Tải bản đầy đủ (.pdf) (261 trang)

Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.79 MB, 261 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Sinh Phúc

NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI

LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Sinh Phúc

NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI

Ngành: Lý luận và lịch sử mỹ thuật
Mã số: 9210101
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGHỆ THUẬT
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Ngô Văn Doanh


Hà Nội - 2022


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sỹ Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở
tỉnh Yên Bái là cơng trình do tơi nghiên cứu, thực hiện. Những vấn đề nghiên cứu
cùng những ý kiến tham khảo, tư liệu đều có chú thích nguồn đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2022

Tác giả luận án

Nguyễn Sinh Phúc


ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG................................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

KHÁI QUÁT VỀ TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI .............111
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................... 111
1.2. Cơ sở lý luận....................................................................................................... 266
1.3. Khái quát về tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái ............................. 345
Tiểu kết ....................................................................................................................... 534
Chương 2. NHẬN DIỆN NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở
TỈNH YÊN BÁI ........................................................................................................................566
2.1. Tạo hình ở các tranh thờ khổ lớn, một vị thần chủ......................................566
2.2. Tạo hình ở các tranh thờ khổ lớn, nhiều vị thần chủ...............................85

2.2. Tạo hình ở các bức tranh khổ nhỏ............................................................... 1001
Tiểu kết ..................................................................................................................... 1067
Chương 3. ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT VÀ MỘT SỐ BÀN LUẬN TRONG
NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI................108
3.1. Đặc trưng nghệ thuật tạo hình trong tranh thờ của người Dao ............ 1089
3.2. Một số bàn luận về nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái
.................................................................................................................................... 1278
Tiểu kết ....................................................................................................................... 158
KẾT LUẬN..............................................................................................................................1602
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .........................1646
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................1657
PHỤ LỤC .................................................................................................................................1724


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ


Viết tắt
GS

:

Giáo sư
Kích thước

KT
NCS

:

Nghiên cứu sinh

NTTH

:

Nghệ thuật tạo hình

Nxb

:

Nhà xuất bản

PGS

:


Phó giáo sư

TGTN

:

Tơn giáo tín ngưỡng

TK

:

Thế kỷ

Tr

:

Trang

VHDG

:

Văn hóa dân gian


iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Bảng thống kê các bộ tranh thờ đầy đủ của người Dao đã được NCS điều
tra và khảo cứu..…………………………………………………………………..176
Bảng 1.2: Hệ thống 17 bức tranh trong hai bộ tranh thờ của người Dao ở Yên
Bái.………………………………………………………………………………..178
Bảng 2.1: Sơ kết những quy tắc tạo hình các bức tranh vị thần tối cao dạng thức bố
cục một vị thần chủ……………………………………………………………… 181
Bảng 2.2: Sơ kết những quy tắc tạo hình của các cặp tranh đối xứng dạng thức bố cục
một vị thần chủ..……………………………………………………………...185
Bảng 2.3: Sơ kết những quy tắc tạo hình của nhóm cặp tranh đối xứng hai vị thần
chủ………………………………………………………………………………. 187
Bảng 3.1: So sánh những thay đổi giữa tranh thờ cổ và tranh thờ vẽ mới của người
Dao ở Yên Bái…………………………………………………………………….189
Bảng 3.2: So sánh tranh thờ của người Dao ở Yên Bái với tranh thờ cúng trong dòng
tranh dân gian Việt Nam……………………………………………………191


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh Thờ và tranh Tết là các thể loại của dòng tranh dân gian đã có từ lâu
đời, là giá trị của văn hóa tinh thần, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tranh Thờ gắn
bó với đời sống tâm linh của nhân dân, cho thấy hệ tư tưởng, tín ngưỡng, quan niệm
về vũ trụ, nhân sinh, gắn liền với hình tượng những vị thần linh, thường được sử dụng
để thờ cúng.
Cùng với tranh thờ cúng của nhân dân miền xuôi, các tộc người anh em ở
miền núi như Tày, Nùng, Dao, Sán chay, Dáy... cũng có những bộ tranh thờ được
sử dụng trong tín ngưỡng thờ cúng. Người Dao ở ở miền núi phía Bắc nói chung
và ở n Bái nói riêng cịn lưu giữ được những bộ tranh thờ độc đáo và có những

giá trị văn hóa nghệ thuật sâu sắc. Về các lĩnh vực lịch sử và văn hóa của người
Dao, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu. Thế nhưng, tranh thờ, một loại hình nghệ
thuật tham gia và có vị trí quan trọng trong tổng thể các nghi lễ của người Dao,
trong đó có người Dao ở n Bái, thì chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách hệ thống và đầy đủ dưới góc độ nghệ thuật học. Đây chính là lý do để
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên
Bái làm đề tài nghiên cứu.
Về phương diện tạo hình, tranh thờ cúng, ở miền xi hay miền núi, đều sử
dụng ngôn ngữ đặc trưng của nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật hội họa như: Đường
nét, hình khối, không gian, màu sắc… để biểu hiện không gian trên mặt phẳng. Mượn
hình hài cụ thể, hiện thực để dẫn dắt ta vào một thế giới nội tâm, huyền bí của tranh
thờ, những nghệ nhân dân gian dùng ngôn ngữ của hội họa để biểu đạt, để đưa các
giá trị của các bức tranh tương đồng với các giá trị văn hóa của cộng đồng. Đây là
thành cơng rất lớn của các họa công vẽ tranh thờ. Để thấu hiểu được đầy đủ ngôn
ngữ, giá trị, biểu tượng trong các bộ tranh, cần một q trình tìm tịi, khám phá cách
thức sử dụng ngơn ngữ nghệ thuật tạo hình để biểu đạt các giá trị ẩn sâu sau mỗi bức
tranh, là việc làm hết sức cần thiết. Nghiên cứu phần “hiển” và phần “ẩn”trong mỗi
bức tranh là quá trình đặt ra song hành đan xen không thể tách rời.


