Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Quảng Ninh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.71 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
==============

NGUYỄN THỊ NHÂM

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2004


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân cư phần lớn là nông dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi nông
nghiệp là một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu đảm bảo nhu cầu
lương thực thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tạo nguồn
hàng xuất khẩu lớn và là thị trường tiêu thụ lớn nhất cho hàng cơng nghiệp.
Có phát triển mạnh nơng nghiệp mới đẩy mạnh được cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nền kinh tế quốc dân.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13/11/1981) và Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị (5/4/1988) là hai mốc lớn, góp phần quan trọng tạo ra bước ngoặt
phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, các văn kiện đó đã coi trọng tính
tự chủ của hộ nông dân. Kinh tế hộ phát triển đã từng bước phá vỡ phương
thức sản xuất tự cung tự cấp thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề ra đời
kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại là một trong những hình thức để phát triển sản xuất
hàng hố trong nơng nghiệp mang lại lợi ích nhiều mặt về kinh tế - xã hội,


thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp và nơng thơn, nhưng mới
hình thành và đang ở giai đoạn đầu phát triển trong nền kinh tế thị trường sơ
khai ở nước ta… Nhận thức rõ hướng phát triển, và các giải pháp đồng bộ để
phát triển kinh tế trang trại đang là vấn đề thời sự.
Quảng Ninh là tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo thuộc vùng Đơng Bắc
Việt Nam, giàu tiềm năng, có thế mạnh để phát triển kinh tế nông - lâm - ngư
nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng.
Những năm qua kinh tế - xã hội Quảng Ninh, đặc biệt là kinh tế nơng lâm - ngư nghiệp có bước phát triển mạnh. Sự đổi mới không ngừng của hệ
2


thống cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, đã giải phóng mạnh mẽ sức
sản xuất ở nơng thơn, tạo ra động lực mới thúc đẩy và khơi dậy sức lực, trí
tuệ, ý chí làm giàu của hàng vạn hộ nông dân, họ đã hăng hái nhận đất, nhận
rừng, ao hồ, bãi biển, tự đầu tư lao động, tiền vốn, áp dụng những tiến bộ kỹ
thuật mới cho thâm canh cây trồng, vật nuôi làm thay đổi một bước quan
trọng kinh tế hộ, tạo ra sự chuyển biến sâu sắc cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Kinh tế trang trại ở Quảng Ninh mới được hình thành từ năm 1995. Đó
là hình thức tổ chức sản xuất hàng hố trong nơng nghiệp, nơng thơn chủ yếu
dựa vào hộ gia đình, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông,
lâm, thuỷ sản. Kinh tế trang trại phát triển bước đầu đã khai thác và sử dụng
có hiệu quả một phần tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về khí hậu, đất đai, tài
nguyên, các nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm ổn định cho
hàng vạn lao động, góp phần xố đói, giảm nghèo và đổi mới bộ mặt nông
thôn của tỉnh. Tuy vậy, những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với
tiềm năng thế mạnh của tỉnh, còn nhiều vấn đề đặt ra địi hỏi phải tìm lời giải
đáp phù hợp.
Vì những lý do trên “Phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Ninh”

được chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ, nhằm góp phần tìm ra những ưu,
nhược điểm và đề ra giải pháp để thúc đẩy kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng
Ninh ngày càng phát triển nhanh hơn, có hiệu quả hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề kinh tế trang trại ở nước ta được đề cập và quan tâm từ sau đổi
mới, nhất là từ sau năm 1993. Từ đó đến nay có nhiều cơng trình của nhiều
tác giả đã được cơng bố, đề cập đến những khía cạnh khác nhau. Một số cơng

3


trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách, trong đó đáng quan tâm là các
tác phẩm sau:
- Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á của giáo sư tiến sỹ
Nguyễn Điền và chuyên viên cao cấp Trần Đức (Nhà xuất bản Thống kê Hà
Nội, 1993).
- Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới của Trần Đức (Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995).
- Kinh tế trang trại gia đình ở tỉnh miền núi n Bái của Trần Đức
(1996).
- Mơ hình kinh tế trang trại vùng đồi núi của Trần Đức (Nhà xuất bản
Nông nghiệp, HàNội, 1998).
- Phát triển và quản lý trang trại trong nền kinh tế thị trường của Lê
Trọng (Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,1993).
- Trang trại thành viên mơ hình lập thân lập nghiệp của thế hệ trẻ Yên
Bái (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993).
Trong hai năm 1998 - 1999 Ban Kinh tế Trung ương đã tổ chức ba cuộc
hội thảo về kinh tế trang trại của các khu vực và đã có báo cáo trình Bộ Chính
trị về vấn đề này.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và Trường Đại học Kinh tế

thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có chương trình nghiên cứu kinh tế trang
trại…
Riêng về kinh tế trang trại ở Quảng Ninh thì chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu.

