cận hệ thống nghiên cứu nông nghiệp là phải
hiểu được tình hình ở vùng nghiên cứu, đặc điểm của nông dân và biết huy động sự
tham gia của dân trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên FSR không đạt được mục
tiêu của nó do việc thực hiện quá trình này bị hạn chế vì những lý do sau:
- Nông dân không trở thành người tham gia có hiệu quả trong quá trình
nghiên cứu vì cán bộ nghiên cứu vẫn có các tiếp cận chuyển giao như cũ
.
- Các cán bộ nghiên cứu gặp khó khăn trong làm việc theo nhóm đa ngành.
- Do coi trọng nông trại là hệ thống nên phải lấy nhiều loại số liệu khác nhau
cho nghiên cứu. Do đó, đã có quá nhiều số liệu và phức tạp trong xử lý.
- Phần lớn các dự án phát triển nông nghiệp theo phương pháp tiến cận này
vẫn tiếp tục không tập trung vào dân nghèo.
- Các cán bộ nghieencwus gặp khó khăn trong giao tiếp và trao đổi với nông
dân, học hỉu từ nông dân (Chambers và Jiggins, 1986). Như
vậy, không có sự liên
hệ chặt chẽ giữa cán bộ nghiên cứu và nông dân, là một nhược điểm của phương
pháp tiếp cận trên. Chính vì lẽ đó, ở các nước đang phát triển lại chuyển sang

phương pháp tiếp cận mới “nghiên cứu có sự tham gia của nông dân”.
* Nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (Farmer Paticipatory Research
– FPR), được gọi dưới nhiều khái niệm khác nhau (farm back to farmer) (Rhoadse
và Booth, 1982); nông dân là điểm đầu tiên và cuối cùng của nghiên cứu
(Chambers và Ghidyal, 1985) và phát triể
n công nghệ có sự tham gia (Paticipatory
Techology Development) (Tan, 1985). Đây là phương pháp tiếp cận trong đó
nghiên cứu được xuất phát từ nông dân,. Do nông dân đặt kế hoạch và thực hiện
trong sự hợp tác giữa nông dân và cán bộ nghiên cứu (Daniel, 1997), FPR có
những đặc điểm sau:
- Đặc trưng cơ bản của cách tiếp cận này là thu hút sự tham gia của nông dân
vào phát triển công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng và vật nuôi.
FPR tập trung vào nhận dạng, phát triể
n hay ứng dụng và sử dụng công nghệ phù
hợp với nhu cầu của nông dân sản xuất nhỏ, nông dân có tài nguyên nghèo.

23
- Nông dân tham gia một cách tích cực trong toàn bộ quá trình nghiên cứu.
- Quá trình nghiên cứu được tiến hành trên ruộng của người dân.
- Cán bộ nghiên cứu là người khám phá, người bạn và là cố vấn của nông dân.
- FPR được dựa trên các tiếp cận hệ thống.
- FPR yêu cầu sự hợp tác đa ngành giữa nông dân và cán bộ nghiên cứu.
- FPR khuyến khích phương pháp sáng tạo và linh hoạt.
FRP được thực hiện với những giả định sau:
- Nông dân có những kiến thứ
c bản địa về hệ thống nông nghiệp và môi
trường của hệ thống đó.
- Nông dân có khả năng thực nghiệm và những thực nghiệm đó phải được
dùng và thúc đẩy cho sự phát triển công nghệ.
FPR không phủ định các phương pháp tiếp cận nghiên cứu truyền thống của

các cơ quan nghiên cứu mà trái lại có mối quan hệ rất chặt chẽ với cách tiếp cận
truyền th
ống (Sơ đồ 1).
Sơ đồ 1 – Loại nghiên cứu thực nghiệm trên nông trại






Theo Sơ đồ 1, có 4 loại nghiên cứu thực nghiệm: Nghiên cứu thực nghiệm
do cán bộ nghiên cứu quản lý (Reasearcher managed on-farm trials); Nghiên cứu
thực nghiệm có tư vấn do cán bộ nghiên cứu quản lý gọi tắt là nghiên cứu tư vấn
(Consultative researcher managed on-farm trials); Nghiên cứu thực nghiệm có sự
hợp tác giữa nông dân và cán bộ nghiên cứu (Collaborative farmers researcher
participatory research) và Nghiên c
ứu do nông dân quản lý (farmers managed
Thực nghiệm ở nông trại không
có sự tham gia của nông dân
Nghiên cứu do cán bộ
nghiên cứu quản lý

vấn
Thực nghiệm ở nông trại có sự
tham gia của nông dân
Nghiên cứu do nông
dân quản lý
Hợp
tác


24
research). Loại 1 và loại 2 là nghiên cứu không có sự tham gia của người dân. Loại
3 và loại 4 là nghiên cứu có sự tham gia của người dân.
Nghiên cứu thực nghiệm trên nông trại do cán bộ nghiên cứu quản lý là
nghiên cứu được tiến hành trên ruộng nông dân do cán bộ nghiên cứu quản lý để
phát triển công nghệ cho nông dân hay để kiểm định kết quả nghiên cứu đã thu
được ở trạm trại thí nghiệm. Cán bộ nghiên cứu thiết kế, thực hiện và
đánh giá
công nghệ trên đồng ruộng của nông dân. Họ lập kế hoạch nghiên cứu, thiết kế thí
nghiệm trong đó nông dân được phép thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ
nghiên cứu.
Nghiên cứu thực nghiệm tư vấn là nghiên cứu trong đó nông dân được cán
bộ nghiên cứu tư vấn về nhu cầu, các khó khăn, mục tiêu của họ. Nông dân được
hỏi về kỹ thuật sả
n xuất nông nghiệp, sự hiểu biết về môi trường tự nhiên, kinh tế -
xã hội và khả năng về nguồn lực, phản hồi của nông dân về công nghệ mới. Dựa
vào các ý kiến thu được, cán bộ nghiên cứu hiểu thêm nông dân để thiết kế thí
nghiệm mà không có sự tham gia của nông dân. Công nghệ cho nông dân được dựa
trên sự hiểu biết của cán bộ nghiên cứu về nông dân.
Nghiên cứu thực nghiệm có sự hợ
p tác giữa nông dân và cán bộ nghiên cứu
là cách tiếp cận trong đó nông dân và cán bộ nghiên cứu cùng xác định vấn đề khó
khăn, thiết kế nghiên cứu và quản lý, thực hiện và đánh giá các thử nghiệm đồng
ruộng trên nương rẫy của nông dân.
Nghiên cứu thực nghiệm do nông dân quản lý là cách tiếp cận trong đó nông
dân là người trụ cột trong việc chuẩn đoán, lập kế hoạch, thiết kế thực nghiệm,
thực hi
ện thực nghiệm, đánh giá kết quả và áp dụng. Trong giai đoạn chuẩn đoán,
nông dân nhận diện vấn đề khó khăn và nhu cầu mong muốn của họ. Trong giai
đoạn kế hoạch, họ chọn những khó khăn quan trọng nhất, xác định những giải pháp

có thể, lựa chọn kỹ thuật phù hợp và thiết kế kiểm nghiệm kỹ thuật như thế nào.
Trong giai đoạn th
ực nghiệm, họ kiểm nghiệm và đánh giá kỹ thuật. Trong giai
đoạn áp dụng, nông dân tiếp tục kiểm nghiệm các công nghệ trước khi được nhân

×