Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nước asean và bài học đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.7 KB, 112 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***







KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP




Đề tài:
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS
TẠI MỘT SỐ NƯỚC ASEAN VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI
VIỆT NAM


Sinh viên thực hiện : Phạm Quỳnh Anh
Lớp : Anh 6
Khoá : K43B - KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Trần Sĩ Lâm


Hà Nội - 2008







Để hoàn thành Khoá luận này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Sĩ Lâm,
PGS.TSKH. Nguyễn Văn Chương, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển Giao
thông vận tải đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện Khoá luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ và chuyên viên đang công tác tại Vụ
Đa biên, Vụ Thị trường trong nước, Cục Pháp chế và Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ
Công Thương đã nhiệt tình cung cấp nhiều tài liệu quý báu để em hoàn thành Khoá
luận này.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS 1
I. Khái quát chung về logistics 1
1. Khái niệm logistics 1
2. Quá trình phát triển của logistics 3
3. Vai trò của logistics 5
3.1 Vai trò của logistics trong doanh nghiệp 5
3.2 Vai trò của logistics đối với nền kinh tế 6
4. Logistics toàn cầu (Global Logistics) 8
5. Quản trị chuỗi cung ứng - bƣớc phát triển cao hơn của logistics 10
II. Khái quát chung về dịch vụ logistics 13
1. Dịch vụ logistics 13
1.1 Khái niệm dịch vụ logistics 13
1.2 Các loại hình dịch vụ logistics chủ yếu 15
2. Nhà cung cấp dịch vụ logistics 16
2.1 Khái niệm nhà cung cấp dịch vụ logistics 16
2.2 Một số loại hình nhà cung cấp dịch vụ logistics 18
2.2.1 Mô hình phát triển chung 18

2.2.2 Mô hình 3PL và 4PL 20
3. Ngƣời tiêu dùng dịch vụ logistics 22
CHƢƠNG II: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS
TẠI MỘT SỐ NƢỚC ASEAN 25
I. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics khu vực ASEAN 25
1. Tình hình phát triển kinh tế, thƣơng mại khu vực ASEAN 25
2. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics khu vực ASEAN 27
2.1 Thực trạng kết cấu hạ tầng logistics khu vực ASEAN 27
2.2 Thực trạng nguồn nhân lực và hệ thống chính sách điều chỉnh dịch vụ
logistics khu vực ASEAN 30
2.3 Xu hướng hợp tác phát triển dịch vụ logistics khu vực ASEAN 32
II. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại một số nƣớc ASEAN 33
1. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Singapore. 33
1.1 Điều kiện phát triển kinh tế xã hội 33
1.2 Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Singapore 34
1.2.1 Thực tiễn thị trường 34
1.2.2 Chương trình phát triển dịch vụ logistics tại Singapore 36
1.2.3 Cơ sở hạ tầng logistics hiện đại 37
2. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Malaysia 41
2.1 Điều kiện phát triển kinh tế xã hội 41
2.2 Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Malaysia 42
2.2.1 Thực tiễn thị trường 42
2.2.2 Chương trình phát triển dịch vụ logistics tại Malaysia 43
2.2.4 Cơ sở hạ tầng logistics tại Malaysia 44
3. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Thái Lan 48
3.1 Điều kiện phát triển kinh tế xã hội 48
3.2 Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Thái Lan 49
3.2.1 Thực tiễn thị trường 49
3.2.2 Chương trình phát triển dịch vụ logistics tại Thái Lan 51
III. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nƣớc ASEAN 56

1. Định hƣớng phát triển dịch vụ logistics phụ thuộc vào trình độ phát triển
hiện tại 57
2. Đầu tƣ toàn diện và đồng bộ vào kết cấu hạ tầng logistics 58
3. Các chính sách và biện pháp kích cung, cầu dịch vụ logistics 60
4. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng triển thƣơng mại
điện tử 61
5. Đào tạo nguồn nhân lực về dịch vụ logistics 62
6. Thúc đẩy hợp tác quốc tế về dịch vụ logistics 63
CHƢƠNG III: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ KINH NGHIỆM CÁC NƢỚC ASEAN 64
I. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam 64
1. Điều kiện và triển vọng phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam 64
2. Thực trạng và khó khăn trong phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam
67
2.1 Thực tiễn thị trường dịch vụ logistics tại Việt Nam 67
2.2 Những khó khăn trong phát triển dịch vụ logistics hiện nay tại Việt Nam
71
2.2.1 Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh logistics 71
2.2.2 Cơ sở hạ tầng logistics và trang thiết bị hỗ trợ dịch vụ logistics 72
2.2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin 74
2.2.4 Nguồn nhân lực 75
2.2.5 Một số bất cập khác 77
II. Cơ hội và thách thức đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
trƣớc bối cảnh hội nhập 79
1. Những cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ logistics 79
1.1 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ logistics khi gia nhập WTO 79
1.2 Các thoả thuận khu vực 80
2. Cơ hội và thách thức đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
trƣớc bối cảnh hội nhập 81
2.1 Cơ hội trong việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam 81