4


Vận dụng lý luận về kinh tế trang trại vào đánh giá thực trạng kinh tế
trang trại ở Quảng Ninh, từ đó đề xuất các định hướng và các giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển có hiệu quả kinh tế trang trại ở vùng này.
* Nhiệm vụ của đề tài.
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
+ Trình bày tóm lược những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế trang
trại .
+ Đánh giá thực trạng và xu thế phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh
Quảng Ninh.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh
Quảng Ninh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận:
- Những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về
vấn đề phát triển kinh tế trang trại .
- Những cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước.
* Phương pháp nghiên cứu.
Vân dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung đặc biệt
coi trọng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; xử lý số liệu thống kê;

phân tích và tổng hợp.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các trang trại ở tỉnh Quảng Ninh từ năm
1998 đến năm 2003.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

5


- Luận văn là tư liệu đầu tiên phân tích quá trình hình thành và phát
triển kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Ninh. Từ đó xác định xu hướng phát triển
có cơ sở khoa học vững chắc hơn.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản
lý trong việc xác định phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại
của tỉnh Quảng Ninh trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn...
7. Kết cấu của luận văn.
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương với 8 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Ninh.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1. Bản chất và những đặc trƣng cơ bản của kinh tế trang trại.
1.1.1. Khái niệm, bản chất kinh tế trang trại.

Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cuối thế kỷ thứ XIX, ở
châu Âu đã hình thành tổ chức sản xuất nơng nghiệp dựa trên cơ sở kinh tế hộ
gia đình nơng dân gọi tắt là trang trại gia đình cổ điển. Mỗi trang trại gia đình
thực hiện canh tác trên một diện tích nhất định, chủ trang trại là chủ sở hữu tất
cả các tư liệu sản xuất bao gồm đất đai và công cụ sản xuất. Chủ trang trại
đồng thời là chủ gia đình, chịu trách nhiệm chính trong việc điều hành mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tùy theo nhu cầu sản xuất cụ thể, chủ trang
trại có thể thuê thêm lao động thời vụ hoặc lao động thường xuyên.
Thực tiễn hơn 100 năm qua cho thấy, dưới sức ép của nền kinh tế thị
trường cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, các trang trại gia đình
ngày càng phát triển ở trên khắp các nước và các khu vực trên thế giới như ở
Mỹ, Anh, Pháp, Italia, và đã chứng minh rõ tính hiệu quả và sức sống của
kinh tế hộ nông dân trong các trang trại gia đình.
Trong lịch sử phát triển nơng nghiệp của nước Anh, từ đầu thế kỉ XVII
đã có chủ trương tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nơng nghiệp tư
bản qui mô lớn, làm phá sản các trang trại gia đình, nhưng thực tế các xí
nghiệp tư bản qui mơ lớn, hiệu quả thấp hơn hẳn các trang trại sản xuất ở qui
mơ gia đình.
7


Trên thực tế, trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở kinh tế hộ tiểu
nông, sau khi phá vỡ các vỏ bọc sản xuất tự cấp, tự túc khép kín, vươn lên sản
xuất hàng hố tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với những thay
đổi biến động thường xuyên của giá cả và thị trường, thích nghi với nền kinh
tế cạnh tranh.
Vậy, “kinh tế trang trại” là gì? Khi bàn về “kinh tế trang trại” có nhiều

quan niệm khác nhau.
Theo báo cáo dự thảo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
tháng 5/1999 bước đầu thống nhất về khái niệm kinh tế trang trại với những
nội dung cơ bản sau:
- “Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nơng - lâm ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính
sản xuất hàng hố rõ rệt. Sản xuất hàng hố là tiêu chí quan trọng nhất để
phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế hộ.
- Kinh tế trang trại có sự tập trung cao hơn so với mức bình quân chung
của kinh tế hộ gia đình nơng dân ở từng vùng về các điều kiện sản xuất (đất
đai, vốn, lao động) đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá lớn hơn và lợi
nhuận thu được nhiều hơn.
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình tổ chức, trong đó chủ yếu là trang
trại gia đình. Hầu hết chủ trang trại là những người có ý chí làm giàu, có vốn,
trình độ kỹ thuật và khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường,
bản thân và gia đình trực tiếp lao động và quản lý sản xuất của trang trại,
đồng thời có thuê mướn thêm lao động khi cần thiết.
- Kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hố, gắn liền với thị
trường nên có nhu cầu cao hơn hẳn kinh tế hộ về sự tác động của khoa học –
công nghệ vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, về công nghệ chế biến và

8


bảo quản, về công cụ cải tiến và cơ giới hóa nhằm tăng năng suất, hạ giá
thành sản xuất và từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu
của thị trường” [11].
- Trong kỷ yếu khoa học kinh tế quốc dân về kinh tế trang trại, các nhà
khoa học đã đưa ra khái niệm như sau: “Trang trại là một hình thức tổ chức
sản xuất trong nơng - lâm - ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng
hóa. Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người

chủ độc lập. Sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản
xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ
kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường” [43, tr.8].
Ban kinh tế tỉnh uỷ Bắc Giang quan niệm: “Trang trại là một loại hình
cơ sở sản xuất nơng nghiệp của các hộ gia đình nơng dân hình thành và phát
triển trong điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện cơng nghiệp hố - hiện đại
hố” [5].
Nhóm nghiên cứu kinh tế trang trại của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Cần phải làm rõ những đặc trưng cơ bản của loại
hình kinh tế trang trại, về nguồn gốc hình thành, lĩnh vực hoạt động, đặc điểm
về quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ về sở hữu, trình độ kinh doanh... so với
các loại hình kinh tế khác đang tồn tại trong sản xuất nông nghiệp và trong
kinh tế quốc dân”. Trên cơ sở đó đưa ra khái niệm: “Trang trại nơng nghiệp,
nơng thơn là loại hình tổ chức kinh tế được hình thành chủ yếu từ kinh tế hộ
trên cơ sở tích tụ quyền sử dụng đất đai, vốn, lao động vào chủ thể kinh doanh
đích thực, hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích thu được lợi nhuận
cao”.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế trang trại. Mỗi khái
niệm ít nhiều có những điểm tương đồng và có tính hợp lý, vẫn cịn có những
điểm chưa thật phù hợp với thực trạng của trang trại hiện nay. Do đó, từ
9


