Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ tại việt nam và giải pháp nhằm thực hiện giai đoạn sắp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 121 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài: Tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ tại Việt Nam và giải pháp thực hiện giai đoạn sắp tới

Sinh viên thực hiện : Ngô Mạnh Dũng
Lớp : Nhật 1
Khoá : K43F
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Hạnh





Hà Nội, 2008


1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính tất yếu của đề tài


Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, đặc biệt là
khi Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới, thì việc mở rộng thị trường ra nước ngoài đang trở thành một nhu cầu tất
yếu đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, nhất là mở rộng ra các thị trường
lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU.
Với dân số 127,77 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội đạt khoảng 5,5
nghìn tỷ USD (năm 2007), dự trữ ngoại tệ 1.010 tỷ USD (tháng 2/2008), Nhật
Bản hiện là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Nhật Bản
cũng là thị trường có sức mua rất lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng
ngày càng tăng cùng với xu hướng phục hồi của nền kinh tế trong những năm
gần đây. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản đã mở ra nhiều cơ hội trong
việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước này của các quốc gia trong khu
vực trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản đang là thị trường nhập khẩu
lớn thứ hai của Việt Nam. Năm 2007, Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng
hóa với trị giá khoảng 800 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam là 6,1 tỷ
USD. Ngoài ra, Nhật Bản còn là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam
và là nước đứng đầu về vốn thực hiện trong số các nước và vùng lãnh thổ có
vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.
Trong những năm gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang
phát triển rất tốt đẹp. Tháng 7/2005, sau chuyến thăm chính thức Nhật Bản
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, quan hệ giữa hai nước đã nâng lên một tầm
cao mới “quan hệ đối tác chiến lược”. Và hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản
đang tích cực đàm phán hai hiệp định rất quan trọng đó là Hiệp định đối tác


2
kinh tế toàn diện (EPA) và Hiệp định thương mại tự do (FTA) để dành cho
nhau những ưu đãi trong thương mại và đầu tư…
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa quan hệ kinh tế thương mại giữa
Việt Nam và Nhật Bản chỉ hoàn toàn thuận lợi, không có khó khăn. Kim

ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản mặc dù tăng lên khá nhanh
trong những năm qua nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nhu cầu nhập
khẩu của Nhật Bản, chưa đến 1%. Thị trường Nhật Bản với những rào cản kỹ
thuật khắt khe nhất thế giới đang gây rất nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và thâm nhập vào thị trường này. Hơn
nữa, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản còn chịu sự cạnh tranh
rất khốc liệt từ Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN - những nước
có cùng lợi thế cạnh tranh như Việt Nam…
Với thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
như vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Thâm nhập thị trường Nhật Bản
của các doanh nghiệp Việt Nam, cơ hội và thách thức” làm đề tài nghiên
cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam
thâm nhập tốt hơn vào thị trường Nhật Bản.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, làm rõ đặc điểm của thị trường Nhật Bản.
Hai là, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng thâm nhập thị trường
Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây.
Ba là, phân tích những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt
Nam khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Bốn là, đề xuất những giải pháp đối với Nhà nước và các doanh nghiệp
nhằm làm tăng hiệu quả thâm nhập thị trường Nhật Bản của các doanh nghiệp
Việt Nam.


3


3. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thâm nhập thị trường Nhật
Bản của các doanh nghiệp Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm: duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, lôgíc và
lịch sử, tổng kết thực tiễn…
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về các phương thức thâm nhập thị
trường nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thâm nhập thị trường Nhật Bản của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Chương 3: Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.












4



CHƢƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC PHƢƠNG THỨC
THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG NƢỚC NGOÀI

I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG
1. Khái niệm thị trƣờng
Người ta đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường:
Trong kinh tế chính trị học người ta định nghĩa “thị trường là lĩnh vực
lưu thông, ở đó hàng hoá thực hiện được giá trị của mình đã được tạo ra trong
lĩnh vực sản xuất”. Định nghĩa này muốn khẳng định giá trị của hàng hoá chỉ
có thể thực hiện được thông qua hoạt động trao đổi, hoạt động trao đổi này
được diễn ra trong quá trình lưu thông – một trong những khâu của quá trình
tái sản xuất.
Trong Marketing, khái niệm về thị trường cũng dựa trên nền tảng là sự
trao đổi. Theo Philip Kotler: “Thị trường là tập hợp tất cả những người mua
thực sự và những người mua tiềm tàng đối với một sản phẩm”.
Song đối với các doanh nghiệp, tốt nhất nên hiểu thị trường là nơi có nhu
cầu cần được đáp ứng.
2. Chức năng của thị trƣờng
Thị trường có 4 chức năng cơ bản:
 Chức năng thừa nhận
Việc tiêu thụ hàng hoá của một doanh nghiệp được thực hiện thông qua
chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là sự chấp
nhận của người mua đối với hàng hoá, dịch vụ.