2.2 Thách thức trong việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam 83
III. Định hƣớng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở kinh
nghiệm một số nƣớc ASEAN 85
1. Dự báo nhu cầu dịch vụ logistics trong tƣơng lai của nền kinh tế Việt
Nam 85
2. Định hƣớng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở kinh
nghiệm các nƣớc ASEAN 88
2.1 Xây dựng chiến lược phù hợp với thực trạng phát triển dịch vụ logistics
hiện nay tại Việt Nam 89
2.2 Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý phát triển dịch vụ logistics
90
2.3 Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện kỹ thuật hỗ trợ
cho sự phát triển của hệ thống logistics 91
2.4 Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở tuân thủ các cam
kết quốc tế về dịch vụ logistics 94
2.5 Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ logistics
………………………………………………………………………….96
2.6 Thúc đẩy hợp tác quốc tế và hướng tới xây dựng thị trường chung về
dịch vụ logistics trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) 98
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT
Tên bảng biểu
Trang
1
Hình 1.1. Chuỗi cung ứng trong bối cảnh với các thuật ngữ: quản
lý cung ứng (supply management), phân phối hàng hóa
(physical distribution), chuỗi giá trị (value chain)

11
2
Hình 1.2. Tíến trình phát triển của nhà cung cấp dịch vụ logistics
21
3
Bảng 2.1. Các chỉ số kinh tế Singapore giai đoạn 2003 – 2007
33
4
Bảng 2.2. Các chỉ số kinh tế Malaysia giai đoạn 2003 - 2007
41
5
Bảng 2.3. Các chỉ số kinh tế Thái Lan giai đoạn 2003 - 2007
49
6
Hình 2.1. Chi phí logistics tại Thái Lan trong tương quan so sánh
với một số nước trên thế giới
50
7
Hình 2.2. Các hoạt động giúp cắt giảm chi phí logistics tại Thái Lan
53
8
Hình 3.1. Đóng góp của các ngành kinh tế trong tăng trưởng GDP
của Việt Nam
65
9
Hình 3.2. Nhu cầu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2010
86



Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, dịch vụ logistics đóng vai trò rất quan trọng và có mối quan hệ mật
thiết với nền kinh tế hiện đại. Môi trường kinh tế càng phát triển, nhu cầu về dịch
vụ logistics càng nhiều; ngược lại, tính chuyên nghiệp và khoa học của dịch vụ
logistics sẽ giúp các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển hiệu quả và bền vững.
Tuy nhiên, ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam hiện nay còn trong giai đoạn
hình thành ban đầu với trình độ phát triển tương đối thấp. Xây dựng chiến lược
phát triển ngành dịch vụ logistics đúng đắn là một đòi hỏi thiết yếu đối với các cấp
quản lý trong bối cảnh hiện nay. Trong quá trình xây dựng và phát triển này, sẽ có
lúc Việt Nam phải đứng trước những bài toán khó mà hầu hết các quốc gia đi
trước đã gặp phải. Vì vậy, việc tích cực nghiên cứu, đúc rút và học tập kinh nghiệm
phát triển dịch vụ logistics của các nước đi trước sé giúp Việt Nam nhanh chóng
bắt kịp với trình độ phát triển dịch vụ logistics trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với các nước trong khu vực ASEAN về
cả kinh tế, chính trị và văn hoá. Khoảng cách phát triển kinh tế giữa Việt Nam với
một số nước phát triển hơn trong khu vực như Singapore, Malaysia và Thái Lan
không quá xa và có nhiều nét tương đồng. Trên nền tảng đó, ngành dịch vụ
logistics của các nước này cũng từng trải qua giai đoạn sơ khai như Việt Nam hiện
nay. Do đó, nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số quốc
gia Đông Nam Á sẽ đem lại nhiều bài học quý báu và thiết thực đối với Việt Nam.
Chính vì vậy, đề tài Khoá luận tốt nghiệp em lựa chọn nghiên cứu là: “Kinh
nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nước ASEAN và bài học đối với
Việt Nam”





Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài khoá luận có mục tiêu nghiên cứu:
 Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại các nước ASEAN.
 Đưa ra những kiến nghị đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên
cơ sở bài học kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại các nước ASEAN.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề phát triển dịch vụ logistics tại một
số nước ASEAN và tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc phân tích vĩ mô thực trạng phát
triển dịch vụ logistics tại một số quốc gia Đông Nam Á chủ yếu là Singapore,
Malaysia, Thái Lan và tại Việt Nam trong những năm gần đây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, những phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Khoá
luận này bao gồm: phương pháp thu thập & tổng hợp tài liệu, phương pháp diễn
giải, quy nạp, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh,…
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung của Khoá luận
chia thành 3 chương như sau:
 Chương I: Tổng quan về dịch vụ logistics
 Chương II: Kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nước ASEAN
 Chương III: Phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm
các nước ASEAN
Sau đây là toàn bộ nội dung Khoá luận tốt nghiệp của em.




Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS

I. Khái quát chung về logistics
1. Khái niệm logistics
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản phẩm vật
chất được sản xuất ra ngày càng nhiều. Bên cạnh đó khoảng cách trong các lĩnh
vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng thu
hẹp khiến các nhà sản xuất chuyển sang cạnh tranh về quản lý hàng tồn kho, tốc
độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu và bán
thành phẩm,… trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh nghiệp.
Thực tế đó khiến logistics có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh
doanh.
Tuy nhiên logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu tiên không phải
trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics được các
quốc gia ứng dụng rộng rãi trong 2 cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực
lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần cho lực
lượng tham chiến. Hiệu quả của hoạt động logistics là yếu tố có tác động rất lớn
tới thành bại trên chiến trường.
Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh
vực kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ “logistics” thường được
hiểu là hoạt động quản trị chuỗi cung ứng (supply chain management) hay quản
lý hệ thống phân phối vật chất (physical distribution management) của doanh
nghiệp đó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được
xây dựng căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu, tuy nhiên, có thể nêu
một số khái niệm chủ yếu sau:



Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
2
Theo Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ-1988
Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết
kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành
phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm thỏa
mãn yêu cầu của khách hàng.
Theo giáo sư người Anh Martin Christopher
Logistics là quá trình quản trị chiến lược thu mua, di chuyển và dự trữ
nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm (và dòng thông tin tương ứng) trong
một công ty và qua các kênh phân phối của công ty để tối đa hoá lợi nhuận hiện
tại và tương lai thông qua việc hoàn tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất.
Theo Quan điểm “5 đúng” (“5 Rights”)
Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng
thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm.
Theo Ma Shuo, tác giả cuốn “Logistics and supply chain management”
Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài
nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản
xuất, người bán buôn, người bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông
qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.
Như vậy, trong nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng logistics chính là
hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm và dòng thông tin từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản xuất ra sản
phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng. Mục đích giảm tối đa chi phí phát
sinh hoặc sẽ phát sinh với một thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp thời
(Just-in-Time).



Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
3
Tóm lại, logistics có thể được hiểu như sau: “Logistics là quá trình tối ưu
hoá về vị trí và thời gian, vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu
tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông
qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.”

2. Quá trình phát triển của logistics
Như đã đề cập, “logistics” là một thuật ngữ quân sự, dùng trong quân đội.
Logistics được coi là một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu, đó chính là việc vận
chuyển và cung cấp lương thực, thực phẩm, trang thiết bị quân dụng đúng nơi,
đúng lúc khi cần thiết cho lực lượng chiến đấu. Logistics đã giúp quân đội các
nước tham chiến gặt hái được những chiến thắng, đặc biệt là trong chiến tranh
thế giới thứ hai.
Xuất phát từ bản chất ưu việt của logistics, sau khi chiến tranh thế giới thứ
hai kết thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng
logistics của họ trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến đáp ứng nhiệm vụ thực tế
là tái thiết đất nước sau chiến tranh (đối với các nước Châu Âu) hay trợ giúp tái
thiết (đối với nước Mỹ).
Từ những năm 50 của thế kỷ XX đến nay, công nghiệp và thương mại thế
giới trải qua những biến đổi sâu sắc từ nền kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất hàng
loạt, đòi hỏi một lượng hàng lớn đồng nhất sang nền kinh tế mà tính độc đáo và
đa dạng của hàng hoá được nhấn mạnh. Trong buôn bán, người bán không nhất
thiết là người sản xuất, người mua cũng chưa chắc đã là người tiêu dùng. Quá
trình hàng hoá từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng có thể qua nhiều
trung gian lần lượt đóng vai trò là người bán hay người mua và là một bộ phận
của toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá. Tính chất phong phú của hàng hoá

cùng với sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi phải có một sự quản lý chặt


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
4
chẽ điều này đã đặt ra cho các nhà sản xuất kinh doanh một yêu cầu mới. Đồng
thời để tránh đọng vốn, các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một
lượng hàng tồn kho nhỏ nhất. Từ những lý do trên yêu cầu hoạt động vận tải giao
nhận nói riêng và phân phối nói chung phải đảm bảo cho nguyên liệu hàng hoá
được cung ứng kịp thời, đúng lúc (Just-in-Time) mặt khác phải tăng cường vận
chuyển với mục tiêu không để hàng trong kho nhằm giảm tối đa chi phí phát sinh
trong sản xuất và lưu thông – logistics trong doanh nghiệp đã ra đời.
Nghiên cứu các giai đoạn phát triển của logistics, Uỷ ban kinh tế và xã hội
Châu Á – Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and
Pacific – ESCAP) của Liên hiệp quốc chia thành 3 giai đoạn như sau:
 Giai đoạn 1: Phân phối vật chất (Physical Distribution)
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu quan tâm tới việc
quản lý có hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để đảm bảo phân
phối sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách có hiệu quả. Những hoạt
động đó bao gồm: vận tải, phân phối, bảo quản hàng hoá, quản lý hàng tồn kho,
bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn… Những hoạt động này được gọi là phân
phối/cung ứng sản phẩm vật chất hay còn có tên gọi là logistics đầu ra (out
bound logistics).
 Giai đoạn 2: Hệ thống logistics (Logistics Systems)
Thời kỳ này khoảng những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, các công ty tiến
hành kết hợp chặt chẽ sự quản lý giữa hai mặt, đầu vào (in bound logistics) với
đầu ra (out bound logistics) để giảm tối đa chi phí cũng như tăng thêm hiệu quả
của quá trình này. Như vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa cung ứng nguyên liệu cho
sản xuất với phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng đã đảm bảo sự ổn định

