Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử trong nghành hàng không thông qua phân tích mô hình ứng dụng thương mại điện tử của pacific airlines

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI









KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
NGÀNH HÀNG KHÔNG THÔNG QUA PHÂN TÍCH MÔ HÌNH
ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CỦA PACIFIC AIRLINES






Giáo viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Văn Thoan
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Phương Thanh
Lớp : Anh 17
Khoá : K43E







Hà Nội tháng 6 - 2008
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


1
Lời mở đầu
Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay và cụ
thể trong Hội nghị tổng kết công tác hoạt động năm 2007 của Bộ Thông tin và
truyền thông cho thấy tốc độ tăng trưởng viễn thông Việt Nam năm qua vượt
mức bình quân thế giới, Internet đã và đang tác động đến rất nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Một trong
những sự tác động rõ rệt của Internet đó là sự xuất hiện Thương mại điện tử
(TMĐT), ảnh hưởng của nó lan rộng tới hầu hết các ngành, lĩnh vực như ngành
giáo dục, ngành Bảo hiểm, thậm chí là Chính phủ điện tử, vì thế một ngành mà
cũng góp phần không nhỏ tới sự phát triển kinh tế của đất nước là ngành hàng
không cũng ko nằm ngoài vùng phủ sóng của TMĐT. Hiện nay trên thế giới,
TMĐT được công nhận là một mô hình và công cụ kinh doanh giàu tiềm năng,
hứa hẹn, mang lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu được thông tin
phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí, mở rộng quy mô doanh nghiệp,
rút ngắn chu kỳ kinh doanh và đặc biệt với các nước đang phát triển đây là cơ
hội tạo bước nhảy vọt , rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Sự thành
công của TMĐT cũng giống như các mô hình và hoạt động kinh doanh khác,
đều phụ thuộc vào việc cung cấp những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng,
phụ thuộc vào sự cân bằng giữa chi phí và doanh thu và vào một khung pháp lý
có khả năng tăng cường lòng tin của doanh nghiệp, của người tiêu dùng vào việc
kinh doanh qua mạng Internet.

Ở Việt Nam hiện nay, TMĐT là một lĩnh vực tương đối mới, hiện đang
được Chính phủ dành rất nhiều sự quan tâm với những chủ trương chính sách
nhằm thúc đẩy TMĐT phát triển. Thực tế đã cho thấy TMĐT đang dần thâm
nhập vào các hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên thế giới nói
chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, tạo nên những thế mạnh đột phá
mới.
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


2
TMĐT cũng đã và đang tạo ra sự thay đổi đáng kể cho các ngành dịch vụ,
trong đó phải kể đến ngành hàng không, du lịch, khách sạn để ứng dụng Internet
vào đặt vé máy bay, tàu lửa, tour du lịch, tư vấn v.v… qua đó góp phần đưa hình
ảnh doanh nghiệp đến người tiêu dùng gồm cả người trong nước và nước ngoài
một cách hiệu quả hơn. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, ngày càng có
nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp hàng không xây dựng website để
quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình, tận dụng việc khai thác kênh thông tin –
tiếp thị Internet. Nhờ đó khách hàng trong nước và quốc tế có thể truy cập vào
website để tìm thông tin về chuyến bay, giá vé, và nhiều dịch vụ khác do doanh
nghiệp cung cấp.
Từ tất cả những lý do trên, em đã chọn đề tài “Giải pháp ứng dụng mô
hình thương mại điện tử trong ngành hàng không thông qua phân tích mô hình
ứng dụng thương mại điện tử của Hãng hàng không Pacific Airlines” với mục
đích:
- Nghiên cứu vai trò của TMĐT đối với hoạt động của ngành hàng không.
- Tìm hiểu thực trạng ứng dụng TMĐT vào ngành hàng không trên thế giới
và ở Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng triển khai TMĐT trong hoạt động kinh doanh của
Công ty cổ phần hàng không Pacific Airlines (nay hoạt động dưới thương
hiệu mới là Jetstar Pacific), từ đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt

động kinh doanh của Hãng hiệu quả hơn cũng như cho toàn ngành nói
chung.
Với mục đích nghiên cứu như trên, khóa luận của em được kết cấu như
sau:
- Chương 1: Tổng quan về Thương mại điện tử và tình hình triển khai
TMĐT tại Việt Nam.
- Chương 2: Phân tích mô hình ứng dụng TMĐT của Hãng hàng không
Pacific Airlines.
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


3
- Chương 3: Giải pháp ứng dụng TMĐT cho ngành hàng không ở Việt
Nam.
Do kiến thức, tài liệu hạn chế, khóa luận của em không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp thiết thực của
các thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế
và Kinh doanh quốc tế trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, đặc biệt là ThS
Nguyễn Văn Thoan, cùng một số cán bộ, nhân viên đang công tác tại Hãng hàng
không Pacific Airlines đã tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2008.
Sinh viên

Nguyễn Phƣơng Thanh















Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ TÌNH
HÌNH TRIỂN KHAI THƢƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, TMĐT ra đời là kết quả hợp
thành của nền KT số hóa và “xã hội thông tin”. TMĐT bao trùm một phạm vi
rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, nó mang đến lợi ích tiềm năng và đồng
thời thách thức lớn cho người sử dụng. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình
diện toàn cầu, tuy hiện nay đang áp dụng chủ yếu ở các nước công nghiệp phát
triển nhưng các nước đang phát triển cũng bắt đáu tham gia . Toàn cầu đang
hướng tới giao dịch thông qua TMĐT. TMĐT được đánh giá là một phát kiến
quan trọng nhằm thúc đẩy nền KT thế giới trong thế kỷ 21. Giờ đây, TMĐT có
lẽ ko phải là chiến lược mà các quốc gia có thể chọn lựa hoặc không, bởi nếu
quốc gia nào không nắm lấy cơ hội này sẽ có nguy cơ tụt hậu một cách nghiêm
trọng, Cuộc cách mạng kinh doanh điện tử sẽ là cơ hội lớn cho các nước đang
phát triển để tận dụng nhằm phát triển kinh tế của đất nước mình. Nếu không bắt