5
Mỗi thị trường có sự thừa nhận rất khác nhau về số lượng, chất lượng,
giá cả, công dụng, kiểu cách mẫu mã đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
Ngoài ra, thị trường còn thừa nhận hành vi trao đổi mua bán giữa các đối tác

trên thị trường.
 Chức năng thực hiện
Thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá; thực hiện hoạt động cung
cầu, cân bằng cung - cầu của mỗi loại hàng hoá; thực hiện giá trị của hàng hoá
thông qua giá cả Thông qua chức năng này của thị trường, giá trị trao đổi
của các loại hàng hoá được hình thành.
 Chức năng điều tiết kích thích
Chức năng này được thể hiện như sau:
- Thông qua nhu cầu về các loại hàng hoá, dịch vụ, thị trường sẽ hướng
dẫn doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Mỗi nhà sản xuất, kinh doanh phải
dựa vào thị trường để chủ động di chuyển các nguồn lực từ ngành này sang
ngành khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác hay từ khu vực này sang khu
vực khác để đạt được mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Hơn nữa,
trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, muốn tồn tại trên thị trường
các doanh nghiệp buộc phải liên tục đổi mới nhằm tạo ra những sản phẩm
mới, sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá thành thấp để được người tiêu
dùng chấp nhận. Do vậy, thị trường kích thích các doanh nghiệp tiết kiệm chi
phí, phát huy sáng kiến, cải tiến quản lý và trình độ công nghệ để tạo ra
những sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh ngày càng cao.
- Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, thị trường hướng dẫn
tiêu dùng. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, thị trường sẽ cung
cấp cho người tiêu dùng những thông tin về các sản phẩm để họ có thể quyết
định lựa chọn sản phẩm nào.
 Chức năng thông tin


6
Thị trường thông tin cho doanh nghiệp về tổng cung và tổng cầu, cân
bằng cung - cầu đối với từng loại hàng hoá; thông tin về giá cả hàng hoá; các
yếu tố ảnh hưởng đến thị trường; chất lượng hàng hoá; xu hướng vận động

của hàng hoá
Thông tin từ thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với những nhà
quản lý kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đưa
ra một quyết định điều tiết nền kinh tế, hay chiến lược sản xuất, kinh doanh
đúng đắn thì doanh nghiệp cần phải có thông tin đầy đủ và chính xác. Mà
thông tin quan trọng nhất chính là thông tin từ thị trường vì đó là những thông
tin khách quan, phản ánh chân thực những biến động không chỉ của thị trường
mà còn của cả nền kinh tế.
Trên đây là bốn chức năng của thị trường. Bốn chức năng này có mối
quan hệ mật thiết với nhau, mỗi hiện tượng kinh tế trên thị trường đều thể
hiện bốn chức năng này.
3. Mối quan hệ giữa thị trƣờng và doanh nghiệp
Thị trường chính là nơi quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nên
doanh nghiệp luôn luôn phải gắn bó với thị trường. Mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với thị trường thực chất là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với những
người tiêu dùng trên thị trường, được thể hiện thông qua các quá trình trao đổi.
Các quá trình trao đổi đó được đơn giản hoá bằng hai chu trình.
Chu trình thứ nhất, thị trường và doanh nghiệp trao đổi thông tin với
nhau. Thị trường cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết cho
hoạt động của doanh nghiệp. Trước hết là những thông tin về nhu cầu của thị
trường: thị trường cần cái gì? cái đó như thế nào? số lượng là bao nhiêu?
Doanh nghiệp cung cấp cho thị trường thông tin về các sản phẩm, dịch vụ mà
thị trường sẽ được đáp ứng, những lợi ích mà người tiêu dùng sẽ nhận được
khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, hoặc người tiêu dùng có thể
tìm kiếm các hàng hoá dịch vụ ấy ở đâu?


7
Chu trình thứ hai, doanh nghiệp và thị trường trao đổi với nhau về kinh
tế. Doanh nghiệp cung cấp cho thị trường những hàng hoá, dịch vụ mà thị

trường cần, đồng thời doanh nghiệp nhận được từ thị trường số tiền tương ứng
với giá trị những hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp.


4. Vai trò của thị trƣờng nƣớc ngoài đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn mong muốn
ngày càng mở rộng thị trường. Nhưng nếu doanh nghiệp chỉ kinh doanh ở thị
trường nội địa với lượng người tiêu dùng hữu hạn và ngày càng xuất hiện
nhiều đối thủ cạnh tranh thì mong muốn đó khó có thể đạt được, thậm chí thị
phần còn có nguy cơ bị thu hẹp. Để khắc phục tình trạng này, doanh nghiệp
có thể di chuyển nguồn lực sang lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác hay cũng
có thể đầu tư nghiên cứu, cải tiến sản phẩm để tạo ra những sản phẩm mới,
hoặc những sản phẩm có tính năng vượt trội. Song những việc làm này
thường là rất khó, tốn kém và không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được.
Vì vậy, tìm kiếm và phát triển ra thị trường nước ngoài là một giải pháp hữu
ích đối với doanh nghiệp trong giai đoạn toàn cầu hoá. Thị trường nước ngoài
với đặc điểm vô cùng rộng lớn, đa dạng nhu cầu sẽ mở ra cho doanh nghiệp
những cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
Gia nhập thị trường thế giới có tác động tích cực tới sự phát triển của
doanh nghiệp trên nhiều mặt:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Tham gia thị
trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải lấy nhu cầu của thị
trường thế giới làm cơ sở để sản xuất. Quá trình sản xuất hướng về xuất khẩu,
hướng ra thị trường nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải đặt mình trong
mối quan hệ cạnh tranh với các doanh nghiệp quốc tế, từ đó buộc doanh