và tính liên tục của các luồng vận chuyển, sự kết hợp này được mô tả là hệ thống
logistics.


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
5
 Giai đoạn 3: Quản lý dây chuyền cung cấp (Supply Chain Management)
Giai đoạn này diễn ra từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay. Quản lý
dây chuyền cung cấp là khái niệm có tính chiến lược về quản lý dãy nối tiếp các
hoạt động từ người cung ứng - đến người sản xuất - đến khách hàng cùng với các
dịch vụ làm tăng thêm giá trị của sản phẩm như cung cấp chứng từ liên quan,
theo dõi, kiểm tra… Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ với đối
tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung ứng, với người tiêu
dùng và các bên có liên quan tới hệ thống quản lý như các công ty vận tải, kho
bãi và những người cung cấp công nghệ thông tin.
Như vậy logistics được phát triển từ việc áp dụng các kỹ năng “tiếp vận”,
“hậu cần” trong quân đội để giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tế sản
xuất - kinh doanh và hiện nay được hoàn thiện trở thành hệ thống quản lý mang
lại hiệu quả kinh tế cao.

3. Vai trò của logistics
3.1 Vai trò của logistics trong doanh nghiệp
Trong mỗi doanh nghiệp tồn tại ít nhất một trong hai hoạt động chủ đạo đó
là tổ chức sản xuất và xây dựng kênh phân phối. Với vai trò hỗ trợ các hoạt động
khác trong doanh nghiệp, logistics luôn có mối tương tác chặt chẽ với cả hai hoạt
động này. Thiếu logistics, sản xuất cũng như phân phối khó có thể hoạt động
trơn chu và hiệu quả.
Trong hoạt động sản xuất, logistics giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn
thời gian hoạt động của dây chuyền sản xuất mà vẫn đạt được hiệu quả kinh tế

cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp quan niệm rằng phải khai thác hết công
suất của máy móc để đạt mức sản lượng tối đa. Kết quả là họ phải bỏ ra chi phí
lưu kho rất cao vì tiêu thụ không hết sản phẩm. Vì vậy, vai trò của logistics ở đây


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
6
là bộ phận sử dụng các thông tin nghiên cứu thị trường để giúp doanh nghiệp
nhận định được nhu cầu trong từng giai đoạn trước khi bắt tay vào sản xuất,
tránh lưu kho nhiều, giảm chi phí vận hành máy móc liên tục.
Vai trò thứ hai của logistics là giúp các doanh nghiệp đảm bảo nguồn
nguyên liệu đầu vào tuân thủ kế hoạch sản xuất và đặc biệt tránh tình trạng sản
xuất bị gián đoạn. Nhà quản trị logistics sẽ khó khăn hơn khi trong dây chuyền
sản xuất của doanh nghiệp sử dụng các nguyên liệu mang tính thời vụ hoặc
doanh nghiệp là nhà sản xuất, lắp ráp thành phẩm cuối cùng trong một chuỗi nối
tiếp các hoạt động sản xuất. Đối với doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu mang
tính thời vụ, ví dụ như các công ty chế biến lương thực thực phẩm, khi nguyên
vật liệu không thể lưu kho trong thời gian dài nhà quản trị logistics cần tìm ra
nguồn nguyên liệu thay thế, có thể phải chấp nhận nhập khẩu nguyên liệu. Đối
với các công ty hoạt động trong chuỗi sản xuất, ví dụ ngành sản xuất ô tô,
logistics thực hiện chức năng liên lạc với các đơn vị đồng sản xuất đảm bảo hợp
tác sản xuất hiệu quả không bị gián đoạn.
Bên cạnh hoạt động sản xuất, logistics hỗ trợ đắc lực cho hoạt động
marketing đặc biệt là marketing hỗn hợp. Trong quá trình xây dựng chính sách
marketing, nhà quản lý phải biết đâu là thị trường của doanh nghiệp, thực hiện
các dịch vụ khách hàng như thế nào để đem lại hiệu quả từ đó có thể xác lập một
kênh phân phối có thể tối đa lượng hàng hoá bán ra với mức giá hợp lý. Logistics
giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu của thị trường, có vai trò quan
trọng trong quá trình khách hàng tiếp cận, tin tưởng và chấp nhận sản phẩm.