kịp với bước tiến này khoảng cách của các nước đó với các nước phát triển sẽ
còn gia tăng nhanh chóng. Do đó, phát triển TMĐT trở thành vấn đề có tính chất
sống còn đới với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong xu thế
đó, các doanh nghiệp hàng không cũng ra sức đẩy mạnh ứng dụng TMĐT và
dần trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của các doanh nghiệp
này. Với ý nghĩa quan trọng đó, chương 1 sẽ nghiên cứu các kiến thức tổng quan
về TMĐT như: khái niệm và đặc trưng của TMĐT, điều kiện tiền đề để ứng
dụng TMĐT, đánh giá lợi ích và hạn chế của TMĐT, các mô hình TMĐT cơ
bản và các hình thức hoạt động của TMĐT, khóa luận sẽ đi sâu vào thanh toán
điện tử và marketing điện tử bởi đây là hai ứng dụng TMĐT cơ bản dễ thấy nhất
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


5
đang được áp dụng trong ngành hàng không ở Việt Nam, là đối tượng mà khóa
luận đang nhắm đến. Cuối cùng là tìm hiểu và nghiên cứu thực tế triển khai ứng
dụng TMĐT ở Việt Nam.

I. Tổng quan về thƣơng mại điện tử.
1. Khái niệm Thương mại điện tử.
Sau khi Internet ra đời và được sử dụng rộng rãi, các doanh nghiệp nhận
thấy rằng Internet giúp họ rất nhiều trong việc trưng bày sản phẩm, cung cấp,
chia sẻ thông tin liên lạc với các đối tác trong và ngoài nước một cách nhanh
chóng, thuận tiện và nhất là rất kinh tế. Từ đó, các doanh nghiệp đã tích cực khai
thác thế mạnh của Internet để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình và từ đây
khái niệm Thương mại điện tử (TMĐT) bắt đầu được hình thành. Với sự hỗ trợ
đắc lực của Internet, TMĐT đã trở thành một môi trường kinh doanh mới cho
các doanh nghiệp.
Hiện nay, TMĐT có nhiều định nghĩa rộng, hẹp khác nhau do nhiều tổ
chức quốc tế đưa ra như Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế

UNCITRAL, Ủy ban Châu Âu, Tổ chức thương mại thế giới v.v và có nhiều
cách gọi khác nhau về TMĐT như “thương mại trực tuyến” (Online-Trade),
“thương mại không giấy tờ” (paperless commercce), “kinh doanh điện tử”
(Electronic Business), nhưng phổ biến nhất vẫn là “thương mại điện tử”
(Electronic Commerce). Xét trên mỗi khía cạnh thì TMĐT có những cách hiểu
khác nhau:
- Từ góc độ truyền thông: TMĐT là việc vận chuyển thông tin, các sản
phẩm, dịch vụ, hoặc thanh toán thông qua các đường dây điện thoại, các
mạng máy tính hoặc các phương tiện khác.
- Từ góc độ quá trình kinh doanh: TMĐT là sự áp dụng công nghệ hiện đại
nhằm tự động hóa các quá trình kinh doanh và nghiệp vụ kinh doanh.
Hoặc cũng có thể xét theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


6
- Theo nghĩa hẹp, TMĐT là việc thực hiện các hoạt động thương mại dựa
trên các phương tiện điện tử, đặc biệt là Internet và các mạng viễn thông.
Các hoạt động thương mại bao gồm marketing, hỗ trợ khách hàng, cung
cấp thông tin, mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán v.v… Không nhất
thiết phải thực hiện toàn bộ các hoạt động thương mại nói trên dựa trên
các phương tiện điện tử mới là ứng dụng TMĐT, doanh nghiệp có thể tận
dụng TMĐT phục vụ một hay một số hoạt động đó để mang lại hiệu quả
kinh tế. TMĐT nên được xem là công cụ bổ sung cho thương mại truyền
thống để tăng hiệu quả kinh doanh.
- Theo nghĩa rộng, TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và
phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán qua mạng Internet,
nhưng được giao nhận có thể hữu hình hoặc giao nhận qua Internet dưới
dạng số hóa (WTO).
Trong đó định nghĩa phổ biến nhất, rộng rãi nhất về TMĐT là: “Thương

mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện
điện tử, không cần in ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao
dịch.” (Nguồn: Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban LHQ về Luật
thương mại quốc tế - UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce, 1996).
Có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT là rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh
vực hoạt động kinh tế, trong đó việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một
trong rất nhiều lĩnh vực áp dụng TMĐT.

2. Đặc trưng của Thương mại điện tử.
2.1. Giao dịch TMĐT là giao dịch không giấy tờ (Paperless transactions)
Khi thực hiện giao dịch TMĐT, tất cả các văn bản đều được thể hiện bằng
các dữ liệu tin học, băng ghi âm hay các phương tiện điện tử khác. Đặc trưng
này làm thay đổi căn bản các giao dịch bởi khi đó độ tin cậy không còn phụ
thuộc vào cam kết bằng giấy tờ mà bằng sự tin cậy lẫn nhau giữa các đối tác.
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


7
Giao dịch không giấy tờ tiết kiệm đáng kể chi phí và nguồn nhân lực để
chu chuyển, lưu trữ và tìm kiếm các văn bản khi cần. Người sử dụng thông tin
có thể tìm kiếm ngay trong ngân hàng dữ liệu của mình mà không cần người
khác tham gia nên ý tưởng hay ý đồ kinh doanh sẽ được bảo vệ an toàn. Tuy
nhiên, việc giao dịch không giấy tờ này lại đòi hỏi kỹ thuật bảo đảm an ninh và
an toàn dữ liệu, vì trong dây truyền nghiệp vụ TMĐT, các mối hiểm họa có thể
xảy ra ở bất kỳ khâu nào, với cả máy khách, máy chủ, trên các kênh truyền
thông, nhất là Internet.