8
nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao

năng suất lao động để tạo những sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và
có giá thành rẻ. Điều này rất có lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp,
buộc doanh nghiệp phải tự hoàn thiện để nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Tìm kiếm khách hàng mới: Thị trường nước ngoài rất rộng lớn, nhu
cầu đa dạng vì vậy sản phẩm doanh nghiệp đang sản xuất sẽ có nhiều khả
năng đáp ứng được nhu cầu của một nhóm khách hàng nào đó trên thị trường.
Sản phẩm của doanh nghiệp dù đã quen thuộc với khách hàng trong nước
nhưng với khách hàng nước ngoài, nó có thể rất mới lạ và hấp dẫn người tiêu
dùng, từ đó tăng doanh số bán hàng và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cho phép doanh nghiệp kéo dài vòng đời sản phẩm: Sản phẩm của
doanh nghiệp đang ở giai đoạn chín muồi hoặc suy tàn trên thị trường nội địa
khi được đưa ra bán trên thị trường nước ngoài có thể bắt đầu một vòng đời
mới, kéo dài thời gian tồn tại của nó trên thị trường, từ đó tối đa hoá doanh số
bán cho doanh nghiệp.
- Cho phép doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất: Khi thị trường nước
ngoài được mở ra sẽ cho phép doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn hơn, từ
đó có được lợi thế nhờ quy mô bằng việc tận dụng được công suất của máy
móc, nhà xưởng và khai thác được lợi thế về chi phí của đường cong kinh
nghiệm. Do vậy, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí trên mỗi đơn vị sản
phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, doanh nghiệp còn có thể
tìm kiếm lợi thế vị trí bằng cách di chuyển các hoạt động sản xuất, kinh doanh
đến những nơi chúng hoạt động hiệu quả nhất.
- Trải rộng thị trường để giảm bớt rủi ro trong kinh doanh: Nếu một
doanh nghiệp chỉ kinh doanh ở một thị trường nhất định thì khi thị trường đó
gặp phải những rủi ro như: khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị, chính sách
của nhà nước thay đổi theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp, hay gia tăng đối
thủ cạnh tranh thì sẽ gây ra hậu quả rất trầm trọng cho hoạt động kinh doanh


9

của doanh nghiệp. Do vậy, để giảm bớt những rủi ro do thị trường các doanh
nghiệp nên mở rộng phạm vi kinh doanh sang thị trường nhiều nước. Mặt
khác, khi hoạt động ở thị trường nước ngoài doanh nghiệp còn có thể tận
dụng được những chính sách ưu đãi mà nước sở tại dành cho doanh nghiệp,
giảm cường độ cạnh tranh
II. CÁC PHƢƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG NƢỚC NGOÀI
Hiện nay, có 5 phương thức chủ yếu để thâm nhập thị trường nước ngoài
bao gồm:
1. Xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị
trường quốc tế thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất
trong nước ra thị trường bên ngoài. Phần lớn các công ty bắt đầu mở rộng ra
thị trường thế giới bằng hình thức xuất khẩu rồi sau đó mới chuyển từ phương
thức này sang các phương thức khác.
 Ưu điểm
Phương thức xuất khẩu có hai ưu điểm rõ nét. Một là, tránh được chi phí
đầu tư cho các hoạt động sản xuất ở nước sở tại, mà các chi phí này thường là
khá lớn. Hai là, có thể thực hiện được lợi thế quy mô và lợi thế vị trí bằng
việc sản xuất sản phẩm ở một địa điểm tập trung và sau đó xuất khẩu sang các
thị trường khác.
 Nhược điểm
Xuất khẩu cũng có một số nhược điểm. Thứ nhất, các sản phẩm xuất
khẩu được sản xuất từ cơ sở của công ty ở chính quốc có thể không phù hợp
với nhu cầu và điều kiện thị trường nước ngoài. Thứ hai, chi phí vận chuyển
cao có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không hiệu quả, đặc biệt trong
trường hợp hàng hóa cồng kềnh. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan cũng có thể
làm cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn. Thứ ba, những rủi ro bắt nguồn từ


10

nguyên nhân ít kinh nghiệm xuất khẩu, ít am hiểu thị trường của các công ty
mới bắt đầu xuất khẩu.
Xuất khẩu có hai hình thức là xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp:
 Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu ra thị trường
nước ngoài thông qua các tổ chức độc lập trong nước. Các tổ chức độc lập đó
là các trung tâm bán buôn trong nước, các công ty thương mại, các đại lý đặt
trong nước, người mua thường trú, người môi giới xuất nhập khẩu, đại lý xuất
khẩu của người sản xuất, công ty quản lý xuất khẩu
 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu thẳng
cho người mua hay người nhập khẩu ở thị trường nước ngoài. Có nhiều dạng
xuất khẩu trực tiếp như: phòng xuất khẩu của công ty chịu trách nhiệm bán
hàng ở thị trường nước ngoài, chi nhánh thương mại, người bán hàng lưu
động, đại lý và nhà phân phối đặt ở nước ngoài
Bảng 1.1: Những lợi thế và hạn chế của các hình thức xuất khẩu

Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu trực tiếp

Lợi thế
- Giảm chi phí cho việc bán hàng
- Mức độ rủi ro thấp
- Tính linh hoạt cao
- Tiếp xúc trực tiếp với thị trường
- Mức độ kiểm soát sản phẩm, giá cả
cao
- Khả năng bán hàng cao hơn

Hạn

chế
- Khả năng chớp cơ hội thấp
- Khó kiểm soát việc phân phối
- Ít liên hệ với thị trường
- Chi phí cho lực lượng bán hàng cao
- Mức độ rủi ro cao
- Bị ràng buộc vào thị trường nước
ngoài
Hiện nay, xuất khẩu gián tiếp được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng
phổ biến do mới tham gia vào thương mại quốc tế và khả năng mở rộng thị


11
trường bằng các con đường khác còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hình thức này
phù hợp với nguồn lực hạn chế và kinh nghiệm xuất khẩu thấp của các doanh
nghiệp nước ta.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các trung gian xuất khẩu còn có
những ưu điểm khác:
Thứ nhất, giúp cho người xuất khẩu thâm nhập nhanh chóng vào thị
trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý
xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài, do đó
giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong một môi trường xa lạ.
Thứ hai, người sản xuất có thể nhận được sự hỗ trợ ngay về tài chính khi
các thoả thuận mua bán được thông qua.
Thứ ba, việc chuyên môn hoá hoạt động trong nước có thể làm tăng hiệu
quả của hoạt động đó và tạo ra những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn hơn. Khi
khách hàng nước ngoài đã quan tâm đến một loại sản phẩm của công ty thì họ
cũng có thể có nhu cầu mua loại sản phẩm khác do công ty sản xuất. Vì đa số
người mua thích làm việc với số ít người cung cấp nhằm tiết kiệm chi phí
giao dịch và các chi phí liên quan đến quá trình mua.