2

Các vị thần linh là xương sống trong các bộ tranh thờ miền núi. Nhưng, khi đi
qua từng vùng miền, do có sự ảnh hưởng của những phong tục tập quán địa phương
và tín ngưỡng của cư dân bản địa, nên các vị thần được thể hiện trong các bức tranh
thờ có những nét khác nhau. Người Dao ở Yên Bái, mặc dù vẫn sử dụng các bức tranh
thờ trong các nghi lễ thờ cúng, các lễ cấp sắc, tết nhảy, cầu an, tang ma..., nhưng, trên
thực tế, tranh thờ truyền thống của họ đang bị mai một dần, thay vào đó là những bộ
tranh vẽ mới, do một số rất ít các thầy tào, thầy cúng ở địa phương thực hiện, với
cách thức đơn giản và thiên về tính tiện lợi. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, tranh thờ

mới khơng cịn vẻ đẹp như trước, bị biến dạng, hoặc biến mất khi các ông thầy mất
đi. Bởi vậy, khi nghiên cứu đề tài này, nghiên cứu sinh mong muốn góp phần vào
việc khai thác, lưu giữ bảo tồn vẻ đẹp hình thức, gíá trị biểu tượng, giá trị văn hóa
của các bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái nói riêng và của người Dao ở Việt
Nam nói chung.
Tuy chưa có những cơng trình nghiên cứu chun sâu về nghệ thuật tạo hình
trong tranh thờ của người Dao, những đã có các cơng trình nghiên cứu chung khái
qt về tộc người, lịch sử văn hóa,tơn giáo tín ngưỡng trong đó đề cập đến tranh thờ
của người Dao, tranh thờ của các dân tộc miền núi phía Bắc như một yếu tố đi kèm.
Song, cho tới nay, chưa có cơng trình nghiên cứu cụ chun sâu về yếu tố tạo hình
trong tranh thờ của đồng bào các tộc người ở địa bàn tỉnh Yên Bái nói chung và tranh
thờ của người Dao ở Yên Bái nói riêng. Với mong muốn được tiếp nối, khám phá
những giá trị văn hóa, nghệ thuật của đồng bào tộc người Dao tại Yên Bái, và đặc
biệt là phát hiện, tìm được những nét đặc trưng trong ngơn ngữ tạo hình được biểu
đạt trong các bộ tranh thờ, NCS mong muốn, thông qua luận án, đóng góp một phần
cơng sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc của người
Dao ở Yên Bái, để những giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc sắc của tranh thờ được lưu
giữ bảo tồn và phát triển theo tinh thần Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa 8.


3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về nghệ thuật tranh thờ của người
Dao ở Yên Bái, để qua đó thấy được thấy được tiến trình lưu truyền các bộ tranh tại
địa phương; thấy được cách thức sử dụng ngơn ngữ tạo hình được biểu đạt ở mỗi bức
tranh; thấy được những giá trị nghệ thuật, sự tương đồng hay khác biệt, giữa tranh
thờ miền núi và các dịng tranh thờ miền xi, giữa tranh thờ của các tộc anh em miền

núi phía Bắc với tranh thờ của người ở Dao Yên Bái.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Điều tra tìm hiểu một cách hệ thống về những bộ tranh thờ truyền thống hiện
còn và những bộ tranh thờ mới cùng các “tác giả” của những bộ tranh mới này. Tìm
hiểu về sự lưu truyền và sáng tác các bộ tranh thờ cũ và mới tại địa phương.
Tìm hiểu, nhận diện nghệ thuật, làm rõ về đặc trưng nghệ thuật tạo hình trong
bộ tranh thờ, từ đó thấy được giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật trong tranh thờ của
người Dao ở Yên Bái. Xác định giá trị biểu đạt các vị thần trong các bộ tranh thờ của
người Dao ở Yên Bái.
Tìm ra sự tương đồng khác biệt giữa tranh thờ của người Dao trong tương quan
với tranh thờ các dân tộc thiểu số khác ở miền núi phía Bắc, cũng như của tranh thờ
trong các dịng tranh dân gian tiêu biểu của người Việt, để có những giải pháp cho
việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển di sản tranh thờ của người Dao nói chung và người
Dao ở Yên Bái nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là đặc trưng nghệ thuật trong tạo hình tranh thờ
của người Dao ở tỉnh Yên Bái. Từ đó tìm ra sự khác biệt (đặc trưng riêng) của nghệ
thuật tạo hình tranh thờ của người Dao trong tương quan với tranh thò ở một số dòng
tranh dân gian tiêu biểu của người Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian


4

Địa bàn nghiên cứu chủ yếu của luận án được xác định là: Tất cả các vùng đất
và khu vực địa lý trong phạm vi tỉnh Yên Bái, nơi có người Dao sinh sống, bao gồm
các huyện:Văn Chấn, Lục Yên, n Bình, Văn n. Ngồi ra có mở rộng đối sánh
một số địa phương có tranh thờ của người Dao như Lào Cai, Tuyên Quang… và một

số bảo tàng có lưu giữ và trưng bày tranh thờ của người Dao.
Căn cứ lựa chọn địa điểm nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu đảm bảo tính tồn
diện, đầy đủ và điển hình của đối tượng nghiên cứu. Đó là khu vực địa lý các huyện
có sử dụng các bộ tranh thờ trong thực hành tín ngưỡng.
- Về thời gian
Thời gian đầu TK XX của những bộ tranh thờ truyền thống hiện còn.
Thời gian từ năm 1995 đến nay của những bộ tranh thờ mới.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án là cơng trình nghiên cứu tồn diện và hệ thống về nghệ thuật tranh
thờ của người Dao ở Yên Bái dưới góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật. Trọng tâm
nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tạo hình trong tranh thờ của người Dao, nghiên
cứu ở Yên Bái. Do vậy, một số câu hỏi nghiên cứu đặt ra sẽ là: 1. Nghệ thuật tranh
thờ của người Dao ở Yên Bái được phác dựng một cách hệ thống như thế nào, tranh
thờ của người Dao vẫn được tiếp nối trao truyền, quy trình vẽ tranh thờ mới hiện nay
ra sao? 2. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao là hình thức hội họa dân gian độc đáo,
được biểu hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình cụ thể trên từng bức tranh là gì?
3. Những giá trịnghệ thuật được rút ra từ nghiên cứu tranh thờ của người Dao ở Yên
Bái được biểu hiện như thế nào? Nghệ thuật tranh thờ của người Dao có những đặc
trưng gì? Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái hiện nay có những thay
đổi, biến đổi gì so với các bộ tranh thờ của người Dao được lưu truyền dân gian qua
nhiều thế hệ? Có những tương đồng khác biệt gì so với tranh thờ của các dịng tranh
dân gian miền xi, so với tranh thờ của người Dao ở các địa phương khác.