2.2. Sự phụ thuộc vào công nghệ và trình độ CNTT của người sử dụng.
Muốn phát triển TMĐT, sự đầu tư, xây dựng và không ngừng nâng cao
trình độ công nghệ thông qua phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của TMĐT như

mạng máy tính và khả năng tiếp nối của mạng với cơ sở dữ liệu thông tin, tốc độ
đường truyền, hệ thống thanh toán trực tuyến, trình độ bảo mật v.v… là vô cùng
cấp thiết.
Hiện nay, mạng internet gần như là yếu tố quyết định cho mọi hình thức
hoạt động của TMĐT. Công nghệ càng đi lên thì TMĐT càng có cơ hội để phát
triển. Tuy nhiên, đồng nghĩa với nó là doanh nghiệp phải tăng chi phí đầu tư cho
công nghệ và người sử dụng phải luôn cập nhật những kiến thức công nghệ mới
bởi trong TMĐT, các bên tham gia không gặp nhau trực tiếp mà thông qua mạng,
khi đó việc chia sẻ thông tin giữa các bên nhanh hơn, nhưng đòi hỏi họ phải có
khả năng sử dụng.
Hơn nữa, TMĐT là việc kinh doanh trên các phương tiện điện tử nên nó
sẽ chịu ảnh hưởng của sự thay đổi công nghệ, mà như chúng ta biết, công nghệ
đang biến đổi từng ngày. Vì vậy, người tham gia kinh doanh TMĐT cũng phải
không ngừng học hỏi để theo kịp xu hướng đó, tức là phải sử dụng công nghệ
thành thạo và có kiến thức, kỹ năng tổng hợp về quản trị kinh doanh, về thương
mại, v.v…
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


8

2.3. TMĐT có tốc độ nhanh.
Nhờ áp dụng công nghệ hiện đại. tất cả các bước của quá trình giao dịch
đều được tiến hành thông qua mạng máy tính, nhờ ứng dụng CNTT đã cho phép
rút ngắn độ dài của các văn bản giao dịch. Các dịch vụ phần mềm ngày càng đa
dạng, hoàn hảo, tốc độ đường truyền nhanh cho phép rút ngắn thời gian trao đổi,
giao tiếp, ký kết các văn bản giao dịch điện tử. Tất cả những điều này làm cho
TMĐT đạt tốc độ nhanh nhất trong các phương thức giao dịch thương mại.

3. Điều kiện tiền đề để ứng dụng TMĐT.

3.1. Nhận thức xã hội.
3.1.1. Sự nhận thức của Chính phủ nhằm để ra Chính sách và chiến
lược quốc gia.
Đường lối chính trị của một nước có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
của TMĐT. Nếu một nước có chủ trương bảo hộ, không có chính sách mở cửa
thì TMĐT khó có cơ hội phát triển, bởi TMĐT đồng nghĩa với sự phát triển của
Internet và đi kèm với nó là sự tự do thông tin. Chính phủ từng nước phải quyết
định xem xã hội thông tin nói chung và Internet nói riêng là một hiểm họa hay là
một cơ hội. Quyết định đó không phải dễ dàng, ngay một nước hiện đại như
Pháp cũng phải tới năm 1997-1998 mới quyết định được và tuyên bố “đây là cơ
hội” (sau một thời gian dài chống lại Internet vì nó chiếm mất vị trí của mạng
Minitel vốn rất phổ biến trong nội bộ nước Pháp ). Từ khẳng định mang tính
nhận thức chiến lược ấy mới có thể quyết định thiết lập môi trường kinh tế xã
hội và pháp lý cho nền kinh tế số nói chung và cho TMĐT nói riêng, cụ thể như
quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành chính, dịch vụ thu trả thuế, thư tín,
dự báo thời tiết, thông báo giờ tàu xe và đưa các nội dùng của nền kinh tế số
vào văn hóa giáo dục.
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


9
Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng, tri thức và công nghệ ngày nay đang phát
triển như vũ bão và những gì đúng cho một vài năm trước ko nhất thiết đúng cho
thời điểm hiện tại. Sự lan tỏa và thâm nhập mạnh mẽ của CNTT vào mọi mặt
hoạt động kinh tế xã hội trên toàn thế giới mang tính quy luật tất yếu, khiến cho
những ai nói “Không” với nó sẽ vĩnh viễn tự cô lập mình và bị loại khỏi tiến
trình văn minh nhân loại. Vào những năm đầu thế kỷ 21 này, câu hỏi đặt ra cho
các Chính phủ và doanh nghiệp không còn là “có chấp nhận TMĐT hay không”,
“triển khai TMĐT được gì, mất gì?” mà phải là “chấp nhận và triển khai TMĐT
như thế nào”. Một khi mọi đối tượng đều ý thức được tính tất yếu của TMĐT,