những quan niệm về trang trại đã nêu ra ở trên có thể khái quát và đưa ra một
khái niệm chung về trang trại như sau: “Kinh tế trang trại là một hình thức sản
xuất cơ sở trong nơng - lâm - ngư nghiệp, ra đời chủ yếu từ kinh tế hộ, được
hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, sản xuất được tiến hành
trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn, nhằm mở
rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất phù hợp với cây trồng vật nuôi, với cách
thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ khoa học - cơng nghệ cao hơn trình

độ khoa học công nghệ của kinh tế hộ hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị
trường”.
1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của trang trại, tiêu chí nhận dạng trang trại và
các loại hình trang trại.
1.1.2.1 Những đặc trưng cơ bản của trang trại

Xuất phát từ khái niệm trang trại như đã trình bày ở trên, kinh tế trang
trại mang những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Lĩnh vực và địa bàn hoạt động của kinh tế trang trại gồm
nông - lâm - ngư nghiệp; nguồn gốc hình thành từ kinh tế hộ cho nên loại hình
phổ biến là trang trại gia đình. Xét về mặt quan hệ sản xuất thì trang trại gia
đình thuộc thành phần kinh tế cá thể nhưng có trình độ phát triển cao hơn,
thực chất là kinh tế tiểu chủ. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất
mới trong nông nghiệp nên các thành phần kinh tế đều có thể tham gia phát
triển kinh tế trang trại.
Thứ hai: Sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là sở hữu tư nhân (trừ đất đai
thuộc sở hữu nhà nước). Hay nói cách khác tư liệu sản xuất trong trang trại
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Thứ ba: Về qui mô đạt tới sự tập trung đủ lớn về đất đai, vốn, lao động
trong đó qui mơ tích tụ vốn là quan trọng nhất, tuy nhiên không thể xem nhẹ

10


đất đai và lao động. Qui mô vốn, đất đai, lao động phải phù hợp với từng loại
hình tổ chức sản xuất kinh doanh và từng loại cây trồng, vật ni với mục
đích chủ yếu là sản xuất hàng hố theo nhu cầu của thị trường. Đây là một
điểm quan trọng trong đặc trưng của kinh tế trang trại; bởi vì mục đích sản
xuất hàng hố chi phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định các đặc
trưng khác của kinh tế trang trại. Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập

trung trước kinh tế thị trường mặc dù sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm
lớn hơn so với hình thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của chủ sản xuất. Còn kinh tế trang
trại thì ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hóa và càng ngày mang tính chất
và trình độ sản xuất hàng hóa càng cao.
Thứ tư: Kinh tế trang trại có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất tiến
bộ dựa trên cơ sở chun mơn hố, thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thực hiện hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý, thường xuyên tiếp
cận thị trường với mục tiêu thu lợi nhuận cao.
Thứ năm: Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý,
có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động gia đình
là chủ yếu, khi cần thiết đều có th mướn lao động, nhất là lao động theo
thời vụ.
Trên đây là năm đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại, tuy nhiên trong
mỗi giai đoạn cụ thể, điều kiện cụ thể, cũng như đặc điểm, trình độ phát triển
của từng loại hình trang trại mà những đặc trưng này có thể biểu hiện ở những
mức độ khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế trang trại ở nước ta có nhiều trình độ
phát triển khác nhau, một số trang trại có trình độ sản xuất và trang bị kỹ thuật
cao, nhưng phần nhiều trang trại cịn có trình độ và trang bị kỹ thuật thấp.
Hiện nay trang trại gia đình đã trở thành một loại hình trang trại chủ yếu trong
11


nơng nghiệp ở nước ta nói chung cũng như ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Kinh
tế trang trại có ưu thế và đặc trưng hơn hẳn kinh tế hộ nông dân sản xuất tự
cung tự cấp. Do đó, nhà nước và các địa phương cần có chính sách thích hợp
để khuyến khích loại hình kinh tế này phát triển cao, góp phần thúc đẩy kinh
tế hàng hố nhiều thành phần ở nước ta.

12



1.1.2.2. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại.