5

4.2. Giả thuyết nghiên cứu
4.2.1. Giả thuyết 1
Giả thuyết nghiên cứu đầu tiên và cũng là nhiệm vụ đầu tiên của luận án là tìm

hiểu và giải đáp một cách có hệ thống về thự tế lưu truyền sử dụng, cấu trúc, cách
xếp đặt trưng bày, tên gọi các vị thần và chức năng của từng vị thần trong bộ tranh thờ
của người Dao, việc vẽ tranh thờ mới hiện nay, qua đó phác dựng một cách tổng thể về
tranh thờ của người Dao ở Yên Bái nói riêng, và tranh thờ của người Dao nói chung.
4.2.2. Giả thuyết 2
Tiếp cận, nghiên cứu nghệ thuật tranh thờ của người Dao từ việc nhận diện
ngơn ngữ tạo hình được biểu đạt qua từng bức tranh, các họa công vẽ tranh thờ đã
dùng ngôn ngữ nghệ thuật hội họa dân gian để thiết lập một cách chặt chẽ những hình
ảnh của các nhân vật thần linh trong Đạo Giáo với ngôn ngữ tạo hình đặc trưng và
các mơ típ trang trí, theo các quy tắc, qui phạm, tiêu chuẩn. tạo lên nét đặc trưng trong
việc tổ chức không gian, sắp xếp bố cục, đường nét, màu sắc thông qua từng bức
tranh trong bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái. Đây là một trong những giả thuyết
được đặt ra để nghiên cứu của luận án.
4.2.3. Giả thuyết 3
Nghệ thuật tranh thờ của người Dao được hình thành trong mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ của nghệ thuật hội họa cổ với việc thờ phụng và nghi lễ Đạo Giáo. Là sự
kết hợp giữa nghệ thuật tạo hình các thần linh, với những quan niệm về tín ngưỡng
thần tiên trong Đạo Giáo, truyền thuyết của tộc người Dao và tín ngưỡng dân gian
bản địa, từ đó tạo nên nghệ thuật tranh thờ của người Dao với những nét đặc trưng,
riêng biệt.
Những đặc trưng về tạo hình của bộ tranh và những điều ẩn chứa đã mang lại
những giá trị nghệ thuật của một dịng tranh dân gian miền núi, đóng góp vào giá trị
vào kho tàng nghệ thuật hội họa dân gian đó là những nội dung nghiên cứu bàn luận
của luận án.
Trải qua quá trình lưu truyền sáng tác dân gian, đã tạo nên những thay đổi,
biến đổi về hình thức trên từng bức tranh thờ, như: hình, màu, chi tiết nhân vật, mô


6


tuýp trang trí, tạo nên sự tương đồng khác biệt giữa tranh thờ của người Dao từ truyền
thống đến hiện nay, với tranh thờ của người Dao ở các địa phương khác, giữatranh
thờ của người Dao với tranh thờ trong các dòng tranh dân gian tiêu biểu của người
Việt,đây là giả thuyết và cũng là nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: NCS sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở để nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học: Đối tượng nghiên cứu là các bức
tranh, cho nên, phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng sẽ là phương pháp phân
tích tác phẩm nghệ thuật. Các phương pháp nghiên cứu mỹ thuật chính mà tác giả sẽ
vận dụng là: Tranh tượng học và hình hiệu học, các phương pháp trên sẽ giúp tác giả
nắm bắt và phân tích những đặc trưng mang tính phong cách của các hình ảnh và biểu
tượng được thể hiện trong các bức tranh thờ của người Dao ở Yên Bái.
- Phương pháp khảo sát tài liệu, phân tích , tổng hợp: NCS khảo sát thu thập
những bài viết, cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, tiến hành tổng hợp
phân tích để đưa ra những luận điểm khoa học trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu điều tra điền dã: Tranh thờ của người Dao là vật
linh thiêng được các thầy cúng, thầy Tào cất giữ nghiêm ngặt, hoặc được gia đình
dịng họ người Dao cuộn lại cất giữ treo trên tủ thờ của mỗi gia đình, ở những thơn
bản xa xơi, chỉ khi gia đình có việc lớn cần phải mời thầy cúng đến làm lễ cầu mong
thần tiên phù hộ, trợ giúp thì các bộ tranh thờ mới được mang ra, theo một quy trình
cũng lễ nghiêm ngặt, bởi vậy người nghiên cứu không thể dễ dàng, tùy tiện tiếp cận
được bộ tranh. Thực tế NCS đã phải sử dụng phương pháp điều tra điền dã, nhiều
ngày nhiều đợt xuống từng thôn bản, mỗi khi có các lễ cúng diễn ra, để tiếp cận bộ
tranh thờ. Điều tra điền dã là phương pháp nghiên cứu quan trọng trong quá trình
nghiên cứu nghệ thuật dân gian, đòi hỏi người nghiên cứu phải tiếp cận với thực tế
sống động, từ đó dùng các kỹ thuật nghiên cứu cơ bản để tiếp cận đối tượng để có thể
khai thác tư liệu mà mình cần.



7

- Phương pháp tiếp cận liên ngành:Vì đề tài có liên quan rất nhiều với văn hóa
và lịch sử của người Dao, một trong những dân tộc thiểu số miền núi của Việt Nam,
nên để có thể tiếp xúc được những tư liệu cụ thể, tác giả buộc phải sử dụng một loạt
những phương pháp điều tra nghiên cứu của các chuyên ngành khác, như dân tộc học
và văn hóa học. Vì đề tài được nghiên cứu từ góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử
mỹ thuật, nên các phương pháp ngoài chuyên ngành trên, được xếp vào phương pháp
tiếp cận liên ngành.
Vận dụng phương pháp tiếp cận liên ngành như phương pháp nghiên cứu dân
tộc học, phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian… để đi sâu điều tra khảo sát thực
tế việc sử dụng tranh thờ của đồng bào tộc người Dao tại Yên Bái trong các lễ hội, lễ
cúng, tủ thờ gia đình dịng họ, phong tục, cách thức thực hành tín ngưỡng của người
Dao bản địa.
-Phương pháp so sánh: Ngồi ra, vì đối tượng nghiên cứu là tranh thờ của
người Dao, có nguồn gốc từ tranh Đạo giáo và có quan hệ với tranh thờ của người
Dao ở các địa phương khác, cho nên, để triển khai nghiên cứu, NCS sử dụng phương
pháp này để so sánh sự tương đồng khác biệt giữa tranh thờ của các tộc người miền
núi với tranh thờ trong các dòng tranh dân gian, tranh thờ của người Dao ở các vùng
miền và địa phương khác nhau, qua đó rút ra những đặc điểm tạo hình đặc trưng trong
tranh thờ của người Dao so với các dòng tranh khác.
- Phương pháp nghiên cứu quan sát tham dự: Tham dự trực tiếp vào các hoạt
động thực hành tín ngưỡng tại địa phương có sử dụng tranh thờ, thơng qua đó có được
những nhận định, đánh giá khách quan về thực hành tín ngưỡng của người Dao và
“nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở Yên Bái”. Trong quá trình đi điền dã với mục
tiêu là sưu tầm hiện vật thanh thờ của người Dao, tác giả sẽ phảitrao đổi, phỏng vấn
trực tiếp các chủ nhân văn hóa, các thầy mo, thầy cúng là những người trực tiếp vẽ
tranh thờ và sử dụng trong thực hành tín ngưỡng, đo đạc trực tiếp các bức tranh, tìm
hiểu chất liệu sử dụng, ghi chép thơng tin tên tranh, niên đại, gia chủ, dịng họ, tìm
hiểu cách thức sắp đặt quy tắc treo tranh, quy trình vẽ tranh, chụp ảnh tổng thể và chi

tiết. Ngồi ra, NCS còn phỏng vấn trực tiếp các chủ hộ gia đình, là những cư dân am