việc triển khai sẽ được tiến hành nhanh chóng và nhất quán với quyết tâm cao.
3.1.2. Nhận thức về tác động văn hóa xã hội của Internet.
Tác động văn hóa xã hội của Internet đang là mối quan tâm quốc tế, vì
hàng loạt tác động tiêu cực của nó đã và đang xuất hiện: Internet trở thành môi
trường lý tưởng cho giao dịch mua bán ma túy, buôn lậu, các tuyên truyền văn
hóa phẩm độc hại, bom thư, tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc,
kỳ thị tôn giáo. Ở một số nơi như Trung Quốc, Việt Nam, Trung Đông …
Internet đã trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử
dụng nhằm kích động lật đổ Chính phủ và gây rối loạn trật tự an toàn xã hội.
Kiểm soát và trấn áp các loại tội phạm trên mạng là vô cùng khó khăn, đòi hỏi
sự hợp tác chặt chẽ giữa các lực lượng, các quốc gia.
Ngoài ra phải tính tới tác động cuốn hút thanh niên theo các lối sống ko phù hợp
với bản sắc dân tộc, đặc biệt ở các nước Châu Á. Đây là thách thức quan trọng
đối với nhiệm vụ phát triển của các xã hội hiện nay, vì toàn cầu hóa cũng như sự
bùng nổ của Internet là một thực tế buộc phải thích ứng. Một khi các nền văn
hóa khác nhau là thành viên của hệ thống Internet thì nhu cầu về sự lành mạnh ,
trong sáng của thông tin là rất lớn, sao cho con người có thể hành động theo xu
thế toàn cầu hóa nhưng vẫn duy trì được giá trị văn hóa quốc gia.

Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


10
3.2. Hạ tầng cơ sở công nghệ.
TMĐT là kết quả của sự phát triển CNTT và kỹ thuật số hóa. Vì vậy, để
phát triển TMĐT, cơ sở hạ tầng công nghệ phải bảo đảm có một hệ thống các
chuẩn của doanh nghiệp, của quốc gia và chuẩn này phải phủ hợp với quốc tế.
Các chuẩn này gắn với hệ thống các cơ sở kỹ thuật và thiết bị ứng dụng của
quốc gia như một phân hệ của hệ thống mạng toàn cầu.
Hạ tầng cơ sở công nghệ của TMĐT còn phải bảo đảm tính kinh tế, nghĩa

là chi phí của hệ thống thiết bị kỹ thuật và chi phí dịch vụ phải hợp lý để các tổ
chức và cá nhân có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả hàng hóa, dịch vụ thực
hiện qua giao dịch TMĐT không cao hơn so với thương mại truyền thống.
Cụ thể, hạ tầng cơ sở công nghệ để thành công trong TMĐT phải ở mức
độ phát triển nhất định bao gồm:
- Hạ tầng an toàn bảo mật
- Hạ tầng về mạng
- Công cụ quản lý dữ liệu
- Hệ thống điều khiển và phần cứng
- Môi trường ứng dụng server
- Công cụ phát triển ứng dụng
- Cơ sở quản lý hệ thống.
Mức độ phát triển nhất định đó của hạ tầng công nghệ thông tin phải luôn
đáp ứng được nhu cầu ngày một nâng cao của việc kinh doanh TMĐT, tức là nó
phải đảm bảo các yêu cầu linh hoạt, tính quy mô và tính an toàn tin cậy. Tính
linh hoạt của hạ tầng công nghệ cho phép TMĐT có thể dễ dàng được tiếp cận
hay nhanh chóng thích ứng với những ứng dụng mới. Chẳng hạn, nó phải bảo
đảm tính kết nối toàn cầu qua các chuẩn mở khác nhau như TCP/IP hay
HTML/JavaTM. Hay như trước một xu hướng: hiện nay, người tiêu dùng truy
cập internet không chỉ qua các máy tính cá nhân mà còn qua nhiều phương tiện
như điện thoại di động, các thiết bị số cá nhân như PDA… thì công nghệ kinh
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


11
doanh cho kinh doanh trực tuyến cũng phải thích nghi với những phương thức
tiếp cận mới này. Đảm bảo tính quy mô của công nghệ tức là đảm bảo khả năng
xử lý khối lượng công việc ngày càng tăng. Thực tế là, với sự phát triển hàng
ngày của công nghệ thông tin, để tăng tính quy mô thì công nghệ cũng phải
thường xuyên nâng cấp, và chi phí cho việc nâng cấp liên tục này rất tốn kém.

Tính an toàn tin cậy của hạ tầng công nghệ thông tin ko thể đạt được nếu chỉ có
những ứng dụng mật mã (password) thông thường. Để bảo mật thông tin, các
doanh nghiệp cần áp dụng các chứng chỉ số an toàn (như chữ ký điện tử hiện
nay đang được sử dụng rộng rãi) và có các chính sách quản lý thông tin cụ thể.

3.3. Hạ tầng cơ sở nhân lực.
Phát triển TMĐT đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trước hết là
đội ngũ các chuyên gia CNTT, đó là những người có kiến thức cao về CNTT
được đào tạo ở nước ngoài, những cán bộ đào tạo chuyên ngành Tin ở các
trường Đại học, hay những người đã qua đào tạo tin học từ các trung tâm tin học
trên toàn quốc. Đây là lực lượng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển TMĐT ở
Việt Nam, bởi họ là những người thường xuyên cập nhật những kiến thức về
CNTT, nhanh chóng nắm bắt tình hình phát triển của công nghệ trên thế giới và
có khả năng đưa vào ứng dụng trong môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể.
Đối với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trực tuyến, nhu cầu tuyển
dụng nhân công của họ mặc dù ko nhiều nhưng yêu cầu đối với lực lượng này
khá cao. Nhân viên làm việc trong môi trường kinh doanh điện tử ko những phải
có năng lực chuyên môn về kinh doanh nói chung và về TMĐT nói riêng mà
còn phải thông thạo ngoại ngữ, các kỹ năng cơ bản về mạng. Rất nhiều công ty
khi tham gia TMĐT đã lập ra phòng Công nghệ thông tin với nhiệm vụ đưa
doanh nghiệp tiếp cận được những mô hình công nghệ và thị trường mới.
Yếu tố cuối cùng là dân chúng. Họ là những người trực tiếp tham gia vào
các giao dịch, mua bán. Vì vậy sự hiểu biết của mọi người về máy tính, Internet
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