Muốn thống kê được chính xác số lượng trang trại của cả nước và của
từng địa phương cần phải có những tiêu chí làm căn cứ khoa học để nhận
dạng trang trại.
Tiêu chí nhận dạng trang trại phải hàm chứa được những đặc trưng cơ
bản nhất của trang trại nhưng phải đơn giản và dễ vận dụng khi nhận dạng,
gồm cả hai mặt định tính và định lượng. Trên thực tế, mặt định tính và định
lượng có mối quan hệ hữu cơ qui định lẫn nhau và phải trên cơ sở định lượng
đủ lớn mới đạt tới tiêu chí định tính. Do vậy cần phải kết hợp cả hai mặt để
nhận dạng kinh tế trang trại.
Về định tính: đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế trang trại là mức độ tập
trung ruộng đất và lao động để sản xuất ra nông sản hàng hóa với khối lượng
nhiều, tỷ suất hàng hóa cao. Về vấn đề này đã được Nghị quyết 06/NQ-TƯ
ngày 10/11/1998 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Trang
trại thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hố qui mơ lớn hơn so với hộ gia
đình, sử dung tiền vốn và lao động của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh
doanh có hiệu quả” [10].
Song về lâu dài khi kinh tế nông nghiệp đã thực sự chuyển sang sản
xuất hàng hóa, kinh tế nơng thơn thực sự đa dạng thì những tiêu chí như: tổng
giá trị thu nhập, tỷ suất hàng hóa sẽ là những chỉ tiêu quan trọng nhất để phân
biệt trang trại với hộ nông dân thông thường.
Về định lượng: các chỉ tiêu phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể, của
từng vùng, từng quốc gia cho phù hợp. Ví dụ, ở nước Mỹ trước đây qui định
trang trại là những cơ sở kinh doanh nông nghiệp nhỏ, mức thu nhập hàng
năm trên 250$, ngày nay qui định phải có thu nhập 1.000$ trở lên. Ở nước ta
hiện nay các trang trại phần lớn có qui mơ ruộng đất ở mức hạn điền, sử dụng


13


dưới 10 lao động th mướn thường xun thì có thể xem đó là trang trại gia
đình. Tuy nhiên, từng vùng khác nhau thì có thể việc định lượng các chỉ tiêu
cũng khác nhau. Chẳng hạn ở tỉnh Yên Bái quan niệm rằng: trang trại phải có
diện tích đủ lớn phù hợp mục tiêu kinh doanh; có tỷ suất hàng hóa cao và thu
nhiều lợi nhuận, vừa có lao động gia đình vừa có lao động th. Tỉnh Lâm
Đồng qui định trang trại phải có thu nhập một năm từ 30 triệu đồng trở lên và
qui mơ diện tích từ 2ha trở lên. Tỉnh Bình Thuận qui định trang trại phải có
diện tích từ 7ha đến 10ha trở lên và có tỷ suất hàng hố lớn; tỉnh Bình Dương
qui định trang trại trồng trọt có diện tích từ 3ha trở lên, chăn ni bị từ 30
con trở lên.v.v.
Vì vậy, việc thống kê đánh giá phân loại kinh tế trang trại trong phạm
vi cả nước cũng như từng địa phương chưa thống nhất, dẫn đến số lượng
trang trại của cả nước và địa phương khơng khớp nhau. Từ đó có thể rút ra bài
học là nên vận dụng linh hoạt khi nhận dạng tiêu chí trang trại. Chẳng hạn,
đối với các cơ sở sản xuất đã định hình và đi vào hoạt động có sản lượng hàng
hóa ổn định thì lấy chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá là chủ yếu, cịn những
cơ sở cịn đang ở thời kì xây dựng chưa có sản phẩm hàng hố ổn định thì cần
phải dựa vào các chỉ tiêu như: qui mô đất đai, số đầu gia súc, vốn đầu tư...
Ngoài ra các chỉ tiêu phải được qui ước theo hướng sản xuất, kinh doanh cụ
thể đối với từng loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề. Chẳng hạn đối với trang
trại trồng cây cảnh và trang trại ở khu vực đồng bằng thì diện tích đất đai
thường ít hơn nhiều so với trang trại vùng trung du miền núi. Nhưng vốn đầu
tư lại có thể lớn hơn so với trang trại trồng rừng. Mặt khác, việc định lượng
trang trại phải được xem xét và qui ước ở một thời điểm nhất định mang tính
thống nhất từ trung ương đến các địa phương theo từng vùng cụ thể.
Theo qui định tại Thông tư liên tịch số 69/2000 TTLT/BNN-TCTK
ngày 22/6/2000 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục


14


Thống kê thì: “Một hộ sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản
được xác định là kinh tế trang trại phải đạt được cả hai chỉ tiêu định lượng
sau:
Một là: Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình qn một năm (đối
với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung) từ 40 triệu đồng trở lên; đối
với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
Hai là: Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế. Ví dụ như về qui mơ
sản xuất, đối với trang trại trồng cây hàng năm phải có qui mô sản xuất “ từ 2
ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 3ha trở lên
đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên”. Đối với trang trại trồng cây lâu
năm thì phải đạt “từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền
Trung; từ 5ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên”.
“Riêng trang trại lâm nghiệp là 10ha trở lên đối với tất cả các vùng.
Trang trại chăn ni thì xác định tiêu chí theo qui mơ đàn gia súc, trang trại
ni bị sinh sản và lấy sữa từ 10 con trở lên, lấy thịt 50 con, ni lợn sinh sản
ít nhất từ 20 con, lấy thịt 100 con, gia cầm 2000 con trở lên; với trang trại
ni trồng thuỷ sản có từ 2ha trở lên, riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu
công nghiệp thì từ 1ha trở lên”.
Như vậy tiêu chí định lượng cho trang trại không thành “công thức” mà
ở mỗi địa phương căn cứ vào nội dung thông tư liên bộ nói trên để xem xét,
xác định chính xác số lượng trang trại ở khu vực mình.
1.1.2.3. Các loại hình kinh tế trang trại.

Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
nói chung cũng như ở nước ta nói riêng về hình thức tổ chức quản lý, về nội


15


dung cơ cấu và qui mô sản xuất kinh doanh của trang trại thay đổi tuỳ thuộc
vào đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng nước, từng vùng.
* Phân loại theo hình thức quản lý:
- Trang trại gia đình là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh của
từng gia đình, có tư cách pháp nhân riêng, do người chủ hộ hay một người có
năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, cịn các thành viên khác
trong gia đình tham gia sản xuất. Trang trại có hình thức tổ chức quản lý theo
gia đình là loại hình phổ biến nhất trong các trang trại ở tất cả các nước. “Ở
Mỹ hiện nay trang trại gia đình chiếm 87% tổng số trang trại, 65% đất đai và
gần 70% giá trị nông sản của cả nước” [19, tr.10].
-Trang trại liên doanh: là kiểu tổ chức trang trại, do trang trại của 2-3
gia đình tự nguyện hợp nhất liên doanh thành một trang trại lớn hơn để tăng
thêm năng lực về vốn, về tư liệu sản xuất, để được hưởng ưu đãi của nhà nước
đối với các trang trại lớn. Có trường hợp chủ trang trại có đất đai nhưng thiếu
vốn, đã liên doanh với người có vốn ở thành thị để cùng chung sản xuất kinh
doanh. Đối tượng liên doanh thường là anh em, bà con thân thuộc hay bạn bè
thân thiết. “Ở các nước Âu, Mỹ trang trại liên doanh chiếm một tỷ lệ thấp,
như hiện nay ở Mỹ chỉ chiếm 10% tổng số trang trại và 16% đất đai và dừng
ở mức đó” [19, tr.10].
- Ở các nước Châu Á loại hình trang trại liên doanh này hầu như cịn ít,
ở nước ta chỉ chiếm 4-5% tổng số trang trại.
* Phân loại trang trại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất:
Chủ trang trại có sở hữu tồn bộ tư liệu sản xuất. Loại trang trại này có
tỷ lệ khác nhau ở mỗi nước. “Riêng về sở hữu ruộng đất nhiều nước 70 - 80%
số chủ trang trại có ruộng đất riêng, nhưng có những nước như Thuỵ Điển chỉ
có 30% chủ trang trại có ruộng đất riêng” [19, tr.11].


16


Có những chủ trang trại có sở hữu một phần tư liệu sản xuất như đất đai
còn một phần đi th ngo như chuồng trại, kho tàng, máy móc để sản xuất.
Bên cạnh đó có những chủ trang trại hồn tồn khơng có tư liệu sản xuất mà
đi th hồn toàn tư liệu sản xuất như đất đai, mặt nước, kho tàng, máy móc,
chuồng trại, rừng cây. Nhưng đối với loại hình này ở nước ta khơng nhiều,
phần lớn tập trung ở ngành hải sản, phải thuê hoặc thầu diện tích mặt nước để
sản xuất kinh doanh.
* Phân loại theo phương thức sản xuất điều hành:
Có chủ trang trại và gia đình ở trực tiếp ngay tại trang trại ở vùng nông
thôn và trực tiếp điều hành cũng như trực tiếp lao động sản xuất. Trang trại có
thể ở liền với nhà ở và ở ngay phạm vi thôn xã. Đây là loại hình phổ biến nhất
ở các nước. Chủ trang trại phần lớn là nơng dân, gắn bó với đồng ruộng, xóm
làng.
Có chủ trang trại và gia đình ở thị trấn, thành phố nhưng vẫn trực tiếp
điều hành trang trại và nhiều khi vẫn trực tiếp lao động sản xuất thường xuyên
hoặc định kì.
Loại hình này hiện nay chưa nhiều nhưng có chiều hướng tăng lên ở
một số nước cơng nhiệp phát triển.
Chủ trang trại có ít ruộng đất, uỷ thác cho chủ khai thác là anh em, bạn
bè có thể sản xuất từng vụ hay liên tục nhiều vụ. Đối với những chủ trang trại
này có ít ruộng đất (ruộng tư và ruộng đi thuê) do làm nông nghiệp khơng đủ
ăn, nên nhiều nơng dân có ít ruộng đất đã đi làm th trong các xí nghiệp
cơng nghiệp và dịch vụ có thu nhập cao hơn. Song, do tâm lý không muốn từ
bỏ ruộng đất cho nên họ đã uỷ thác cho anh em, bạn bè quản lý sản xuất từng
khâu cày cấy, chăm sóc, thu hoạch hay tất cả các khâu sản xuất trên ruộng đất
của mình được nhà nước công nhận và bảo vệ theo điều luật sản xuất uỷ thác

được Quốc hội thông qua.