8

hiểu về tranh thờ và sử dụng tranh thờ trong sinh hoạt tín ngưỡng tại các địa phương
trong tỉnh Yên Bái. NCS trực tiếp tham dự các nghi lễ thực hành tín ngưỡng, cùng
người dân tại các địa phương của tỉnh Yên Bái, tham gia trực tiếp vào các các lễ cấp
sắc, lễ giải hạn, lễ tang ma của người Dao, để tiếp cận cận bộ tranh thờ ghi chép vai
trò và chức năng được sử dụng trong các nghi lễ, tiếp cận chụp ảnh các bộ tranh thờ,
qua đó thấy tìm hiểu mối liên hệ giữa tơn giáo tín ngưỡng, những quan niệm về thế
giới thần linh, niềm tin, sự cấu kết cộng đồng ẩn sau mỗi bộ tranh thờ.
Đối với nghiên cứu tranh thờ, việc sử dụng phương pháp quan sát để cảm nhận,
thể nghiệm hệ thống hình ảnh để đạt được tri thức kinh nghiệm của hoạt động nghệ
thuật. Nghiên cứu đối với tranh thờ dân tộc Dao, chúng ta trước tiên phải quan sát
phần hiển của tranh thờ và ghi chép miêu thuật hình vẽ và những cảm nhận về cấu
trúc, bố cục, màu sắc, đường nét của tranh thờ. Nhiệm vụ khác của nghiên cứu nghệ
thuật chính là tìm được những bản chất và quy luật của tạo hình, những giá trị ẩn chứa
sau mỗi hình vẽ, thơng qua phân tích tạo hình tranh thờ, chúng ta có thể hiểu diễn
biến lịch sử, ý nghĩa văn hóa của tranh thờ.
- Phương pháp thống kê phân loại:Sau quan sát thực tế có được các thơng tin,
số liệu, hình ảnh, NCS phải thực hiện phương pháp thống kê, phân loại để có thể
thống kê được số lượng tờ tranh trong các bộ tranh thờ, các bộ tranh thờ cổ được lưu
truyền trong dân gian, các bộ tranh thờ được các thầy mo thầy tào vẽ mới của người
Dao tại Yên Bái.
Quá trình nghiên cứu tranh thờ của người Dao, NCS phải thực hiện kết hơp
nhiều phương pháp, từ điền dã tiếp cận thực tế sống động nơi chứa đựng những hoạt
động tín ngưỡng và những bộ tranh thờ của người Dao, tiếp đến kế thừa các nghiên
cứu về tranh thờ của những học giả đi trước, tiến hành truy ngược lại các nghiên cứu,
từ đó quy nạp xâu chuỗi một cách hệ thống về tranh thờ của người Dao, tiến hành

tổng hợp thống kê phân loại so sánh để có cái nhìn tổng thể hệ thống về tranh thờ của
người Dao, từ đó thực hiện các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành nghệ thuật để
ghi chép và hệ thống hóa những dấu hiệu, biểu hiện ngơn ngữ tạo hình về bố cục,
khơng gian, màu sắc đường nét, tổ hợp họa tiết…Trình bầy, giải thích hệ thống hóa


9

những hình vẽ trên mỗi bức tranh, điển hình ngơn ngữ đặc trưng nghệ thuật tranh thờ
của người Dao, từ đó truy ngược các ý nghĩa về tư tưởng, xã hội, tơn giáo tín ngưỡng
của người Dao, tìm ra những đặc điểm riêng biệt, độc đáo về tạo hình cũng như các giá
trị nghệ thuật, giá trị văn hóa ẩn sâu trong mỗi bức tranh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Luận án Nghệ thuật tranh thờ người Dao ở tỉnh n Bái là cơng trình
nghiên cứu toàn diện và hệ thống về nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở Yên Bái
dưới góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật. Luận án phác dựng một bức tranh tổng quan
về hệ thống tranh thờ người Dao ở Yên Bái từ những khía cạnh nguồn gốc, quá trình
lưu truyền và sử dụng, đến hình tượng nghệ thuật của các thần linh…Luận án góp
phần chỉ ra những giá trị về tạo hình, giá trị về nghệ thuật của các bộ tranh thờ của
người Dao tại Yên Bái, qua đó đóng góp những kiến thức về lý luận về chuyên môn
cho công việc bảo tồn và phát huy giá trị của những bộ tranh thờ không chỉ của người
Dao mà còn của các dân tộc khác ở Việt Nam có tranh thờ.
6.2. Thơng qua những kết quả nghiên cứu cụ thể, luận án góp phần tìm ra
những yếu tố đặc trưng nghệ thuật trong tranh thờ của người dao ở Yên Bái, sự kết
hợp chặt chẽ giữa các biểu tượng nghệ thuật và các yếu tố tâm linh, tơn giáo với ngơn
ngữ tạo hình đặc trưng trong việc sắp xếp bố cục, tổ chức không gian trên mặt phẳng,
dùng các thủ pháp tạo hình trong diễn đạt và làm rõ các ngụ ý tượng trưng, góp phần
chỉ ra mối quan hệ tương tác giữa yếu tố tâm linh và ngơn ngữ tạo hình trong tranh
thờ. Ngồi ra, qua những đối chiếu và so sánh, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm
những sự tương đồng và khác biệt của các bộ tranh thờ của người Dao tại Yên Bái

với các thể loại tranh thờ trong các dòng tranh dân gian khác ở miền xuôi cũng như
ở miền núi, trong dòng chảy của tranh thờ Đạo giáo.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (04 trang), tài liệu tham khảo (07 trang)
và phụ lục (83 trang). Nội dung luận án gồm 3 chương.
Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về tranh
thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái (46 trang).


10

Chương II: Nhận diện nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái (53 trang).
Chương III: Đặc trưng nghệ thuật và một số bàn luận trong nghệ thuật tranh thờ
của người Dao ở tỉnh Yên Bái (55 trang).