12
và TMĐT cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy TMĐT phát triển. Hiện nay do sự
phổ biến của Internet qua những chiến dịch “đưa net về làng” mà dân chúng
không còn mấy xa lạ với tin học, tuy nhiên không phải ai cũng có những kiến

thức chuyên sâu về mạng và hiểu biết cặn kẽ những ứng dụng của Internet, đa số
mới dừng lại ở mức độ biết đến máy tính điện tử. Do đó, cần phổ biến Internet
một cách rộng rãi hơn nữa để mọi người hiểu về những lợi ích của TMĐT, có
như vậy mọi người mới tích cực tham gia giao dịch TMĐT.
3.4. Hạ tầng cơ sở kinh tế.
Hạ tầng cơ sỏ kinh tế góp phần tạo môi trường cho TMĐT phát triển. Nền
kinh tế của đất nước càng vững mạnh thì TMĐT càng có điều kiện phát triển.
Những yếu tố của nền kinh tế như: năng lực kinh tế, mức sống người dân, năng
suất lao động, sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng v.v đều là nền
tảng cho TMĐT. Bởi rõ ràng, nếu nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển cộng
thêm hệ thống thông tin quốc gia yếu kém không phù hợp và không thích ứng
được với các tiêu chuẩn quốc tế thì nó sẽ cản trở bước tiến của TMĐT. TMĐT
sẽ không thể phát triển ở một nước mà mức sống của người dân thấp, vì vậy mọi
người không thể chi trả cho những chi phí khi tham gia TMĐT.

3.5. Hạ tầng cơ sở pháp lý.
Bên cạnh các yếu tố trên, môi trường pháp lý cũng là nhân tố không thể
thiếu cho sự hình thành của TMĐT, bởi có sự bảo đảm về luật pháp mọi người
mới yên tâm giao dịch.
Cơ sở pháp lý của TMĐT bao gồm các vấn đề như đạo luật và chính sách
về TMĐT. Để TMĐT phát triển, hệ thống pháp luật của các quốc gia phải từng
bước hoàn chỉnh để bảo đảm tính pháp lý của các giao dịch TMĐT, của các hợp
đồng và các chứng từ điện tử, của sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, bảo
đảm các bí mật cá nhân của người tham gia giao dịch TMĐT. Hạ tầng cơ sở
pháp lý của TMĐT cũng bao gồm các vấn đề xử lý hành vi vi phạm, phá hoại,
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


13
cản trở, gây thiệt hại cho hoạt động TMĐT trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Do

TMĐT mang tính chất toàn cầu nên những văn bản pháp luật về TMĐT cũng
cần có sự thống nhất cơ bản để hoạt động kinh doanh được đơn giản và hiệu quả.

3.6. An toàn bảo mật trong TMĐT.
Đây là vấn đề tối quan trọng đối với sự phát triển của TMĐT, hay cụ thể
là với các doanh nghiệp đang tiến hành kinh doanh trên mạng cũng như các cá
nhân, tổ chức khác. Ai cũng mong muốn các thông tin, giao dịch của họ được
bảo mật trong bối cảnh các vụ tấn công trên mạng gây không ít tổn thất cho
TMĐT đang ngày càng gia tăng nhanh chóng. Hơn nữa các loại hình tấn công,
phá hoại này ngày càng đa dạng, TMĐT có thể bị phá hoại do các tin tặc (hacker)
đột nhập từ bên ngoài hệ thống để ăn cắp dữ liệu, phá hỏng hệ thống thanh toán,
lấy cắp thông tin tài khoản cá nhân, chiếm dụng tiền bất hợp pháp, giả mạo
website, email của một cá nhân hay tổ chức nào đó nhằm đánh lừa người nhận
tiết lộ thông tin cá nhân và tài khoản tín dụng (phishing) v.v…Do những vấn đề
này, nhu cầu về bảo mật và an toàn ngày càng cao, nghĩa là cần gắn kết TMĐT
với các kỹ thuật bảo mật như : mã hóa, công nghệ bảo mật (SSL – Secure
Sockets Layer), chữ ký điện tử (Electronic Signature).











Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT



14

Hình 1. Phishing email
Trên đây là một email giả mạo y hệt mẫu email thật của ngân hàng nhằm
đánh lừa người nhận khai báo thông tin cá nhân khi nhấp chuột vào địa chỉ trang
web trong email này.
Bên cạnh vấn đề bảo mật thì việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng rất quan
trọng trong việc xây dựng và bảo vệ nội dùng trên trang web. Các hiểm họa đối
với sở hữu trí tuệ là một vấn đề lớn bởi internet vốn được coi là một kho thông
tin khổng lồ, các tài liệu có sẵn trên internet có thể được sử dụng và sao chép mà
không cần hỏi ý kiến chủ nhân là một việc rất dễ dàng. Việc không có ý thức
hoặc cố tình xâm phạm bản quyền xảy ra hàng ngày trên internet. Trong một vài
năm gần đây, các tòa án phải giải quyết khá nhiều vụ tranh chấp về sở hữu trí
tuệ và xung quanh hoạt động đăng ký tên miền (cybersquatting). Bởi vậy, bảo
hộ sở hữu trí tuệ cũng rất cần lưu tâm trong quá trình phát triển của TMĐT.