17


Đây là biện pháp hữu hiệu để tập trung ruộng đất của các trang trại nhỏ,
phù hợp với tâm lý nông dân Á Đông.
* Phân loại theo cơ cấu sản xuất và cơ cấu thu nhập.
Theo cơ cấu sản xuất: ở các nước, trang trại có cơ cấu sản xuất, kinh
doanh tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, trình độ sản xuất và đặc điểm thị
trường của từng vùng:
Có những trang trại có cơ cấu sản xuất kinh doanh đa dạng sản phẩm,
trong đó có sản phẩm chủ yếu do kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, kết hợp
nông nghiệp và lâm nghiệp; kết hợp nông nghiệp với các ngành nghề ở nơng
thơn.
Có trang trại có cơ cấu sản xuất chun mơn hóa như các trang trại ni
tơm, cá, gà, lợn, bò thịt, bò sữa, chuyên trồng rau, hoa, cây ăn quả.
Có những trang trại chỉ sản xuất nơng sản làm ngun liệu cho cơng
nghiệp chế biến, nhưng có những trang trại kết hợp sản xuất với chế biến
nông sản.
Theo cơ cấu thu nhập, trước đây thu nhập của các trang trại gia đình
thuần nơng ở các nước hồn tồn là từ sản xuất nông nghiệp, bây giờ bao gồm
thu nhập từ nơng nghiệp trong trang trại và ngồi nơng nghiệp, ngoài trang
trại và chia thành hai loại:
Một là: Trang trại thuần nông thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông
nghiệp. Số trang trại thuần nông này, ở các nước nông nghiệp phát triển đang
giảm đi. “Ở Nhật Bản năm 1950 số trang trại thuần nông là 50% tổng số trang
trại, đến năm 1985 giảm xuống còn 15% tổng số trang trại; ở Đài Loan năm
1960 có 49,3% số trang trại thuần nơng, đến năm 1980 chỉ cịn 9% trang trại
chuyên làm nông nghiệp” [19, tr.15].


18


Hai là: Trang trại thu nhập chủ yếu ngồi nơng nghiệp; ngoài trang trại.
Loại trang trại này ở các nước ngày càng tăng và có những nước tỷ lệ số trang
trại kiêm nghiệp này cao hơn số trang trại thuần nơng. “Ở Nhật Bản năm
1985 có 85% số trang trại thu nhập ngồi nơng nghiệp trong có đó 66% số
trang trại có thu nhập ngồi nơng nghiệp lớn hơn thu nhập từ nơng nghiệp. Ở
Đài Loan 91% trang trại có thu nhập ngồi nơng nghiệp” [19, tr.15].
Đối với các trang trại có nguồn thu nhập chính từ nơng nghiệp thường
là các cơ sở sản xuất nông nghiệp qui mô vừa và lớn có mức thu nhập từ nơng
nghiệp đủ trang trải các nhu cầu sinh hoạt và tái sản xuất. Các trang trại có
nguồn thu nhập từ nơng nghiệp và ngồi nơng nghiệp thường là các trang trại
có qui mơ nhỏ, cho nên thu nhập từ nơng nghiệp ít khơng đủ cho nhu cầu, vì
vậy phải đi làm thêm ở nơng thơn, ngồi trang trại hay làm các ngành nghề
dịch vụ ở nông thôn, thành phố để tăng thu nhập.
Việc phân chia các loại hình trang trại trên đây chỉ có tính chất tương
đối. Nó tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng nước, từng vùng.
Thông qua việc phân chia các loại hình trang trại để thấy được đặc điểm nổi
bật của từng loại hình. Trên cơ sở đó mà khai thác phát huy những mặt mạnh
và hạn chế những mặt yếu của từng loại hình trang trại, góp phần thúc đẩy
kinh tế trang trại ở nước ta ngày càng phát triển.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của kinh tế trang trại ở
nƣớc ta hiện nay.
1.2.1 Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.

Chỉ thị 100 của Ban Bí thư ngày 13/11/1981 về cải tiến cơng tác khốn
sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp, bước đầu thừa nhận và tạo điều kiện phát huy tính tự chủ của hộ gia

đình. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về “Đổi mới quản lý kinh tế nông

19


nghiệp” ban hành ngày 05/4/1988 đã tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền tự chủ
của hộ nông dân về một số tư liệu sản xuất trong nơng nghiệp và khốn ổn
định đất đai, sản lượng lâu dài hơn (sản lượng khoán ổn định 5 năm, đất đai
khoán ổn định 15 năm). Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn” ban hành ngày 10/6/1993 đã thừa nhận hộ là một đơn vị kinh tế tự
chủ. Nghị quyết đã chủ trương “Thực hiện chính sách giao quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài cho hộ nơng dân, khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế tư
nhân; xây dựng các đơn vị kinh tế sản xuất nơng, lâm, ngư nghiệp với qui mơ
thích hợp”. Luật đất đai thừa nhận hộ có 5 quyền là: quyền sử dụng lâu dài,
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Tiếp đó với việc
triển khai Chương trình 327, các địa phương trong cả nước tiến hành giao đất
giao rừng, bảo vệ rừng, đồng thời trên mảnh đất được giao ấy người nông dân
phát triển trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, chế biến nơng, lâm
sản, làm cho sản xuất hàng hố trong hộ nông dân thêm phát triển. Các chủ
trương về sắp xếp, đổi mới quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong nông
nghịêp, đổi mới về tổ chức và quản lý các hợp tác xã nơng nghiệp, thực hiện
chính sách tín dụng đối với hộ nơng dân, thực hiện chính sách khuyến nơng,
đổi mới chính sách vĩ mơ... đều hướng về phát triển kinh tế hộ, nơng thơn.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VIII lại một lần nữa khẳng định các thành
phần kinh tế trong thời kì quá độ càng tạo điều kiện cho hộ nông dân yên tâm
sản xuất trên ruộng đất mà mình được giao khốn.
Khi đề cập đến định hướng và mục tiêu phát triển của các ngành, các
vùng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ ra đối với nông nghiệp, nông
thôn là: “Trong những năm tới vẫn coi cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nơng

nghiệp, nơng thơn là một trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối
với sự thành công của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước. Vì