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT VỀ TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trên thực tế, đã có các cơng trình nghiên cứu về tranh thờ nói chung và tranh
thờ của người Dao nói riêng, nhưng chủ yếu các cơng trình nghiên cứu tiếp cận theo
hướng: Văn hóa học, Dân tộc học và Lịch sử. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống
từ góc nhìn mỹ thuật để thấy được giá trị tạo hình trong bộ tranh thờ chưa được các
nhà nghiên cứu khai thác chuyên sâu, bài bản.
Để có cơ sở nghiên cứu sâu về nghệ thuật tạo hình trong bộ tranh thờ của người
Dao, NCS tập hợp, chọn lọc và phân loại các tài liệu đã cơng bố có liên quan đến đề
tài thành các nhóm nội dung chính như sau: Các nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam

và người Dao ở Yên Bái; các nghiên cứu về tranh thờ trong các dòng tranh dân gian
và tranh thờ của các dân tộc miền núi và tranh thờ của người Dao. Trong nội dung các
cơng trình nghiên cứu có phân chia thành những cơng trình nghiên cứu của tác giả
trong nước và các tác giả nước ngoài. Đây là những nội dung hữu ích giúp NCS có cơ
sở để tiếp cận bộ tranh thờ của người Dao một cách có hệ thống.
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Năm 2000, nhân kỷ niệm một trăm năm, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà
Nội đã cho in tập sách Nhìn lại một thế kỷ nghiên cứu khoa học [108]. Trong tập sách
dày 95 trang, “tranh dân gian Việt Nam” được giới thiệu nhiều nhất trong một bài
viết và nhiều ảnh minh họa chiếm gần nửa số trang của cuốn sách (40 trang). Qua
phần giới thiệu này, có thể thấy, những nghiên cứu của các nhà khoa học của Viện
Viễn Đông Bác Cổ Pháp chủ yếu tập trung vào tranh dân gian của người Việt, và một
trong những thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực này là cơng trình Tranh dân
gian của người Việt Namcủa Maurice Durand [109]. Qua những khái quát khoa học
rất ngắn gọn của phần viết này, chúng tôi ít nhiều đã nhận thấy được những nét chung
và những khác biệt quan trọng về chức năng, kỹ thuật, đề tài và nghệ thuật làm tranh


12

giữa tranh dân gian của người Việt và tranh thờ của người Dao nói chung và của
người Dao ở Yên Bái nói riêng. Vì vậy, có thể khẳng định, chính các nhà khoa học
Việt Nam mới là những người đầu tiên tìm hiểu và nghiên cứu tranh dân gian của các
dân tộc ít người ở Việt Nam.
Năm 2015, Nxb Dân tộc đã xuất bản cuốn sách Nghiên cứu hội họa tranh thờ
dân gian dân tộc Dao, chủ biênPhụng Hằng Cao [7]. Cuốn sách gồm có 2 chương,
chương I, là phần lời tựa, có các nội dung về đề cập về mơi trường sống của tranh thờ
dân tộc Dao, trong đó có phân tích về yếu tố như mơi trường địa lý, mơi trường văn
hóa xã hội, chế độ hơn nhân gia đình, tập tục sinh hoạt, tơn giáo của dân tộc Dao.
Tiếp theo có nội dung về hiện trạng nghiên cứu tranh thờ dân tộc Dao, đây là nội

dung quan trọng, là nguồn tư liệu quý giúp NCS có cái nhìn khái qt, nhưng cơ đọng
rõ nét về hệ thống về những cơng trình của các tác giả nhà nghiên cứu nước ngồi về
tranh thờ dân tộc Dao.
Theo trích dẫn của cuốn sách, năm 1981, học giả đầu tiên được đánh giá cao
có cơng lao nghiên cứu về tranh thờ của người Dao là Jacques Lemoine học giả người
Pháp là nổi bật nhất với cuốn sách Tranh nghi lễ dân tộc Dao được xuất bản vào năm
1981, theo đánh giá của các nhà nghiên cứu đây là một tác phẩm nghiên cứu xuất sắc
nhất về tranh thờ của người Dao trong và ngoài nước hiện nay. Trong tác phẩm nghiên
cứu này tác giả đã tiến hành phân tích giới thiệu những bức tranh thờ dân tộc Dao mà
tác giả sưu tầm được ở Thái Lan, Lào và miền bắc Việt Nam. Tác giả đã miêu tả một
cách hệ thống tranh thờ dân tộc Dao bao gồm việc giới thiệu các bức tranh thờ được
kể tên như tranh: Tam Thanh, Ngọc Hoàng và Thánh chủ, tranh thờ Thiên sư, tranh
thờ Thái úy, tranh thờ Hải phiên, tranh thờ Dương gian thủy phủ, tranh thờ Thiên phủ
địa phủ, Thập điện Diêm vương, Nguyên Soái, Tam tướng quân,tổ tiên, gia tiên, Đại
đạo kiều và mặt nạ.Trong cuốn sách tác giả còn giới thiệu cách thức bầy thần đàn ở
miền Bắc Thái Lan. Nhưng theo các nhà nghiên cứu viện dẫn “cuốn Tranh nghi lễ dân
tộc Dao chỉ là giới thiệu mang tính chất miêu tả tranh thờ dân tộc Dao chứ không đi
sâu phân tích và nghiên cứu lý thuyết mang tính tổng hợp”. Nhưng các nhà nghiên cứu


13

cũng khẳng định cuốn sách là tài liệu quan trọng đã cung cấp tư liệu rất phong phú đểđi
sâu nghiên cứu tranh thờ dân tộc Dao.
Tiếp tục đi sâu nghiên cứ về người Dao và tranh thờ của người Dao theo các
dẫn luận từ cuốn sách tác giả đã chỉ rõ, có nhiều học giả nước ngồi quan tâm chú ý
tới quần tộc sinh sống ở Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc, trong những năm
gần đây đã có một số tác phẩm nghiên cứu đề cập đến tranh thờ dân tộc Dao ở khu
vực Đơng Nam Á: ví dụ cuốn sách Người Dao - “Miễn” và “Mùn” ở Trung Quốc,
Việt Nam, Lào và Thái Lan của tác giả Jess G. Pourret người Pháp năm 2002; Ngoài