2. Chuyển nhƣợng giấy phép (licence)
Chuyển nhượng giấy phép là việc người sản xuất ký hợp đồng với bạn
hàng nước ngoài với nội dung trao cho họ quyền sử dụng một quy trình sản
xuất, một nhãn hiệu, một sáng chế hay bí quyết kinh doanh có giá trị thương
mại. Một công ty với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể
sử dụng các thoả ước cấp giấy phép để làm tăng thêm khả năng lợi nhuận của
mình mà không phải tiến hành bất cứ một hoạt động đầu tư nào với một chi
phí rất hạn chế. Trên thực tế, việc cấp giấy phép thường đưa lại một khoản thu
vô tận đối với việc đầu tư. Còn các chi phí ở đây bao gồm chi phí ký kết thoả
ước và kiểm soát việc thực hiện chúng.
 Ưu điểm


12
- Doanh nghiệp không chịu chi phí phát triển và chịu rủi ro thấp khi thâm
nhập thị trường nước ngoài. Chuyển nhượng giấy phép là một sự lựa chọn hay
cho doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển ở nước ngoài. Thêm vào đó, chuyển
nhượng giấy phép còn phù hợp với các doanh nghiệp không muốn bỏ nguồn
lực vào thị trường không quen thuộc hoặc thị trường bất ổn về chính trị.
Ngoài ra, nó còn được sử dụng khi một doanh nghiệp mong muốn tham gia
vào thị trường nước ngoài nhưng bị cấm vì chính sách hạn chế đầu tư của
nước sở tại, hạn ngạch nhập khẩu hoặc đánh thuế nhập khẩu cao
- Chuyển nhượng giấy phép cũng có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản
phẩm và công nghệ mới. Ví dụ, khi hãng máy tính Apple đưa ra phần mềm kỹ
thuật số trợ giúp cá nhân Newton vào mùa thu năm 1993, công ty đã cấp giấy
phép sản xuất sản phẩm này cho hãng Sharp, Matsushita và một số công ty
khác. Các nhà quản lý của Apple tin tưởng rằng những hãng này sẽ tạo ra các
sản phẩm có liên quan và do vậy có thể thúc đẩy sự tiêu thụ của Newton.
 Nhược điểm
- Việc chuyển nhượng giấy phép khiến cho công ty cấp giấy phép phải

tiết lộ bí quyết công nghệ của mình cho bên nhận giấy phép do đó công ty sẽ
có nguy cơ mất quyền kiểm soát đối với công nghệ. Ví dụ, công ty RCA cấp
giấy phép cho một số công ty Nhật Bản bao gồm cả Sony, Natsushita về sản
xuất TV màu. Sau đó, các công ty Nhật đã nhanh chóng tiếp thu công nghệ,
cải tiến và sử dụng nó để xuất khẩu trở lại thị trường Mỹ.
- Phương thức này không tạo ra cho công ty một sự giám sát chặt chẽ cần
có đối với các quá trình sản xuất và marketing cũng như chiến lược ở các thị
trường nước ngoài nhằm thực hiện lợi thế qui mô, lợi thế vị trí và tác động
kinh nghiệm.
- Để cạnh tranh trên thị trường thế giới, một doanh nghiệp có thể phải sử
dụng chiến lược toàn cầu bằng cách dùng lợi nhuận kiếm được ở quốc gia này
để hỗ trợ cạnh tranh với đối thủ ở quốc gia khác. Chuyển nhượng giấy phép


13
hạn chế khả năng này của doanh nghiệp, nó không cho phép doanh nghiệp sử
dụng lợi nhuận của hợp đồng này để hỗ trợ các hợp đồng chuyển nhượng
khác nhau.
3. Nhƣợng quyền thƣơng mại (franchising)
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó, bên
nhượng quyền chấp nhận trao quyền và cung cấp các hỗ trợ cho bên nhận
quyền để bên đó bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa, hệ
thống, phương thức do bên nhượng quyền xác định trong một khoảng thời
gian và phạm vi địa lý nhất định. Quyền được nhượng bao gồm quyền sử
dụng các bí quyết nghề nghiệp; cách thức tổ chức bán hàng, cung ứng dịch
vụ; tên thương mại; nhãn hiệu hàng hóa dịch vụ; khẩu hiệu kinh doanh; biểu
tượng của bên nhượng quyền và quyền sử dụng các trợ giúp khác để bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.
 Ưu điểm
Các ưu điểm của việc nhượng quyền thương mại tương tự như chuyển

nhượng giấy phép. Đặc biệt, người nhượng quyền không phải chịu những chi
phí và rủi ro gắn liền với việc mở rộng thị trường nước ngoài. Chính người
nhận phải chịu các khoản chi phí và rủi ro đó. Như vậy, việc nhượng quyền
thương mại cho phép một công ty dịch vụ có thể thực hiện chiến lược toàn
cầu với chi phí thấp.
 Nhược điểm
Nhược điểm của phương thức này cũng ít hơn so với chuyển nhượng
giấy phép. Người bán quyền kinh doanh thường là các công ty dịch vụ nên ít
có nhu cầu phối hợp hoạt động giữa các thị trường để đạt lợi thế quy mô và
hiệu ứng kinh nghiệm. Tuy nhiên, việc bán quyền kinh doanh có thể hạn chế
khả năng phối hợp chiến lược toàn cầu của công ty. Mặt khác, bán quyền kinh
doanh đòi hỏi phải quản lý và kiểm soát gắt gao chất lượng dịch vụ cung ứng.
Trên thực tế, những người mua quyền kinh doanh thường không quan tâm