4. Đánh giá lợi ích và hạn chế của TMĐT.
4.1. Lợi ích của TMĐT.
4.1.1. Lợi ích đối với doanh nghiệp.
- Giảm chi phí và tăng lợi nhuận: Kinh doanh trên mạng giúp các công ty
giảm nhiều loại chi phí như chi phí giấy tờ, chi phí chia sẻ thông tin yêu cầu
cung cấp giá cả, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống. Chi phí hoạt động của
các cửa hàng điện tử thấp hơn nhiều so với cửa hàng truyền thống. Công ty
Cisco Systems đã dự tính rằng mỗi tháng họ có thể bớt 500.000 cuộc gọi mỗi
tháng và mỗi năm có thể tiết kiệm được hơn 500 triệu đô la khi kinh doanh qua
mạng.
- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại
truyền thống, các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận
người cung cấp, khách hàng và các đối tác trên thế giới, điều đó cũng cho phép

Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


15
doanh nghiệp có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá thấp hơn và bán được
nhiều sản phẩm hơn.
- Nhiều sự lựa chọn hơn: doanh nghiệp có thể đồng thời biết được nhiều
loại sản phẩm và các dịch vụ từ nhiều người bán khác nhau, họ có thể cập nhật
hàng ngày, hàng giờ. Thay vì nhiều người gửi thư từ, mang theo một quyền
catalogue hoặc nhanh hơn là giao dịch qua fax, thì doanh nghiệp có thể truy cập
ngay vào các trang web với nguồn thông tin phong phú và đa dạng hơn.
- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả
năng phối hợp giữa các doanh nghiệp, nhà cung cấp làm tăng hiệu quả sản xuất
và giảm thời gian tung sản phẩm ra thị trường.
- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong
phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ
trợ bởi các showroom trên mạng.
- Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua
mạng, quan hệ giữa doanh nghiệp với trung gian và khách hàng cũng được củng
cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần
thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng trung thành.
- Tăng cơ hội bán và mua: Trong TMĐT, thỏa thuận về giá cả và chuyển
giao các mặt hàng dễ dàng hơn bởi vì Web có thế cung cấp thông tin cạnh tranh
về giá cả rất hiệu quả. TMĐT đẩy mạnh tốc độ và tính chính xác để các doanh
nghiệp có thể trao đổi thông tin và giảm chi phí cho cả hai bên trong giao dịch.
- Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi
thế và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng theo
nhóm, ebay.com đấu giá trực tuyến đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của
những thành công này.
4.1.2. Lợi ích đối với người tiêu dùng.

- Nhận được dịch vụ khách hàng tốt hơn: TMĐT dường như đồng nghĩa
với việc dịch vụ khách hàng nhanh hơn và chất lượng cao hơn. Thay vì phải gọi
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


16
điện cho công ty và chờ nhân viên kiểm tra tài khoản của mình, giờ đây khách
hàng chỉ cần truy cập trực tiếp vào tài khoản cá nhân của mình trên trang web,
và thao tác này tốn có vài giây. Nó giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao
chất lượng phục vụ.
- Giá thấp hơn, nhiều sự lựa chọn về hàng hóa, dịch vụ hơn: Do cập nhật
thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng, và phong phú hơn nên
khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp, từ đó tìm ra mức giá
phù hợp nhất.
- Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản
phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm…, sản phẩm dễ dàng được
giao thông qua Internet, khách hàng chỉ việc tải xuống bằng phần mềm
download có sẵn của các trình duyệt thông dụng như Internet Explorer hay
Mozilla Firefox hoặc các phần mềm khác.
- Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng
cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng.
4.1.3. Lợi ích đối với xã hội.
- Tăng phúc lợi xã hội: Các dịch vụ thanh toán điện tử áp dụng với việc
trả thuế, lương hưu và phúc lợi xã hội với chi phí thấp, an toàn và nhanh chóng
khi giao dịch qua Internet. TMĐT có thể cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới
những nơi xa xôi.
- Nâng cao mức sống: Có nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp sẽ tạo ra áp
lực giảm giá, do đó tăng khả năng mua sắm của khách hàng, nâng cao mức sống.
- Lợi ích cho các nước nghèo, các nước đang phát triển: Những nước này
có thể tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua

Internet và TMĐT. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng…
Việc đào tạo qua mạng cũng nhanh chóng giúp các nước này tiếp thu công nghệ
mới.

Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


17
4.2. Hạn chế của TMĐT.
Bên cạnh những lợi ích to lớn mà TMĐT đem lại thì cũng có không ít
những hạn chế mà đã khiến cho những người tham gia TMĐT gặp không ít khó
khăn. Mặc dù hầu hết mặt hàng đều có thể kinh doanh trên mạng nhưng cũng có
một số mặt hàng không thuận lợi khi kinh doanh trực tuyến như quần áo do
không thử được kích cỡ và chất liệu, thực phẩm tươi sống dễ hỏng, các đồ trang
sức đắt tiền có giá trị lớn không thể kiểm tra một cách chính xác.
Nói chung, TMĐT có hai loại hạn chế chủ yếu, đó là hạn chế về kỹ thuật
và hạn chế về thương mại.
Hạn chế về kỹ thuật.
- Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy.
- Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người
sử dụng, nhất là trong TMĐT.
- Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn đang trong giai đoạn phát triển.
- Khó khăn khi kết hợp các phần mềm TMĐT với các phần mềm ứng dụng
và các cơ sở dữ liệu truyền thống.
- Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao.
- Thực hiện các đơn đặt hàng trong thương mại điện tử B2C đòi hỏi phải có
hệ thống kho hàng tự động lớn.
- Cần có các máy chủ thương mại đặc biệt (công suất, an toàn) đòi hỏi thêm
chi phí đầu tư.
Hạn chế về thương mại.

- An ninh và sự riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia
TMĐT. Trong năm 2000, theo tạp chí Economist có 95% người Mỹ e
ngại khi gửi thông tin về số thẻ tín dụng trên mạng, và hàng triệu khách
hàng tiềm năng lo sợ bị mất số thẻ tín dụng trong các giao dịch trên
Internet. Họ vẫn chưa cảm thấy thật sự tự tin khi tham gia vào các giao
dịch trên mạng.
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


18
- Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ. Và một số chính
sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để TMĐT phát triển.
- Các phương pháp đánh giá hiệu quả của TMĐT còn chưa đầy đủ, hoàn
thiện.
- Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực sàng ảo cần thời gian. Một số
người tiêu dùng cảm thấy không thoải mái và an tâm khi xem các hàng
hóa trên màn hình máy tính. Họ vẫn không muốn thay đổi thói quen mua
sắm truyền thống.
- Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô.
- Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của TMĐT.
- Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm khó khăn hơn sau sự sụp đổ của hàng loạt
các công ty dot.com.