3.2 Vai trò của logistics đối với nền kinh tế
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của
quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
7
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Logistics đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thể hiển trên nhiều phương diện.
Thứ nhất, logistics là một trong các chi phí lớn trong kinh doanh, tác động
qua lại với nhiều hoạt động kinh tế khác. Đối với những nước phát triển như
Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát
triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Chi phí sản xuất kinh doanh lớn khiến người
tiêu dùng phải mua hàng hoá, dịch vụ với mức giá cao còn lợi nhuận của doanh
nghiệp giảm sút. Nếu chi phí cho hoạt động logistics tăng cao trong một thời
gian dài thì có thể kéo theo sự phát triển thụt lùi của toàn bộ nền kinh tế, chất
lượng cuộc sống của người dân suy giảm và ngân sách nhà nước được hình thành
chủ yếu từ khoản thu thuế cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, logistics phát triển tốt sẽ
không chỉ mang lại khả năng tiết giảm thời gian, chi phí và nâng cao chất lượng
hàng hoá, dịch vụ mà logistics còn là một động lực quan trọng thúc đầy nền kinh
tế phát triển.
Thứ hai, logistics đóng vai trò là nhân tố hỗ trợ cho dòng lưu chuyển của
nhiều giao dịch trong nền kinh tế, nó đồng thời cũng là một hoạt động quan trọng
tạo thuận lợi cho việc kinh doanh hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, logistics là công cụ hữu hiệu nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế và hội nhập với thế giới. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay,
khoảng cách thời gian và không gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng không
dừng lại trong phạm vi từng quốc gia hay từng khu vực mà ngày càng mở rộng
trên phạm vi toàn cầu. Trong môi trường toàn cầu cạnh tranh gay gắt, các nhà

sản xuất kinh doanh phải tiến hành tiết kiệm chi phí sản xuất tối đa, hạ giá thành
sản phẩm, rút ngắn thời gian giao hàng, tăng cường khả năng cung ứng
v.v…Muốn đạt được các mục tiêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng
công nghệ logistics.


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
8
4. Logistics toàn cầu (Global Logistics)
Kỷ nguyên toàn cầu hoá đã chính thức thay thế thời kỳ “chiến tranh lạnh”
kéo dài từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập niên 80 của thể kỷ XX,
với dấu mốc là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ năm 1988. Toàn cầu hoá đã tác
động mạnh mẽ, đem lại sự phát triển năng động và vững chức cho nền kinh tế
thế giới.
Khi nền kinh tế thế giới ngày càng mở rộng, phạm vi giữa các quốc gia dần
bị xoá nhoà, khối lượng thương mại phát triển nhanh chóng và đặc biệt mạng
lưới thông tin toàn cầu ngày càng hoàn thiện, việc lưu thông các yếu tố sản xuất
kinh doanh giữa các nước là một thực tế đương nhiên. Xu thế mới của thời đại sẽ
dẫn đến bước phát triển tất yếu của logistics – logistics toàn cầu (Global
Logistics).
Toàn cầu hóa logistics là xu hướng xây dựng một mạng lưới toàn cầu để lưu
chuyển vốn, hàng hoá, thông tin và tiền tệ giữa các quốc gia, các khu vực. Đây là
xu hướng phát triển tất yếu của dịch vụ logistics trước yêu cầu hợp tác đa dạng
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong nền kinh tế toàn cầu. Logistics toàn cầu
phức tạp hơn logistics trong nội bộ một doanh nghiệp hay một quốc gia rất nhiều
do vẫn còn tồn tại những rào cản về ngôn ngữ, văn hoá, thể chế chính trị, hệ
thống luật lệ, những mâu thuẫn giữa tập quán kinh doanh của các nước, chênh
lệch tiền tệ, sự khác biệt về thời gian… những vấn đề muôn thuở trong nền kinh
tế thế giới.

Trong xu hướng chung hiện nay, các công ty đa quốc gia, những chủ thể
chính của nền kinh tế mới, hướng tới xây dựng cơ sở sản xuất và hệ thống phân
phối của mình ở nước ngoài, thiết lập mạng lưới thông tin toàn cầu, tận dụng tối
đa các nguồn lực tại chỗ ở các địa phương và thực hiện quản lý xuyên lục địa.
Tất cả những điều kiện và xu hướng mới đó đang đặt các doanh nghiệp xây dựng