14
đầy đủ đến chất lượng dịch vụ và do đó, làm giảm uy tín toàn cầu của công ty.
Để khắc phục nhược điểm này, công ty có thể thành lập công ty con ở mỗi thị
trường hay khu vực mà nó đang mở rộng hoạt động.
4. Liên doanh
Liên doanh là sự thành lập của doanh nghiệp do sự liên kết giữa hai hay
nhiều doanh nghiệp độc lập khác.
Việc tham gia liên doanh với một hoặc một số đối tác nội địa có thể coi
là một hình thức mở rộng hơn cả các hoạt động xuất khẩu và cấp phép khi
thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
 Ưu điểm
Ưu điểm của sự lựa chọn này là việc kết hợp thế mạnh của các bên lại
với nhau, cũng như chia sẻ rủi ro giữa các đối tác. Tuy nhiên khi lựa chọn
phương thức này, một công ty cần có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường nội địa,
hệ thống phân phối sản phẩm và khả năng tiếp cận với các nguồn nhân công và

nhiên nguyên liệu giá rẻ… Ngoài ra, hình thức liên doanh có thể là phương
thức duy nhất để thâm nhập vào thị trường của một quốc gia, nếu như chính
phủ của đất nước đó đưa ra các luật lệ nhằm bảo vệ các công ty trong nước,
ngăn cấm sự kiểm soát của các công ty nước ngoài, song lại cho phép liên
doanh.
 Nhược điểm
Những nhược điểm đối với việc tham gia liên doanh là khá lớn. Song bất
lợi chủ yếu đối với hình thức mở rộng thị trường này là những chi phí cao của
việc quản lý và phối hợp hoạt động cùng đối tác. Và cũng như trường hợp cấp
giấy phép, một đối tác liên doanh cũng có thể trở thành một đối thủ cạnh tranh
rất mạnh. Bên cạnh đó ngoài sự khác biệt về văn hóa hay cách thức quản lý
thì thái độ ứng xử của các bên cũng có thể là những thách thức khó vượt qua
đối với cả hai bên.
5. Đầu tƣ trực tiếp


15
Một trong những hình thức được áp dụng rộng rãi nhất khi tham gia vào
thị trường thế giới là việc tiến hành đầu tư 100% vốn của các công ty nước
ngoài. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc thành lập mới hay thôn
tính các công ty. Hình thức này đòi hỏi những cam kết chặt chẽ nhất về các nỗ
lực đầu tư, song nó có tốc độ bành trướng thị trường nhanh, kiểm soát và thu
lợi nhuận được nhiều hơn.
 Ưu điểm
Việc đầu tư 100% vốn cũng có một số ưu điểm giống như trường hợp
tham gia liên doanh như: tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, tránh các
hàng rào thuế quan và hạn ngạch, chuyển giao kinh nghiệm và công nghệ sản
xuất… Việc thành lập các công ty con sẽ làm giảm thiểu rủi ro gắn liền với
việc mất khả năng kiểm soát và giám sát công nghệ. Hơn nữa, nó tạo ra cho
công ty một kiểu kiểm soát chặt chẽ các hoạt động ở các thị trường khác nhau

và do đó nâng cao khả năng phối hợp toàn cầu, thực hiện lợi thế quy mô, lợi
thế vị trí và tác động kinh nghiệm cũng như hỗ trợ cạnh tranh giữa các thị
trường.
 Nhược điểm
Đầu tư trực tiếp là phương thức tốn kém nhất để thâm nhập thị trường
nước ngoài. Công ty mẹ phải chịu toàn bộ chi phí và rủi ro của việc thành lập
các nhà máy ở nước ngoài. Có 2 loại rủi ro: rủi ro kinh tế vĩ mô và rủi ro kinh
tế vi mô. Rủi ro kinh tế vĩ mô ít gặp hơn nhưng nếu có, nó ảnh hưởng đến tất
cả các công ty. Đó là những vấn đề về kinh tế và chính trị và là mối đe dọa
đối với các khoản tiền đầu tư doanh nghiệp đã bỏ ra. Chúng có nguồn gốc là
những sự kiện chính trị hay quân sự, hoặc một sự bất ổn định về tài chính và
được thể hiện bởi sự trưng dụng hay quốc hữu hóa hoặc hạn chế tự do chuyển
vốn, lao động… Ngược lại, những rủi ro kinh tế vi mô là mối đe dọa to lớn
đối với doanh thu và lợi nhuận hơn là đối với việc thu hồi vốn bỏ ra. Đó có


16
thể là những quy định của Chính phủ nước sở tại về thuế hay những điều
chỉnh, hạn chế tự do hoạt động của doanh nghiệp.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ
TRƢỜNG NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
1. Các nhân tố thuộc môi trƣờng
Các nhân tố thuộc môi trường là tổng thể các yếu tố bên ngoài doanh
nghiệp, có ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài của
doanh nghiệp.
1.1. Môi trường kinh tế
 Môi trường kinh doanh quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra sự phụ thuộc ngày càng lớn hơn giữa các
quốc gia. Do đó mức độ ổn định của nền kinh tế toàn cầu, một khu vực hay
một quốc gia đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh

nghiệp. Ngoài ra, sự biến động của giá dầu mỏ, giá vàng, giá nguyên vật liệu,
tỷ giá hối đoái, thị trường tài chính… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng xuất khẩu của doanh nghiệp.