20


vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn. Tiếp tục phát
triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng
việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, quy
hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cây trồng vật ni, tăng giá trị thu được
trên đơn vị diện tích; đẩy mạnh thuỷ lợi hố, cơ giới hóa, điện khí hóa giải
quyết tốt vấn đề tiêu thụ nơng sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ,
các ngành nghề đa dạng, chú trọng cơng nghiệp chế biến; cơ khí phục vụ
nơng nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nhân dân và dân cư ở nông
thôn” [18, tr.136].
Những chủ trương, đường lối đổi mới trên đây đã tác động rất mạnh mẽ
làm cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển nhanh trong gần 20 năm
qua. Nếu như tháng 01/2000 cả nước mới có khoảng 13.000 trang trại, khai
thác khoảng 30 vạn ha đất hoang hóa, đồi núi trọc góp thêm một nguồn lực
mới vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì đến cuối tháng
3/2003 cả nước đã có 52.554 trang trại [7, tr.7].
Như vậy, có thể nói kinh tế trang trại gia đình đã được hình thành và
phát triển mạnh mẽ trong gần 20 năm kể từ khi Đảng có chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế, được đánh dấu bằng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI. Trong quá trình đổi mới ấy những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước từng bước mở rộng quyền tự chủ của hộ nông dân đi đến thừa nhận

hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và tạo nhiều môi trường thuận lợi để
kinh tế hộ nơng dân phát triển. Q trình đổi mới ấy đã góp phần thúc đẩy sự
hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.

21


1.2.2. Vai trò kinh tế trang trại ở nước ta đối với phát triển nơng nghiệp hàng
hố.

Kinh tế trang trại trên thế giới đã tồn tại và phát triển hàng thế kỉ nay, ở
nước ta kinh tế trang trại mặc dù mới phát triển trong những năm đổi mới,
nhưng đã thể hiện rõ vai trị tích cực trong q trình phát triển nền nơng
nghiệp hàng hóa theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Nghị quyết
03/2003/ NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang trại đánh giá: “Sự phát triển
của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác nguồn vốn trong dân, mở mang
thêm nguồn đất canh tác bằng việc khai thác đất trống, đồi núi trọc, đất hoang
hóa, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển tạo thêm việc làm cho
lao động nông thôn, góp phần xố đói giảm nghèo tăng thêm nơng sản hàng
hóa. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch
vụ, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nơng dân trong vùng”.
Vai trị tích cực của kinh tế trang trại được thể hiện như sau:
1.2.2.1. Kinh tế trang trại phát triển thúc đẩy quá trình đổi mới cơng nghệ, trực
tiếp nâng cao năng suất lao động trong nơng nghiệp, đẩy nhanh q trình sản
xuất nơng sản hàng hóa.

Kinh tế trang trại là một hình thức phổ biến trong q trình phát triển
nơng nghiệp những năm đổi mới ở nước ta. Với các loại hình sản xuất và qui
mô sản xuất khác nhau kinh tế trang trại là một bước phát triển cao của kinh
tế hộ gắn với mục tiêu sản xuất hàng hóa.

Hiện nay trên thế giới kinh tế trang trại đang là lực lượng chủ yếu sản
xuất ra khối lượng lớn hàng hóa nông sản đáp ứng nhu cầu của con người.
Chẳng hạn: “Ở Mỹ với trên 2,2 triệu trang trại đã sản xuất ra hơn 50% sản
lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới, hàng năm xuất khẩu khoảng 40-50
triệu tấn lúa mì, 50 triệu tấn ngơ. Ở Malaysia năm 1992 trang trại sản xuất ra

22


6,4 triệu tấn dầu cọ, chiếm 53 % tổng sản lượng dầu cọ thế giới và xuất khẩu
ra 40 nước với khối lượng trên 6 triệu tấn” [ 19, tr.36 ].
Ở nước ta kinh tế trang trại trong thời gian qua đã sản xuất ra một khối
lượng hàng hóa nơng sản cao, chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường trong nước
và quốc tế. Các trang trại chuyên canh trồng cà phê, hồ tiêu, cao su, điều,
chè... cung cấp khối lượng lớn hàng hóa cho xuất khẩu. Riêng vùng trung du
Bắc Bộ nước ta là các loại hình trang trại trồng cây ăn quả như vải, nhãn... Ở
Bắc Giang đã cung cấp khối lượng lớn hoa quả cho thị trường trong nước.
“Chính vì vậy hàng năm mức thu nhập bình qn đầu người một trang trại khi
đã trừ chi phí là 2,5 triệu đồng. Nếu chỉ tính riêng cây vải thiều, kinh tế trang
trại ở Lục Ngạn năm 1998 đã thu 54 tỷ đồng, có những trang trại hàng năm
thu nhập hàng trăm triệu đồng” [30, tr.21-22]. Ngồi ra nhiều mơ hình trang
trại kinh doanh theo phương thức nơng - lâm kết hợp cũng tạo ra một khối
lượng sản phẩm lớn, vừa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp vừa cung cấp
hàng hóa nơng sản đáp ứng u cầu của thị trường. Những trang trại chăn
nuôi gia súc, gia cầm, chăn ni bị, ong, cá... bước đầu đã thu được hiệu quả
kinh tế cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn phong phú đa dạng cung cấp cho
thị trường.
Kết quả điều tra của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội 1999 cho
thấy thu nhập bình quân một lao động trang trại gấp 3,1 lần mức trung bình
của lao động hộ nông dân. Lao động của các trang trại miền Bắc do mới thành

lập đang thời kì xây dựng cơ bản nên thấp hơn mức trung bình của cả nước,
nhưng cũng cao hơn gấp 2 lần thu nhập của hộ nơng dân. Thu nhập bình qn
trên một đơn vị diện tích cùng loại của trang trại cao hơn hẳn so với hộ nơng
dân bình thường. Ngun nhân là chủ trang trại đã kết hợp hợp lý đất đai,
vốn, lao động để phát triển sản xuất theo hướng thâm canh và đa canh, gắn
sản xuất với thị trường làm tăng hiệu quả kinh tế.