ra, trong cuốn sách Những người ở Tam giác vàng của tác giả Paul, Elaine Lewis,
năm 1998 cũng giới thiệu tranh thờ dân tộc Dao ở khu tam giác vàng. Trong cuốn
sách Người Dao Thái Lan - Quá khứ, hiện tại và tương lai của học giả Thái Lan Chai
bo. Ka Chai. A Nan Da, Tạ Triệu Sùng, La Tơng Chí dịch, NXB Dân tộc, Bắc Kinh
2006,cũng giới thiệu đến tranh thờ của người Dao Thái Lan; Đồng thời cịn có một
số bài viết về tranh thờ dân tộc Dao, như “18 tranh thờ dân tộc Dao và truyền thuyết
Bàn hộ được thể hiện trong Bình Hồng khốn điệp” của tác giả Bạch Đảo Phương
Lang, Nhật Bản năm 1972; “Nghi lễ tôn giáo Dao Làn Tẻn - mặt nạ” của tác giả Jess
G Pourret năm 1993; “Ý thức biểu hình vẽ phụ hệ trong nghi lễ treo đèn Dao“Miễn”
miền bắc Thái Lan” của học giả Nhật Bản Yoshino... Những bài viết này hoặc nhiều
hoặc ít đều đề cập đến tranh thờ người Dao.
Ở mỗi cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngồi, có liên quan đến tranh
thờ của người Dao ở Trung Quốc và Thái Lan vừa nêu trên, tác giả cuốn sách đã dẫn
luận phân tích làm rõ mức độ nghiên cứu của từng cơng trình, Trong đó có tác giả chỉ
giới thiệu cung cấp cho độc giả một số ảnh về tranh thờ do bản thân tự chụp, từ đó
chỉ miêu tả sơ bộ về nội dung tranh mà thơi, khi giới thiệu dường như“khơng chú ý
đến tính liên hồn, tính hồn chỉnh của mỗi bộ tranh thờ”.
Kết kuận về nghiên cứu của các học giả nước ngoài về tranh thờ của người
Dao tác giả cuốn sách viết:
Nói tóm lại, nghiên cứu của học giả nước ngoài đối với tranh thờ dân
tộc Dao vẫn ở vào giai đoạn đầu, thành quả nghiên cứu của họ đều thuộc


14

viết dân tộc chí mang tính chất miêu tả, rất nhiều vấn đề đều khơng được
đi sâu nghiên cứu, cịn để trống một khoảng lớn khoa học. Ý thức thẩm
mỹ, văn hóa tinh thần, ý nghĩa biểu hình vẽ nghi lễ mà nó chứa đựng của
tranh thờ dân tộc Dao càng khơng đề cập đến [7, tr.18].
Thống kê tình hình nghiên cứu liên quan đến tranh thờ của người Dao của các

học giả Trung Quốc, tác giả cuốn sách liệt kê chi tiết những cơng trình nghiên cứu
điển hình, trong khoảng thời gian được xác định.
Giữa thập niên 30 của thế kỷ XX đến nay: Theo tác giả cuốn sách có các cơng
trình nghiên cứu được đề cập như: “Điều tra Dao Sơn Lưỡng Quảng” Bàng Tân Dân
năm 1935; “Tổ chức xã hội Dao Hoa Lam xã Đông Nam huyện Hình vẽ tỉnh Quảng
Tây” của Phí Hiếu Thơng và Vương Đồng Huệ năm 1937 tại khu vực dân tộc Dao
Hoa Lam, Kim Tú, Quảng Tây và “Tơn giáo tín ngưỡng của người Dao ở Quảng
Đông và kinh chú của họ” của Giang Ứng Lương năm 1939. Khi liệt kê và phân tích
các cơng trình nghiên cứu trên tác giả phân tích, dẫn chứng về đối tượng, phạm vi,
mức độ nghiên cứu của các cơng trình, từ đó đưa ra nhận định “Những tác phẩm này
đều trình bày và giải thích thần thánh tín ngưỡng của người Dao và có chút ít đề cập
đến tranh thờ dân tộc Dao, nhưng chỉ là lướt qua mà thôi”.
Đến thập kỷ 80-90 thế kỷ XX: Một số học giả trong quá trình nghiên cứu chuyên
ngành tôn giáo dân tộc Dao cũng đề cập đến tranh thờ, như tác phẩm nghiên cứu “Lược
sử tôn giáo tín ngưỡng dân tộc Dao”, “Tơn giáo tín ngưỡng dân tộc Dao” của Trương
Hữu Tuyển, khi trình bày và giải thích thần thánh dân tộc Dao cũng nhắc đến tranh thờ
của dân tộc Dao, nhưng cũng chỉ lướt qua và chưa có miêu tả sâu.
Thập niên 90 thế kỷ XX: Liên tục xuất bản những tác phẩm nghiên cứu chuyên
ngành về tơn giáo dân tộc Dao, như “Luận văn hóa truyền thống dân tộc Dao”, “Tập
nghiên cứu Dao Trà Sơn”. Cịn có một số tham luận liên quan đến thần thánh dân tộc
Dao và nghi lễ tôn giáo dân tộc Dao, như “Tơn giáo tín ngưỡng dân tộc Dao ở bắc
Quảng Đơng và mối quan hệ của nó với đạo giáo”, “Cấu trúc đa ngun của tơn giáo
tín ngưỡng dân tộc Dao ở Quảng Đông”, “Luận đạo giáo được truyền bá vào dân tộc
Dao”.


15

Những bài viết này đều đi sâu tìm tịi nghi lễ tôn giáo dân tộc Dao và cũng tiến
hành phân tích phân loại thần thánh tín ngưỡng dân tộc Dao. Có thể nói, chúng tạo

nền tảng cho nghiên cứu hệ thống tranh thờ người Dao.
Từ đầu TK XXI đến nay: Tác giả cuốn sách liệt kê, trích dẫn và phân tích một
số bài viết trình bày và giải thích tơn giáo dân tộc Dao có liên quan đến tranh thờ dân
tộc Dao:“Nghiên cứu ảnh hưởng đạo giáo hóa đối với tôn giáo, phong tục khu vực
dân tộc Dao”, “Cấp sắc” của Dao Làn Tẻn và ý nghĩa xã hội của nó”. “Bàn về tín
ngưỡng trờ thành tiên trong đạo giáo dân tộc Dao”, “Treo đèn của dân tộc Dao với
tín ngưỡng Bắc đẩu thất tinh của đạo giáo” củaTừ Tổ Tường. “Văn hóa Dao Trà Sơn”
của Lưu Nguyên Bảo; “Hội họa dân gian” của Tôn Hân và “Hội họa dân gian Hồ
Tương” của Nghiêm Tân Nguyên, đều đề cập đến tranh thờ của người Dao. Trong
đó, “Hội họa dân gian” và “Hội họa dân gian Hồ Tương” còn thu thập được khơng ít
ảnh tranh thờ dân tộc Dao khu vực Hồ Tương. Thế nhưng, nói tóm lại, các loại tác
phẩm kể trên cũng chỉ dừng lại ở điểm danh mà thơi, những ghi chép, miêu thuật về
chúng trên tạp chí chưa có nhiều phân tích và trình bày.
Như vậy, ở toàn bộ chương I của cuốn sách Nghiên cứu hội họa tranh thờ dân
gian dân tộc Dao,ở nội dung hiện trạng về nghiên cứu tranh thờ của người Dao, tác
giả đã thống kê một cách tổng quát tác phẩm nghiên cứu chuyên ngành của các học
giả nước ngoài và học giả Trung Quốc về tranh thờ dân tộc Dao từ giai đoạn giữa
thập niên 30 củathế kỷ XX đến nay. Q trình diễn giải có phân tích nội dung chính
yếu các tác phẩm, để làm rõ mức độ nghiên cứu về tranh thờ của người Dao ở Trung
Quốc, Thái Lan và miền Bắc Việt Nam. Tác giả nhận định tranh thờ dân tộc Dao đa
phần là “tác phẩm đi kèm” với nghiên cứu về tôn giáo dân tộc Dao, rất ít tác giả coi
tranh thờ là đối tượng trực tiếp nghiên cứu. Các cơng trình chủ yếu tập trung nghiên
cứuloại hình và đi tìm nguồn gốc tập tục văn hóa tranh thờ, nguồn gốc và sự phát
triển của tranh thờ dân tộc Dao, các nghiên cứu đều chưa đề cập đến ngơn ngữ tạo
hình, phong cách nghệ thuật và đặc trưng thẩm mỹ, hay nói cách khác nội dung nghiên
cứu về tạo hình của tranh thờ cịn thiếu hụt. Tác giả nhận định “Cho đến nay vẫn chưa