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
9
một hệ thống logistics toàn cầu để chu chuyển hàng hoá tới khắp mọi nơi trên thế
giới. Các hệ thống logistics ở các khu vực khác nhau, các quốc gia khác nhau có
thể không hoàn toàn giống nhau. Nhưng tất cả các hệ thống logistics đều có điểm
chung là sự kết hợp khéo léo, khoa học, chuyên nghiệp chuỗi các hoạt động như:
marketing, sản xuất, tài chính, vận tải, thu mua, dự trữ, phân phối… để đạt được
mục đích phục vụ khách hàng tối đa với chi phí tối thiểu. Trong những thập niên
đầu thế kỷ 21 logistics sẽ phát triển theo 3 xu hướng chính như sau:
Xu hướng thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện
tử ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong các lĩnh vực của logistics, như: hệ
thống thông tin quản trị dây chuyền cung ứng toàn cầu, công nghệ nhận dạng
bằng tần số radio (Radio Frequency Identification – RFID), hệ thống truyền dữ
liệu (Electronic Data Interchange - EDI)… Thông tin được truyền càng nhanh và
chính xác thì các quyết định trong hệ thống logistics càng hiệu quả.
Xu hướng thứ hai, phương pháp quản lý logistics kéo (Pull) ngày càng phát
triển mạnh mẽ và dần thay thế cho phương pháp logistics đẩy (Push) theo truyền
thống. Phương pháp đẩy là phương pháp tổ chức sản xuất theo dự báo nhu cầu
thị trường. Phương pháp này tạo ra hàng tồn kho và “đẩy” ra thị trường để đáp
ứng nhu cầu thực tế. Phương pháp đẩy bộc lộ những nhược điểm lớn như tạo ra
khối lượng hàng tồn kho lớn, chu kỳ sản xuất dài, chi phí dự trữ cao, nhiều
trường hợp hàng dự trữ không bán được do dự báo nhu cầu không chính xác.

Phương pháp này đòi hỏi lượng vốn lưu động lớn, vòng quay chậm… Trái với
phương pháp Đẩy, phương pháp Kéo hoạch định sản xuất dựa trên nhu cầu sản
xuất thực và đơn hàng thực tế của thị trường, có nghĩa là nhu cầu của khách hàng
“kéo” hàng từ sản xuất về phía thị trường. Phương pháp Kéo có ưu điểm là giảm
tối thiểu khối lượng và chi phí hàng tồn kho, rút ngắn chu trình sản xuất, nhờ đó
giảm vốn lưu động, tăng vòng quay vốn, phản ứng nhanh và hiệu quả hơn với


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
10
những thay đổi của thị trường. Nhưng thực hiện được phương pháp này đòi hỏi
phải đáp ứng được những yêu cầu rất khắt khe như: phải có khả năng phản ứng
nhanh trước những yêu cầu của thị trường, tổ chức linh hoạt (do phải đáp ứng
nhiều đơn hàng có quy mô nhỏ), phải tổ chức và quản lý tốt hệ thống thông tin,
chu trình sản xuất được quản lý chặt chẽ, khoa học, có khả năng đáp ứng được
yêu cầu nghiêm ngặt về tiến độ , thời gian giao hàng,…
Xu hướng thứ ba, thuê dịch vụ logistics từ các công ty logistics chuyên
nghiệp ngày càng phổ biến. Đối với các công ty đa quốc gia, quy mô công ty
ngày càng lớn, phạm vi hoạt động ngày càng rộng, thì hoạt động logistics càng
phức tạp, đòi hỏi chi phí đầu tư và tính chuyên nghiệp ngày càng cao. Tự tổ chức
hoạt động logistics theo kiểu khép kín trong nội bộ từng công ty đòi hỏi chi phí
lớn, dẫn đến hiệu quả thấp, đặc biệt trong lĩnh vực cung ứng nguyên vật liệu và
phân phối sản phẩm. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia
chuyển từ tự tổ chức hoạt động logistics sang thuê dịch vụ logistics từ các công
ty logistics. Còn đối với các công ty nhỏ và vừa thì việc sử dụng các công ty
logistics chuyên nghiệp là nhu cầu tất yếu.
Ví dụ, theo thống kê của tổ chức Amstrong & Associates, thị trường
logistics toàn cầu năm 2007 được dự đoán đạt 645 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng
là 4.1%. Trong đó, khu vực 3PL toàn cầu ước tính đạt doanh thu khoảng 430 tỷ

USD với tốc độ tăng trưởng ước tính 10%, cao gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng
logistics toàn cầu. Sự tăng trưởng này chủ yếu do xu hướng thuê ngoài các hoạt
động logistics đang tăng nhanh.