 Môi trường kinh tế vĩ mô của nước chủ nhà và nước thị trường
Các yếu tố của môi trường này bao gồm: quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự
ổn định và chu kỳ của nền kinh tế, các chính sách kinh tế, chính sách tài chính
tiền tệ, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán, lãi suất ngân hàng,
thu nhập và phân bố thu nhập theo các tầng lớp xã hội, chỉ số giá tiêu dùng,…
Một môi trường kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, chính sách thông thoáng,
ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải, thị trường vốn hoạt động hiệu quả…
sẽ là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hơn nữa, khi một nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định trong thời
gian dài thì thu nhập của người dân sẽ tăng lên từ đó mở rộng nhu cầu đối với


17
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp từ đó nâng cao khả năng thâm nhập thị
trường của doanh nghiệp.
1.2. Môi trường chính trị, pháp luật
 Môi trường chính trị, pháp luật quốc tế
Tác động của các yếu tố chính trị quốc tế đối với khả năng xâm nhập thị
trường nước ngoài của doanh nghiệp được xác định bởi mối quan hệ song
phương và đa phương. Vì vậy để tạo ra tác động tích cực của chính trị đối với
doanh nghiệp nước mình, Việt Nam cần nhanh chóng hội nhập, mở rộng các
mối quan hệ song phương và đa phương với tất cả các quốc gia trên thế giới
đặc biệt là các quốc gia là thị trường xuất khẩu chủ lực của chúng ta như Mỹ,
Nhật Bản, EU, Trung Quốc, ASEAN… Ngoài ra, sự bất ổn về mặt chính trị
của một quốc gia hay một khu vực trên thế giới cũng gây nên những ảnh

hưởng đáng kể đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường
quốc tế.
Bên cạnh đó hệ thống luật pháp quốc tế cũng có tác động rất lớn đến
doanh nghiệp. Hệ thống này bao gồm: các hiệp định song phương, các hiệp
định đa phương và các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế… Một doanh
nghiệp muốn tham gia vào thị trường quốc tế cần có sự am hiểu sâu sắc
những hệ thống pháp luật này.
 Môi trường chính trị, pháp luật nước chủ nhà và nước thị trường
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị, pháp luật ngày càng có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Đặc điểm của môi trường này thể hiện ở
việc: quốc gia đó có ổn định về mặt chính trị hay không? hệ thống pháp luật
có rõ ràng, minh bạch hay không? cơ chế chính sách có thông thoáng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hoạt động hay không? hay các thủ tục hành chính
có dễ dàng, thuận tiện hay không? Những yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng vì nó có tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh, điều chỉnh những mối quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh


18
nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhà nước và doanh nghiệp với người tiêu dùng,
đồng thời bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, giúp cho
doanh nghiệp yên tâm sản xuất, kinh doanh. Một môi trường chính trị ổn định,
hệ thống chính sách, pháp luật thông thoáng, công bằng và minh bạch sẽ tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có thể kinh doanh một cách lâu dài và ổn định.
1.3. Môi trường xã hội và nhân khẩu
Môi trường này bao gồm những vấn đề về số dân, mật độ dân cư, cơ cấu
dân số theo lứa tuổi, theo giới tính, quy mô gia đình, mức độ phân hóa giàu
nghèo, tỷ lệ thành thị - nông thôn… Các yếu tố này quyết định quy mô thị
trường và ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ
của doanh nghiệp, do đó có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng xâm nhập thị

trường của doanh nghiệp.
1.4. Môi trường văn hóa, con người
Môi trường văn hóa, con người là tổng hòa của các yếu tố văn hóa, tôn
giáo, phong tục, tập quán, đời sống tín ngưỡng, tâm linh của người dân… Các
yếu tố này ảnh hưởng đến hành vi, thị hiếu, thói quen và tập quán tiêu dùng
của người tiêu dùng trên thị trường. Do vậy, để thâm nhập thị trường nước
ngoài đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có được những hiểu biết cặn kẽ về văn
hóa và con người nước sở tại.

1.5. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như: tài nguyên thiên nhiên, đất
đai, khí hậu, các vấn đề về thiên tai, bảo vệ môi trường… Đây là hệ thống các
yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp không thể không quan tâm tới ảnh
hưởng của những yếu tố thuộc môi trường này khi muốn thâm nhập vào thị
trường nước ngoài.
1.6. Môi trường khoa học công nghệ


19
Nghiên cứu về môi trường khoa học công nghệ là tìm hiểu về trình độ và
xu hướng phát triển công nghệ ở trong và ngoài nước để lựa chọn và phát
triển công nghệ cho phù hợp. Một doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị
trường nước ngoài phải có trình độ công nghệ tương đương hoặc vượt trội so
với công nghệ hiện đang sử dụng tại nước thị trường đó. Trong bối cảnh hiện
nay, khi trình độ khoa học công nghệ đang thay đổi từng ngày, để gia nhập thị
trường quốc tế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng, giảm giá thành nhằm tạo ra những
sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường.
1.7. Môi trường cạnh tranh

Khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài, việc đối mặt với cạnh tranh là
tất yếu, không chỉ cạnh tranh trong phạm vi một nước mà còn mang tính chất
toàn cầu. Mức độ cạnh tranh tại thị trường quốc tế rất cao. Cạnh tranh có thể
xuất phát từ đối thủ hiện có trong cùng ngành, các đối thủ tiềm năng, sự đe
dọa từ sản phẩm thay thế hay áp lực từ phía khách hàng và nhà cung cấp. Để
giành thắng lợi, các doanh nghiệp phải thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng bằng cách tạo ra sự chênh lệch về giá hoặc tạo ra sự khác biệt
về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh.
2. Những nhân tố thuộc khả năng nội tại của doanh nghiệp
Có thể nói năng lực nội tại của công ty chính là nhân tố chủ chốt quyết
định khả năng thành công của việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Việc
xem xét đánh giá khả năng nội tại của công ty bao gồm việc phân tích các
biến số bên trong như:
- Tình hình tài chính và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp
- Trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng và công nghệ
- Năng lực tổ chức và quản lý doanh nghiệp
- Chất lượng sản phẩm
- Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường


20
- Trình độ nguồn nhân lực
- Khả năng nghiên cứu và phát triển
- Văn hóa doanh nghiệp

Các nhân tố trên có thể là thế mạnh hoặc điểm yếu tạo nên giới hạn khả
năng của doanh nghiệp trong việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Chiến lược thâm nhập vào thị trường nước ngoài của doanh nghiệp phải căn
cứ vào khả năng nội tại của doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực
và sử dụng nó một cách tối ưu vào các lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp.

Tóm lại, có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị
trường nước ngoài của doanh nghiệp, một là các nhân tố thuộc môi trường
bên ngoài doanh nghiệp và hai là các nhân tố thuộc khả năng nội tại của
doanh nghiệp. Cả hai nhóm nhân tố này đều rất quan trọng, một doanh nghiệp
muốn thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế phải có sự am hiểu về
môi trường và có khả năng cạnh tranh với các doanh đến từ rất nhiều quốc gia
khác trên thế giới.






CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG NHẬT BẢN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ NHẬT BẢN


21
1. Tổng quan về nền kinh tế Nhật Bản
Nhật Bản là một đảo quốc nằm ở phía đông địa lục châu Á có diện tích
377.815 km2 trong đó 80% là địa hình đồi núi. Dân số năm 2006 là 127,77
triệu với mật độ dân cư khá cao 343 người/km2. Nhật Bản luôn được nhìn
nhận là một nước có dân số già với tỷ lệ người sống trên 65 tuổi chiếm hơn
20% năm 2006 và con số này dự đoán sẽ tăng lên 30% năm 2020.
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Tuy nhiên, Nhật
Bản là một trong những nước nghèo tài nguyên thiên nhiên ngoại trừ nguồn
hải sản, do đó ngành công nghiệp sản xuất phải phụ thuộc rất lớn vào việc

nhập khẩu nhiên liệu và nguyên vật liệu thô. Dầu mỏ, đồng, thiếc phụ thuộc
100%, kẽm 97%, chì 88%… Trong nền kinh tế Nhật Bản, dịch vụ đóng vai
trò quan trọng nhất, chiếm hơn 60% GDP của Nhật Bản, tiếp theo là công
nghiệp, nông nghiệp chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ hơn 1%. Tỷ trọng các
ngành kinh tế trong cơ cấu GDP của Nhật Bản năm 2005 như sau: dịch vụ
chiếm 67,7%, công nghiệp 30,9%, nông nghiệp 1,4%.
Với GDP đạt 4.505,9 tỷ USD, GDP bình quân đầu người 35.214 USD, tỷ
trọng tiêu dùng trong GDP 75,41% (năm 2005), Nhật Bản cũng là thị trường
tiêu thụ hàng hóa lớn thứ hai sau Hoa Kỳ. Đồng thời, Nhật Bản còn là nước
nhập khẩu hàng hóa lớn, năm 2005 kim ngạch nhập khẩu đạt 451,1 tỷ USD.
Thị trường Nhật Bản có sức mua rất lớn, nhu cầu đa dạng phong phú, nhu cầu
nhập khẩu nhiều loại mặt hàng ngày một gia tăng và còn tiếp tục tăng lên
cùng với xu hướng phục hồi kinh tế trong những năm gần đây.

2. Kinh tế Nhật Bản qua các thời kỳ
Trên đây là một vài nét tiêu biểu về bức tranh kinh tế Nhật Bản. Nhưng
để đạt được những thành tựu như trên, Nhật Bản đã phải trải qua nhiều thời
kỳ thăng trầm. Trong đó có thể chia thành năm thời kỳ: Cải cách Minh Trị,
khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giai đoạn phát triển thần


22
kỳ, thời kỳ nền “kinh tế bong bóng” và hiện nay là giai đoạn suy thoái – phục
hồi trong trì trệ.
Cải cách Minh Trị do vị vua trẻ Minh Trị Thiên hoàng khởi xướng năm
1862. Nội dung của cải cách Minh Trị là: thực hiện cải cách ruộng đất;
khuyến khích học tập khoa học kỹ thuật của phương tây, khuyến khích nhập
khẩu máy móc thiết bị; cải cách giáo dục đào tạo; thống nhất tiền tệ trong cả
nước, xóa bỏ các cát cứ phong kiến; xóa bỏ các đặc quyền đặc lợi của võ sĩ
đạo. Đây là cuộc cải cách khá toàn diện, mang tính chất của một cuộc cách