16


có tác phẩm nghiên cứu nghệ thuật văn hóa hội họa tranh thờ dân tộc Dao một cách
hệ thống toàn diện” [7, tr.21].
Từ phần III của cuốn sách Nghiên cứu hội họa tranh thờ dân gian dân tộc
Daolà các nội dung về: Lý thuyết và con đường nghiên cứu, những vấn đề được diễn
giải là nhân học nghệ thuật với tố cầu văn hóa đằng sau tranh thờ, phương pháp và
con đường nghiên cứu, khái quát phân bố tranh thờ dân tộc Dao. Từ chương II của
cuốn sách đi vào giải mã tranh thờ dân tộc Dao, cụ thể có các nội dung phân tích đặc
trưng cơ bản của tranh thờ, xuất phát từ một bài hát được các thầy cúng hát lên khi
hành lế “Tam thỉnh chúng thánh ca” đã miêu tả cơ bản các thần linh trong tranh thờ,
đây là một căn cứ để tác giả đi vào nghiên cứu tranh thờ. Toàn bộ nội dung này tác
giả đi vào miêu thuật một cách khái quát về 18 vị thần trong bộ tranh thờ của người
Dao Bàn ở Cổ Bảo Đại Dao Sơn, Kim Tú, Quảng Tây cất giữ. Theo thứ tự tác giả đã
miêu tả từng vị thần trong bộ tranh thờ theo nguyên tắc từ cao xuống thấp, từ tên gọi,
nguồn gốc xuất sứ, chức năng quyền vị, dáng thế đứng, ngồi biểu hiện trên tranh,
xiêm y trang phục, sơ bộ về họa tiết trang trí trên phẩm phục mũ áo…Đây là những
thông tin về lịch sử, văn hóa, tơn giáo tín ngưỡng được ẩn chứa phía trong mỗi vị
thần, mặc dù chưa đi vào giải mã ngơn ngữ tạo hình, biểu đạt về ngơn ngữ hội họa
dân gian trên tranh, nhưng những nghiên cứu trên thự sự hữu ích, đã giúp cho NCS
có thêm hệ thống kiến thức nền tảng, cơ sở để từ đó làm căn cứ tiếp tục nghiên cứu
về tạo hình tranh thờ theo hướng nghiên cứu của đề tài.
Năm 2015, Cuốn sách How to make the universe right. Art of Shaman from
Vietnam and Southern China (tạm dịch là Thực hiện quyền năng vũ trụ như thế nào.
Nghệ thuật của các thầy Shaman ở Việt Nam và Nam Trung Quốc) xuất bản năm
2015 tại California, Hoa Kỳ [107] mà, trong một dịp may mắm vào gần cuối năm
2019, NCS đã được gặp Trian Nguyễn và được Trian tặng cuốn sách này. Theo NCS,
cuốn sách của Trian Nguyễn khơng chỉ là cơng trình nghiên cứu khá công phu và đầy
đủ về hệ thống tranh thờ (tranh của các thầy phù thủy Đạo giáo hay Shaman) ở Việt
Nam và Nam Trung Quốc, mà còn là cơng trình có nhiều gợi ý và nhiều tư liệu bổ
ích cho đề tài luận án.



17

Trên cơ sở những điều tra thực tế cũng như tham khảo các tài liệu của các nhà
nghiên cứu, trong đó có các nhà nghiên cứu Việt Nam, trong cuốn sách của mình,
Trian Nguyễn đã đề cập đến một nhóm đặc biệt gồm các bức tranh cuộn và các đồ
vật nghi lễ được sử dụng bới các thầy shaman (các thầy phù thủy) của các dân tộc
Dao, Tày, Sán Dìu, Cao Lan, Nùng, Sán Chay và các tộc người thiểu số khác ở Nam
Trung Quốc và ở Việt Nam. Vì vậy, những tài liệu và những phân tích của cuốn sách
giúp NCS nhận thấy tính chất phù thủy Đạo giáo, hệ thống thần điện và nghệ thuật
thể hiện chung và thống nhất của tranh thờ của người Dao từ nguyên thủy cho đến
nay ở Nam Trung Quốc và ở Việt Nam. Ngoài đề cập đến trong chương 1 khái quát
(30 trang) và chương 2 viết về “ông thầy và bà thầy shaman” (28 trang), các bức tranh
cuộn của người Dao được đề cập đến trong hai chương tiếp theo của cuốn sách:
Chương 3: Khởi đầu vào con đường tâm linh của Đạo; chương 4: Bộ đầy đủ 16 bức
tranh.
Trong chương viết về con đường tâm linh, tác giả mô tả và phân tích những
hình ảnh được thể hiện trên ba bức tranh cơ bản thường được sử dụng ở lễ cấp sắc ba
đèn của người Dao: 1. Bức Thái úy, 2. Bức Tiểu Hải phan và 3. Bức Tổ tông. Trong
chương viết về bộ tranh đầy đủ, tác giả Trian đã đi sâu tìm hiểu hệ thống thần điện
đầy đủ của một thầy shaman được thể hiện trên 16 bức tranh cuộn dọc. Bộ tranh mà
tác giả Trian đưa ra khảo tả và phân tích là bộ tranh có niên đại năm 1819 của người
Dao Đỏ ở Trung Quốc. Theo quan sát và so sánh, NCS nhận thấy, các bộ tranh cuộn
đầy đủ của người Dao ở Yên bái cũng có số lượng, cách thể hiện và cách sắp xếp khi
đưa ra sử dụng, về cơ bản, giống với của bộ tranh năm 1819 của người Dao Đỏ ở
Trung Quốc. Ngoài bộ gồm 16 bức tranh cuộn dọc thể hiện các vị thần chính của Đạo
giáo, trong các chương tiếp theo, các thể loại tranh shaman khác của người Dao là
các bức tranh thế hiện bốn sứ giả nhà trời (tứ trực công tào), các mặt nạ giấy và bức
tranh cuộn ngang “Đại đường kiều” cũng được tác giả Trian phân tích, nhưng trong
tổng thể với các tranh cùng loại của các dân tộc miền núi khác. Cụ thể là, trong chương

6: Bốn sứ giả nhà trời.