23


Kinh tế trang trại trong quá trình phát triển đã và đang đi vào hiện đại
hóa q trình sản xuất. “Cơ cấu động lực của các trang trại ở các nước cơng
nghiệp phát triển năm 1985 có 7% sức người, 11% sức súc vật cịn 82% là
máy móc cơ điện” [19, tr.37]. Còn ở các nước đang phát triển như nước ta,
kinh tế trang trại cũng đã ứng dụng nhiều thành tựu của khoa học, công nghệ
vào sản xuất như: cơng nghệ sinh học, hóa học, cơ điện, tin học nhằm cơ giới
hóa và từng bước hiện đại hóa quá trình sản xuất của trang trại. Theo ước tính
của các nhà nghiên cứu kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay sử dụng khoảng
50% sức súc vật, 25 - 30% sức người và 20% sức máy móc. Chính vì vậy
năng suất lao động của các trang trại tăng nhanh, sản lượng nơng sản làm ra
ngày càng nhiều, ước tính một lao động của trang trại làm ra sản phẩm đủ
ni sống 4-5 người. Điều đó chứng tỏ rằng kinh tế trang trại đang phát huy
vai trị tích cực trong sản xuất nơng sản hàng hóa, ứng dụng khoa học, công
nghệ để tăng năng suất lao động.
1.2.2.2 Kinh tế trang trại đã khai thác được nguồn lực, tiềm năng của đất đai,
lao động, vốn trong dân cư... góp phần trực tiếp thúc đẩy kinh tế nông nghiệp,
nông thôn phát triển.

Yêu cầu đầu tiên của chủ trang trại là khai thác nguồn tài nguyên đất
đai để mở rộng qui mô sản xuất, đã sử dụng có hiệu quả vùng đất trống, đồi

núi trọc; vùng khô cằn sỏi đá, mặt nước, vùng đầm lầy, vùng nội đê ven sông,
ven biển... Mặt khác những vùng đất chua mặn để hoang hóa, vùng đất trồng
nhiều cây có giá trị kinh tế thấp nay được khai phá thay bằng những cây, con
có giá trị kinh tế cao. Qua khảo sát các tỉnh miền Bắc nước ta hầu hết các
trang trại đã tận dụng tối đa tài nguyên đất đai, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, nên việc phát triển kinh tế trang trại không những có tác dụng thúc đẩy
kinh tế nơng nghiệp phát triển mà cịn có ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ
môi trường sinh thái.

24


Nhờ sự phát triển kinh tế trang trại mà các nguồn vốn trong dân cư
được huy động để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư vào sản xuất, ứng dụng
khoa học, cơng nghệ để đưa giống cây, con có năng suất chất lượng cao vào
sản xuất. Ở Quảng Ninh đến hết năm 2001 tồn tỉnh có tổng số vốn đầu tư của
các trang trại là 116.401,7 triệu đồng (bình quân mỗi trang trại đầu tư
4,4triệu/ha). Trong đó, vốn tự có: 58.220 triệu, chiếm 50%; vốn vay chỉ có
3.606 triệu, chiếm 3,5%; còn lại nguồn khác là 54.575,6 triệu chiếm 46,5%
[39, tr.1-2].
Như vậy kinh tế trang trại đã khai thác có hiệu quả nguồn lực về vốn
trong nhân dân phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh.
Về nguồn lực lao động, sự phát triển của kinh tế trang trại đã tận dụng
được mọi nguồn lao động chính, phụ trong từng gia đình, ngồi ra với qui mơ
sản xuất tương đối lớn, các trang trại đã có nhu cầu thuê mướn lao động, tạo
việc làm cho số lao động dư thừa trong nông thôn. “11300 trang trại cả nước,
giải quyết việc làm cho 30 vạn lao động và 30 triệu ngày cơng lao động mỗi
năm” [33]. Riêng các tỉnh phía Bắc, các trang trại đã tạo được việc làm cho
khoảng 200 nghìn lao động dư thừa trong nơng thơn.
Ở Quảng Ninh theo thống kê đến tháng 6/2002 tồn tỉnh có 863 trang

trại với tổng số lao động 3.847 người, bình qn 4 lao động/trang trại, trong
đó: lao động gia đình (tự có) là 2.045 người, chiếm 53%; cịn lại th ngoài là
1.802 lao động, chiếm 47% [40].
Nhờ sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần tăng thu nhập cho
một bộ phận dân cư, thúc đẩy việc nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh
thần ở nông thôn, nhất là các khu vực trung du miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Khai thác tiềm năng lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
dân cư, kinh tế trang trại thực sự là động lực quan trọng cho việc thực hiện

25


×