5. Các mô hình TMĐT cơ bản.
5.1. Mô hình TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B (Business
to business)
Thương mại điện tử B2B là phương thức kinh doanh trong đó cả người
bán và người mua đều là các doanh nghiệp. Họ thực hiện các giao dịch bằng
cách sử dụng các phương tiện điện tử qua mạng Internet. Intranet và Extranet.
B2B liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình thanh toán và thực hiện hợp

đồng trong bất kỳ thời gian nào trong ngày. TMĐT B2B đem đến một cách thức
giao dịch mới, cũng như việc mở rộng dây chuyền cung ứng cho các doanh
nghiệp. Có bốn loại hình giao dịch B2B: B2B định hướng người mua, B2B định
hướng nhà cung cấp, B2B định hướng người trung gian và sàn đấu giá trực
tuyến.
Giao dịch B2B thường là những giao dịch có giá trị lớn. Doanh nghiệp sử
dụng hệ thống mạng máy tính để đặt hàng với nhà cung cấp của mình với các
đơn hàng lớn. Mô hình B2B áp dụng trong hình thức kinh doanh có chứng từ
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


19
giữa các công ty, các tổ chức, giữa công ty mẹ và công ty con trong cùng hiệp
hội… Khi sử dụng mô hình B2B cần phải kiểm chứng được khách hàng và bảo
mật thông tin mua bán thông qua các chữ ký điện tử của các công ty, tổ chức. .
Đặc điểm chính của TMĐT B2B là các công ty phải tự động hóa quá trình
giao dịch trao đổi và hoàn thiện quá trình này. Các giao dịch được thực hiện
giữa các thành viên của chuỗi quản lý cung cấp hàng hóa, dịch vụ hay giữa các
đơn vị kinh doanh với bất kỳ một đối tác kinh doanh khác. Khác với chuỗi cung
cấp hàng hóa truyền thống, khách hàng ở đây không phải là những cá nhân mà
là các doanh nghiệp. Sự ra đời của TMĐT B2B có thể giúp giảm bớt trung gian
trong chuỗi cung ứng như nhà phân phối, nhà bán lẻ.

5.2. Mô hình TMĐT giữa doanh nghiệp với khách hàng – B2C (Business to
Customer)
TMĐT B2C là hình thức TMĐT rất phổ biến, là mô hình giao dịch giữa
doanh nghiệp và người tiêu dùng, trong đó khâu bán hàng trực tuyến, thanh toán
trực tuyến và vận chuyển hàng hóa trực tuyến nhanh chóng và an toàn là phương
thức kinh doanh quan trọng nhất. Mô hình B2C được áp dụng trong các mô hình
siêu thị điện tử và các site bán hàng lẻ, bao gồm cả việc hỗ trợ khách hàng trực

tuyến, các site kinh doanh du lịch, khách sạn, đặt vé máy bay v.v… Không
giống như B2B, mô hình B2C sử dụng cho các hình thức kinh doanh không có
chứng từ.
Một đặc tính rõ rệt nhất của TMĐT B2C là khả năng thiết lập mối quan hệ
trực tiếp với khách hàng rất hiệu quả mà không cần có sự tham gia của khâu
trung gian như nhà phân phối, bán buôn hoặc môi giới. Có thể xét mô hình
TMĐT B2C từ 2 góc độ:
- Từ phía doanh nghiệp:
Mô hình TMĐT B2C từ phía doanh nghiệp mô tả chu trình quản lý việc
mua hàng của khách hàng, tức là các hoạt động doanh nghiệp cần thực hiện để
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


20
đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong quá trình mua hàng như: hoàn thành đơn
hàng và giao hàng cho khách hàng cũng như thực hiện các hoạt động hậu cần
cho kinh doanh của doanh nghiệp.
- Từ phía khách hàng:
Mô hình TMĐT B2C cụ thể hóa hệ thống các hoạt động của người đi mua
hàng thực hiện khi mua hàng hóa hoặc dịch vụ. Các doanh nghiệp cần nắm được
điều này khi xây dựng chương trình quản lý TMĐT.
Quá trình mua hàng của khách hàng khi tham gia giao dịch TMĐT: bắt
đầu bằng các bước tiền mua hàng, sau đó là mua hàng và cuối cùng là các bước
hậu mua hàng. Quá trình tiền mua hàng bao gồm các hoạt động tìm kiếm thông
tin và phát hiện các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng và lựa chọn
sản phẩm từ nhóm những sản phẩm xác định trên cơ sở các tiêu chí so sánh. Quá
trình mua hàng mô tả dòng các thông tin và các tài liệu có liên quan đến việc
mua hàng và thương lượng giữa khách hàng và người bán về những điều khoản
cụ thể như giá cả, điều kiện mua hàng, cơ chế thanh toán và thực hiện thanh toán.
Giai đoạn hậu mua hàng là các hoạt động dịch vụ khách hàng để giải quyết

khiếu nại của khách hàng, các dịch vụ đi kèm hoặc khách hàng có thể trả lại sản
phẩm, v.v…

5.3. Các mô hình TMĐT khác.
TMĐT giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng – C2C (Customer to
customer): Đây là mô hình TMĐT giữa các cá nhân với nhau, họ có thể
tham gia hoạt động thương mại với tư cách người bán hoặc người mua.
Một cá nhân có thể tự lập website để kinh doanh những mặt hàng do
mình làm ra hoặc sử dụng một website có sẵn để đấu giá món hàng mình
có, ví dụ: www.chodientu.com v.v…
TMĐT giữa doanh nghiệp với Nhà nước – B2G (Business to
Government): Trong mô hình này, cơ quan Nhà nước đóng vai trò như
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


21
khách hàng và quá trình trao đổi thông tin cũng được tiến hành qua các
phương tiện điện tử. Cơ quan Nhà nước cũng có thể lập các website, tại
đó đăng tải những thông tin về nhu cầu mua hàng của mình và tiến hành
việc mua sắm hàng hóa, lựa chọn nhà cung cấp trên website. Ví dụ Hải
quan điện tử, thuế điện tử v.v
TMĐT giữa cơ quan nhà nước và người tiêu dùng – G2C (Government
to Customer): Mô hình G2C chủ yếu đề cập tới các giao dịch mang tính
hành chính. Ví dụ: hoạt động đóng thuế qua mạng, trả phí đăng ký hồ sơ.