18

Qua so sánh, NCS nhận thấy, người Dao ở Yên Bái có đầy đủ các bức tranh
thuộc tất cả bốn loại tranh: bộ 16 tranh cuộn dọc, các tranh Tứ trực, Công tào, bức
tranh cuộn ngang Đại đường kiều và những bức tranh mặt nạ. Ngồi ra, qua những
mơ tả và những hình minh họa của cuốn sách, NCS cịn nhận thấy, về cơ bản, những
bức tranh của người Dao ở Yêu Bái giống với các bức tranh cổ thế kỷ XIX của người
Dao ở Trung Quốc. Vì vậy, cuốn sách này đã cung cấp cho NCS những gợi ý và
những tư liểu so sánh rất bổ ích để trinh bày ngững nghiên cứu của mình về tranh thờ
của người Dao ở Yên Bái.
Năm 2017, cũng tác giả Nguyễn Tri Ân (Trian Nguyen), đại học Batet Hoa
Kỳ có bài viết “Tơn giáo, tín ngường và văn hóa của dân tộc Dao nhìn từ góc độ tranh
thờ” đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 490 (tháng 12/ 2017) và số 491 (tháng 1/2018).
Bài viết gồm 26 trang có các phần chính: Dẫn nhập, phân loại các bộ tranh thờ gồm
có bộ Tiểu Đường và bộ tranh Đại Đường, bộ tranh bổ túc, phần cuối là kết luận.
Phần phần dẫn nhập của bài viết tác giả Nguyễn Tri Ân đã khái qt đơi nét chính về
dân tộc Dao, về dân số, cư trú, di dân, di cư từ nam Trung Quốc vào Bắc Việt Nam,
một số đặc điểm nổi bật về tập tục tín ngưỡng trong thờ cúng và các nghi lễ thực hành
tín ngưỡng. Từ đó tác giả đề cập đến sự liên quan giữ thế giới tâm linh, nghệ thuật,
hội họa với tranh thờ của người Dao.
Ở phần phân loại bộ tranh thờ của người Dao tác giả Nguyễn Tri Ân đã thực
hiện phân loại bộ tranh thờ của người Dao làm 3 phần chính là Bộ tranh Tiểu Đường,
bộ tranh Đại Đường và bộ tranh bổ túc, từ đó tác giả mơ tả cách sắp xếp trưng bày
bộ tranh theo thứ tự khi hành lễ, dựa trên nghiên cứu từ lễ cấp sắc, các lạc khoản và
việc trưng bày bộ tranh trên thực tế. Đồng thời tác giả bài viết giới thiệu gắn gọn một
số thần linh Đạo Giáo bắt nguồn từ những nhân vật huyền thoại hoặc lịch sử văn học
Trung Quốc, từ đó tác giả thực hiện sơ tả về đặc điểm, dáng thế, chân dung, ý nghĩa

chức vị quyền hạn của các vị thần trên 3 bộ tranh thờ Tiểu Đường, Đại Đường và Bổ
túc.
Ở phần kết luận tác giả Nguyễn Tri Ân nêu rõ tranh thờ của người Dao là một
di sản vật thể có giá trị về mặt văn hóa, tơn giáo, tín ngưỡng từ đó đưa ra ý kiến về


19

việc bảo tồn và phát triển. Tác giả nêu hai điểm chính trong phần kết luận, một là ý
nghĩa tầm quan trọng của lạc khoản trong nghiên cứu tranh thờ, thông qua lạc khoản
ta biết được niên đại, chủ nhân, nghệ nhân, số lượng tranh, lời ước nguyện của gia
chủ, cũng như mong ước của người Dao trong đời sống. Hai là về vấn đề vẽ tranh tác
giả nêu, người Dao có nhiều nhóm, cư trú ở một số quốc gia như Trung Quốc, Thái
Lan, Lào, Việt Nam các tranh vẽ có số tuổi khác nhau, cũ nhất khoảng 200 năm, mới
vẽ là vài chục năm, tuy cùng thể loại chủ đề nhưng có sự khác biệt về thời gian, vùng
cư trú và bản gốc do nghệ nhân dùng để vẽ. Nhìn chung các bộ tranh do người Trung
Quốc vè vào TK XIX và đầu TK XX được người Dao đem theo khi họ di cư về
phương Nam, các bức tranh này do những nghệ nhân theo Đạo Giáo, có hiểu biết về
hội họa cổ điển Trung Quốc, có kỹ năng tay nghề khéo léo, nên có tính thẩm mỹ cao,
miêu tả đúng phong cách, bố cục và các họa tiết trang trí theo đúng những nguyên
tác, tiêu chuẩn khi vẽ các thần linh và anh hùng dân tộc. Càng về sau do thiếu người
có chun mơn, qua thời gian và từng vùng miền các bức tranh vẽ lại bị thiếu chuẩn
xác mang đường nét mộc mạc, vụng về, thiếu sót nhiều chi tiết tiêu chuẩn, khơng theo
quy trình và quy chuẩn truyền thống, làm cho các bức tranh thiếu tính thẩm mỹ, khơng
cịn được vẻ đẹp như trước. Phần cuối tác giả có giải thích một số thuật ngữ thường
dùng khi nghiên cứu tranh thờ như thầy Tào, Pháp sư, Đạo sư, Sư công giải nghĩa và
nêu chức vụ thi hành, tác giả nêu những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan của
người Dao, những ý nghĩa tôn giáo, dân tộc, lịch sử thông qua bộ tranh thờ.
Bài viết “Tơn giáo, tín ngường và văn hóa của dân tộc Dao nhìn từ góc độ
tranh thờ” của tác giả Nguyễn Tri Ân (Trian Nguyen), đại học Batet Hoa Kỳ đã tiếp

nối cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đi trước đã cụ thể những vấn
đề về nguồn gốc, xuất sứ đưa ra nhũng dấu mốc về niên đại cụ thể của các bộ tranh
thờ của người Dao nghiên cứu ở Trung Quốc Thái Lan, Lào và Bắc Việt Nam, hệ
thống tên gọi, cách thức treo trưng bày khi hành lễ, mô tả khái lược về dáng thế, chân
dung, chức vị, quyền hạn, ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng biểu hiện trong từng vị thần
trên mỗi bức tranh. Từ đó đưa ra những giá trị về văn hóa lịch sử, tơn giáo tín ngưỡng
nhân sinh thế giới được phản ánh qua bộ tranh thờ. Đây là nguồn tư liệu quý giúp


×