mạnh tư sản, đã giải phóng nước Nhật khỏi quan hệ sản xuất phong kiến, mở
đường cho Nhật Bản tiến lên con đường tư bản chủ nghĩa.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, là nước thua trận Nhật Bản phải
bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế (1946 - 1950). Nhật Bản là nước nghèo tài
nguyên, nền kinh tế lại bị tàn phá kiệt quệ sau chiến tranh, tuy nhiên với
những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng
phục hồi. Trước năm 1948, việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó
khăn, các chỉ tiêu kinh tế chỉ bằng 60% trước chiến tranh. Tuy nhiên, kể từ
tháng 10/1948 trở đi, công cuộc khôi phục nền kinh tế diễn ra ngày càng
thuận lợi. Đặc biệt với kinh tế học thị trường của Joseph Dodge (chủ tịch
ngân hàng Detroi của Mỹ được cử sang Nhật với tư cách bộ trưởng) kế hoạch
5 năm khôi phục kinh tế (1948-1952) đã thành công. Đến năm 1951, các chỉ
tiêu kinh tế Nhật Bản như tổng sản phẩm quốc dân, sản xuất công nghiệp, kim
ngạch xuất khẩu đã bằng và vượt mức trước chiến tranh. Nhật Bản đã bắt đầu
được chú ý trên trường quốc tế.
Giai đoạn 1951-1973 được đánh giá là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của
nền kinh tế Nhật Bản. Từ đống tro tàn sau cuộc chiến tranh, Nhật Bản đã
vùng dậy trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Từ 1952 đến 1973,
GDP đã tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD năm 1951 lên 402 tỷ USD năm 1973,
vượt qua Anh, Pháp, Đức. Tốc độ phát triển công nghiệp hàng năm là 15,9%.


23
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ
USD năm 1969. Năm 1970, Nhật Bản đứng đầu thế giới tư bản về một số mặt
hàng quan trọng như đồ điện tử, xe máy, tàu biển; đứng thứ hai về sản lượng
thép, ô tô, xi măng, hàng dệt, hóa chất… Ngành nông nghiệp tuy tỷ trọng
giảm trong cơ cấu GDP nhưng sản lượng và năng suất lao động lại tăng nhanh.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950
đến 1971, kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD.

Trong đó, xuất khẩu tăng 30 lần, nhập khẩu tăng 21 lần.
Giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế Nhật Bản ở trạng thái “kinh tế bong
bóng”. Kinh tế phát triển với tốc độ rất nhanh: tổng tài sản quốc dân là 3.300
tỷ USD, đứng thứ hai sau Mỹ. Nếu như năm 1980, Nhật Bản chỉ chiếm 8,6%
tổng sản lượng quốc dân toàn thế giới thì đến năm 1989 đã là 15%. Sự lớn
mạnh của nền kinh tế Nhật Bản làm cho Nhật Bản trở thành một trong những
cường quốc tài chính lớn nhất thế giới. Ngoài ra, dự trữ ngoại tệ và vàng của
Nhật Bản đứng đầu thế giới, gấp 3 lần Mỹ, 1,5 lần Đức. Trong tổng tài sản
của các ngân hàng trên thế giới, tài sản của các ngân hàng Nhật Bản chiếm
35%. Sự phát triển quá nóng về tài chính là một yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của
“nền kinh tế bong bóng”. Bất động sản tăng giá đột biến vào cuối thập niên 80
và giảm giá đột ngột vào đầu thập niên 90. Vào đầu thập niên 90, giá cổ phiếu
và giá đất đã hạ xuống 50%, điều này tạo nên một cú sốc trong ngành kinh
doanh nhà đất, đồng thời nó cũng kéo theo sự khủng hoảng của hệ thống ngân
hàng tới mức nhiều ngân hàng lớn gần như mất khả năng thanh toán. Tháng
4/1997, công ty bảo hiểm lớn Nissan đã bị phá sản. Làn sóng phá sản của các
tổ chức tài chính Nhật Bản đã lên tới đỉnh điểm vào tháng 11 và 12/1997 khi
liên tiếp 5 tổ chức lớn tuyên bố phá sản.
Từ năm 1991, sau thời kỳ kinh tế bong bóng, kinh tế Nhật Bản phát triển
ì ạch. Trong những năm 1992 đến 1995, tốc độ tăng trưởng hàng năm chỉ đạt
1,4%, năm 1996 là 3,2%. Đặc biệt từ năm 1997 và nhất là đầu năm 1998, kinh


24
tế Nhật Bản lâm vào suy thoái trầm trọng nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng
dầu mỏ năm 1974, với sự khủng hoảng của hệ thống tài chính tiền tệ, đồng
Yên và chứng khoán giảm giá mạnh, nợ xấu khó đòi tăng cao, sản xuất trì trệ
và tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục 5,5% vào tháng 12/2002. Năm 1997, tốc độ
tăng trưởng GDP là - 0,7%, năm 1998 là - 1,8%.
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản giai đoạn 1990-2006

5.3
0.3
1
1.6
3.5
0.7
0.9
1.45
-0.7
2
-0.2
2.7
2.1
2.5
2.9
0.4
-1.8
-3
-2
-1
0
1
2
3
4
5
6
1990
1991
1992

1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

(Nguồn: “Statistical Handbook of Japan 2007”, chapter 3)
Vấn đề phục hồi kinh tế thông qua đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế, tài
chính, ngân hàng đã là một vấn đề cấp bách đặt ra đối với chính phủ Nhật Bản.
Nhật Bản đã xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách kinh tế,
giảm thâm hụt ngân sách, cải cách trong khu vực tài chính, sắp xếp lại cơ cấu
chính phủ… Cải cách hành chính của Nhật Bản được thực hiện từ tháng
1/2001. Dù diễn ra còn chậm song những cải cách đang dần đi vào quỹ đạo và
gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Sau một thập niên suy thoái, từ năm
2003 kinh tế Nhật lại bắt đầu tăng trưởng. Năm 2003 GDP của Nhật Bản đã
tăng 2,7%, năm 2004 tăng 1,45%, năm 2005 tăng 2,5%, năm 2006 tăng 2,1%.
Đây là mức tăng trưởng cao nhất của Nhật Bản trong 10 năm gần đây.
3. Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản giai đoạn 1997-2007

×