5. Quản trị chuỗi cung ứng - bƣớc phát triển cao hơn của logistics
Trên thực tế do tồn tại rất nhiều quan điểm và định nghĩa về thuật ngữ
“chuỗi cung ứng” nên dễ dẫn đến sự khó hiểu và nhầm lẫn. Robert J. Trent đưa


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
11
ra định nghĩa về chuỗi cung ứng như sau: “Chuỗi cung ứng là một nhóm gồm ba
hoặc nhiều hơn các tổ chức kết nối trực tiếp bằng một hay nhiều dòng chảy xuôi
hay ngược của sản phẩm, dịch vụ, tài chính và thông tin từ một nhà cung ứng
đến khách hàng.” Quan điểm này nhìn nhận chuỗi cung ứng như là tập hợp các
quy trình có quan hệ với nhau chứ không phải là tập hợp các hoạt động riêng lẻ
phi tuyến. Những quy trình này được thiết kế để đạt tới những mục tiêu hay kết
quả cụ thể như phát triển một sản phẩm mới, hoàn thành đơn hàng, hay đánh giá
và lựa chọn nhà cung ứng. Dựa vào mô hình dư ới đây ta có thể thấy các hoạt
động quản lý cung ứng tập trung vào phần ngược của chuỗi cung ứng và chủ yếu
liên quan đến nhà cung cấp nguyên vật liệu và logistics đầu vào. Trong khi đó,
các hoạt động phân phối liên quan đến giai đoạn mà quy trình sản xuất đã hoàn
thành trong chuỗi cung ứng và thành phẩm được chuyển đến tay khách hàng.
Hình 1.1. Chuỗi cung ứng trong bối cảnh với các thuật ngữ: quản lý cung ứng (supply
management), phân phối hàng hóa (physical distribution), chuỗi giá trị (value chain)
w
Nguồn: Robert J.Trent (2004), What everyone need to know about supply chain
managemen, Supply Chain Management Review



Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
12
Trong khi đó, các hoạt động phân phối liên quan đến giai đoạn mà quy trình
sản xuất đã hoàn thành trong chuỗi cung ứng và thành phẩm được chuyển đến
tay khách hàng. Theo Michael Porter - người đầu tiên phát triển khái niệm chuỗi
giá trị vào thập niên 80 của thế kỷ XX - chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động chủ
chốt và hỗ trợ như được minh hoạ trong mô hình trên. Trong khi đó, chuỗi cung
ứng chỉ bao gồm các hoạt động chủ chốt hay là những mảng vận hành của chuỗi
giá trị. Do đó, chuỗi cung ứng có thể được hiểu như là một thành phần của chuỗi
giá trị.
Xét theo một khía cạnh khác, chuỗi cung ứng được xem như bắt nguồn từ
hoạt động logistics. Theo đó so với khái niệm “logistics” thì khái niệm “chuỗi
cung ứng” gần tương tự nhau. Theo từ điển vận tải và logistics của Kogan Page:
“Chuỗi cung ứng là sự kết nối liên tục giữa khâu cung ứng nguyên liệu thô thành
thành phẩm thông qua quá trình sản xuất và khâu giao thành phẩm tới tay người
tiêu dùng cuối cùng; đồng thời chuỗi cung ứng cũng là sự tiếp nối của quá trình
kinh doanh trong môi trường đơn thức hoặc đa thức nhằm thoả mãn nhu cầu
khách hàng” Do đó, điểm khác biệt giữa khái niệm “logistics” và khái niệm
“chuỗi cung ứng” nằm ở chỗ: xét trong môi trường doanh nghiệp thì logistics là
quá trình tối ưu hoá về vị trí và thời gian, lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên
từ điểm đầu đến khi trao hàng hoá tới tay người tiêu dùng thông qua hàng loạt
các hoạt động kinh tế. Còn chuỗi cung ứng bao gồm cả quá trình logistics bên
ngoài doanh nghiệp, trong môi trường này có cả sự hiện diện của khách hàng,
các nhà cung ứng cấp 1, cấp 2, cấp 3 Như vậy, quản trị chuỗi cung ứng (supply
chain management) cũng được nhìn nhận là khái niệm rộng hơn so với khái niệm
logistics của một doanh nghiệp. Sau đây là một số quan điểm thường thấy về
quản trị chuỗi cung ứng:




Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
13
Theo Micheal Hugos, tác giả cuốn “Essentials of supply chain management”
Quản trị chuỗi cung ứng là hoạt động phối hợp sản xuất, lưu kho đóng gói,
vận tải giữa các chủ thể tham gia chuỗi cung ứng nhằm đạt tới hiệu quả tốt nhất
cho thị trường.
Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á – Thái Bình Dương - ESCAP
Quản trị chuỗi cung ứng là tổng hợp những hoạt động của nhiều tổ chức
trong chuỗi cung ứng và phản hồi trở lại thông những thông tin cần thiết, kịp thời
bằng cách sử dụng mạng lưới công nghệ thông tin và truyền thông kỹ thuật số.
Theo các tác giả cuốn “The management of business logistics”
Quản trị chuỗi cung ứng là sự kết nối các dòng sản phẩm hay vật liệu, dịch
vụ, thông tin và tài chính từ nhà cung cấp đầu tiên thông qua nhiều tổ chức trung
gian để tới tay người tiêu dùng cuối cùng hay quản lý chuỗi cung cấp được nhìn
nhận là một hệ thống kết nối các mạng lưới logistics bao phủ từ người cung cấp
đầu tiên cho đến người tiêu dùng cuối cùng.
Như vậy, quản trị chuỗi cung ứng có thể bao gồm các khâu: phát triển sản
phẩm và thương mại hoá, thu mua nguyên vật liệu, quản lý luồng sản xuất, xử lý
vật liệu phế thải, quản lý cung cấp, phân phối, lưu kho, điều hành dây chuyền
vận tải, hoàn thiện đơn đặt hàng, quản lý nhu cầu, quản trị dịch vụ khách hàng.