6. Tổng quan hệ thống thanh toán điện tử.
6.1. Khái niệm thanh toán điện tử.
Việc giao dịch trong TMĐT diễn ra hoàn toàn trực tuyến đòi hỏi phải có
hệ thống thanh toán điện tử . Theo báo cáo quốc gia về kỹ thuật TMĐT của Bộ
thương mại: “Thanh toán điện tử (Electronic Payment) theo nghĩa rộng được

định nghĩa là việc thanh toán tiền thông qua các thông điệp điện tử (Electronic
Message) thay cho việc trao tiền mặt.” Theo nghĩa hẹp, thanh toán trong TMĐT
có thể hiểu là việc trả tiền và nhận tiền hàng cho các hàng hóa, dịch vụ được
mua bán trên Internet. Chẳng hạn như: trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ
tín dụng; công ty trả lương nhân viên bằng cách trả tiền trực tiếp vào tài khoản
ngân hàng v.v…

6.2. Các hình thức thanh toán của hệ thống thanh toán điện tử (Smart
Card, Credit Card, DigiCash …)
Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở rộng
sang các lĩnh vực mới : các máy rút tiền tự động (ATM – Automatic Teller
Machine), thẻ tín dụng (Credit card). Thẻ mua hàng (Purchasing card), thẻ thông
minh (Smart card), ví tiền điện tử (E-wallet), các chứng từ điện tử (như hối
phiếu. giấy nhận nơ điện tử) Việc xây dựng một hệ thống thanh toán tài chính
Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


22
tự động và chuyển tiền tự động (hệ thống các thiết bị tự động chuyển tiền từ tài
khoản này sàng tài khoản khác trong hệ thống liên ngân hàng) là điều kiện tiên
quyết để thực hiện thành công TMĐT tiến tới nền KT số hóa. Cụ thể:
- Thẻ thông minh (Smart Card): bản chất cũng giống thẻ tín dụng, là một thẻ làm
bằng chất dẻo có gắn những con chip bên trong. Trong một số trường hợp,
những bộ vi xử lý bên trong thẻ sẽ đóng vai trò làm thiết bị lưu trữ thông tin
nhiều hơn thẻ tín dụng gấp trăm lần. Nói chung, bản thân những chiếc thẻ thông
minh này là những máy tính siêu nhỏ ngoại trừ việc cung cấp năng lượng và làm
thiết bị đầu cuối. Nhờ tính năng linh hoạt của mình, thẻ thông minh được sử
dụng rất phổ biến ở Châu Âu và châu Á và được xem như giải pháp thích hợp
cho việc thực hiện các giao dịch thanh toán trên mạng với mức độ an toàn bảo
mật cao hơn rất nhiều so với thẻ tín dụng bởi nó cung cấp cho người sử dụng cả

sự bảo vệ về phần cứng cả sự bảo vệ bằng phần mềm mã hóa ( Encryption – là
một kỹ thuật bảo mật làm biến đổi dữ liệu từ hình thức đơn giản, rõ ràng sàng
hình thức dữ liệu biến thành mật mã. Encryption có thể là một chiều nghĩa là mã
hóa được thiết kế để ẩn thông tin dữ liệu đi và không bao giờ quay trở lại được,
còn hai chiều là chuỗi ký tự được mã hóa có thể chuyển lại thành dạng text và
đọc được.)

Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


23

Hình 2. Website của công ty Gemalto – công ty hàng đầu của Pháp
về phát hành thẻ thông minh.

- Tiền điện tử (E-Cash): là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành, sau đó được
chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, có thể áp dụng
trong phạm vi một nước cũng như giữa các quốc gia. Tất cả đều được thực hiện
bằng công nghệ kỹ thuật số hóa, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt
số hóa” (DigiCash).
- Ví điện tử (E - Wallet): thực chất là một nơi lưu trữ thẻ tín dụng trên internet,
hay còn gọi là thẻ giữ tiền (Stored Value Card). Người giữ ví có thể chọn một
trong số thẻ của mình để tiến hành mua hàng và một giao dịch hoàn toàn bảo
mật được thực hiện. Ví điện tử này được cá nhân hóa bằng mật mã bảo vệ sử
dụng giao thức SET (Secure Electronic Transactions).

Nguyễn Phương Thanh, Anh 17 – K43E – KT và KDQT


24


Hình3. website của Nextcard ewallet

- Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính ( FEDI - Financial Electronic Data
Interchange): trao đổi dữ liệu điện tử tài chính chuyên phục vụ cho việc thanh
toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
- Giao dịch điện tử của ngân hàng (Digital Bank): Hệ thống thanh toán điện tử
của ngân hàng là một hệ thống lớn gồm nhiều hệ thống nhỏ:
 Thanh toán giữa ngân hàng và khách hàng (qua điện thoại, tại các điểm
bán lẻ, các Kiot, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng,
giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng…).
 Thanh toán giữa các ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu
thị).
 Thanh toán trong nội bộ hệ thống ngân hàng.
 Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.
( Thanh toán liên ngân hàng ).
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của TMĐT, người ta dần được
chứng kiến ngày càng nhiều những hình thức thanh toán mới góp phần làm đa
dạng hệ thống thanh toán điện tử trên toàn cầu. Trong đó không thể không nhắc

×