II. Khái quát chung về dịch vụ logistics
1. Dịch vụ logistics
1.1 Khái niệm dịch vụ logistics
Trong thời gian đầu, logistics chỉ đơn thuần được coi là một phương thức
kinh doanh mới, mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Cùng với quá trình
phát triển, logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển trở thành một ngành

dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng quan trọng trong giao thương quốc tế.


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
14
Khác với thuật ngữ “logistics”, thuật ngữ “dịch vụ logistics” chưa được đề
cập nhiều đến trong các tài liệu trên thế giới. Ngược lại, ở Việt Nam, khái niệm
logistics lại không được bàn tới, Luật Thương mại 2005 (Điều 233) chỉ đưa ra
định nghĩa về dịch vụ logistics: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo
đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng,
vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư
vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác
có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.”
Luật thương mại 2005 coi dịch vụ logistics gần như tương tự với hoạt động
giao nhận hàng hóa, những người kinh doanh cung cấp một trong các dịch vụ
như nhận hàng, vận chuyển, làm thủ tục hải quan,… thì đều được coi là nhà cung
cấp dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics theo cách định nghĩa này có bản chất là
một hoạt động tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ
nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận
tải, người cung cấp dịch vụ logistics theo khái niệm này không có nhiều khác
biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (MTO).
Nếu cho rằng một doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh bất kỳ một trong
nhiều công việc trên thì đều được xem là đã kinh doanh dịch vụ logistics thì sẽ
dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp chỉ cần kinh doanh bất kỳ dịch vụ vận chuyển,
lưu kho, làm thủ tục hải quan… trên nguyên tắc cũng bị xem là họ kinh doanh
dịch vụ logistics và phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh mà pháp luật đặt ra
đối với việc kinh doanh dịch vụ logistics (mức vốn điều lệ 10 tỷ đồng đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics).
Dịch vụ logistics ở đây phải được hiểu là một dịch vụ liên hoàn của nhiều

dịch vụ, các dịch vụ này thuộc các giai đoạn từ tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, dịch vụ logistics gắn liền với cả giai


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
15
đoạn nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra
hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối.
Qua việc phân biệt dịch vụ logistics với các dịch vụ giao nhận, vận tải,
v.v… ta cũng phân định được rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ
như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản
xuất, tư vấn quản lý… với một nhà cung cấp dịch vụ logisitcs chuyên nghiệp,
người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa
tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.2 Các loại hình dịch vụ logistics chủ yếu
Theo Hiệp định thương mại chung về lĩnh vực dịch vụ (GATS – The
General Agreement on Trade in Services) của tổ chức thương mại thế giới WTO
thì dịch vụ logistics được chia thành 3 nhóm như sau:
 Các dịch vụ logistics chủ yếu (Core freight logistics services)
Dịch vụ logistics chủ yếu chiếm phần lớn trong tổng chi phí logistics và
mang tính quyết định đối với các dịch vụ khác. Dịch vụ logistics chủ yếu bao
gồm:
- Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
- Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh
kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
- Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan
và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá.
- Dịch vụ hỗ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả

chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng
hoá tồn kho, hàng hoá quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt
động cho thuê và thuê mua container.


Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
16
 Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải (related freight logistics services)
Dịch vụ logistics liên quan đến vận tải bao gồm:
- Dịch vụ vận tải hàng hải;
- Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
- Dịch vụ vận tải hàng không
- Dịch vụ vận tải đường sắt;
- Dịch vụ vận tải đường bộ;
- Dịch vụ vận tải đường ống;
 Các dịch vụ thứ yếu hoặc mang tính bổ trợ (Non-core freight logistics services)
- Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật
- Dịch vụ bưu chính;
- Dịch vụ thương mại bán buôn;
- Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho,
thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng;
- Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác
Các nhà làm luật Việt Nam cũng tham khảo Hiệp định này để xây dựng điều
khoản về phân loại dịch vụ logistics trong Nghị định 140/2007/NĐ-CP.

2. Nhà cung cấp dịch vụ logistics
2.1 Khái niệm nhà cung cấp dịch vụ logistics
Hiện nay trên thế giới có nhiều khái niệm về nhà cung cấp dịch vụ logistics
nhưng tựu chung đều coi nhà cung cấp dịch vụ logistics (Logistics Service

Provider - LSP) là các công ty độc lập tự thiết kế, thực hiện và quản lý những
nhu cầu logistics trong chuỗi cung cấp của khách hàng.
Qua phân tích ở trên, người viết đã phân biệt giữa dịch vụ logistics với các
dịch vụ giao nhận, vận tải… qua đó ta cũng nhận thấy rằng các công ty logistics

×