Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề án xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 -2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.87 KB, 42 trang )

ĐỀ ÁN
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỈNH QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 2010 – 2020
PHẦN MỞ ĐẦU
CĂN CỨ LẬP ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
I. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước, nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng khá và liên tục; giai đoạn 2006 – 2010 tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân 12,7% /năm; quy mô kinh tế (GDP tính theo giá
so sánh) năm 2010 gấp 1,8 lần so với năm 2005; cơ cấu tổng sản phẩm trong
tỉnh đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ: Khu vực nông – lâm – thuỷ sản vẫn tăng
về số tuyệt đối, nhưng tỷ trọng trong GDP đã giảm dần; Khu vực công nghiệp –
xây dựng và dịch vụ đã tăng đáng kể. Năm 2010 cơ cấu GDP dự kiến: nông,
lâm, ngư nghiệp 5,6%; công nghiệp, xây dựng 54,7%; dịch vụ 39,7%. Lĩnh vực
phát triển nông thôn đã được tỉnh tập trung chỉ đạo và đạt được một số kết quả:
Kinh tế nông thôn có bước phát triển; kết cấu hạ tầng – kinh tế xã hội vùng nông
thôn, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học,
trạm y tế, chợ, các thiết chế văn hóa… được đầu tư; nhiều giống mới có năng
suất cao, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất; các cụm công nghiệp, làng nghề
phát triển, đã góp phần phát triển sản xuất, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo;
diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải
thiện.
Tuy nhiên, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn còn chậm; sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, phân tán; công nghiệp chế
biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề chưa phát triển nhanh; chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp so với yêu cầu; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực
nông thôn còn bất cập; môi trường nông thôn một số nơi còn nhiều bức xúc; đời
sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận nông dân còn thiếu thốn, khoảng cách
phát triển giữa thành thị và nông thôn còn lớn.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại nêu trên, việc lập Đề án “Xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”, làm cơ sở triển khai thực hiện thắng lợi


Nghị quyết số 26 – NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Khoá X; Chương trình hành động số 22 – CTr/TU của Tỉnh uỷ Quảng Ninh về
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Chương trình xây dựng nông thôn mới là hết sức cần thiết.
1. Các Nghị quyết, Quyết định và hướng dẫn của Trung ương
- Nghị quyết số 26 – NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung
ương Khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
1
- Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; Thông tư số 54/2009/TT-
BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và PTNT V/v Hưóng dẫn thực
hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới; Quyết định số
800/2010/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
- Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 –
2020;
- Các thông tư Hướng dẫn và tiêu chuẩn kinh tế – kỹ thuật về nông thôn
mới của các Bộ, Ngành liên quan.
2. Nghị quyết của Tỉnh uỷ và các Văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh
- Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 27/10/2010 của Ban chấp hành Đảng Bộ
tỉnh Quảng Ninh về xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020;
- Chương trình Hành động số 22 – Ctr/TU ngày 15/10/2008 của Tỉnh ủy thực
hiện Nghị Quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

- Các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh về xây dựng nông thôn mới: Văn bản
số 4011/UBND-QH2 ngày 19/10/2009 về việc quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
Văn bản số 762/UBND-VX2 ngày 03/3/2010 về triển khai thực hiện Đề án dạy
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Văn bản số 2065/UBND-NLN1 ngày
31/5/2010 về lập Đề án xây dựng nông thôn mới; Văn bản số 3323/UBND-NLN1
ngày 30/8/2010 về chuẩn bị nội dung báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng
nông thôn mới.
- Quyết định số 3972/QĐ-UBND ngày 07/12/2009 của UBND tỉnh phê
duyệt Đề án XD thí điểm kết cấu hạ tầng cấp xã theo mô hình nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2015 tại các huyện khó khăn: Ba Chẽ, Bình Liêu, Đầm Hà, Tiên Yên.
- Quyết định số 4009/QĐ-UBND ngày 08/12/2009 của UBND tỉnh “V/v
phê duyệt Quy hoạch nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi tỉnh Quảng Ninh đến năm 2015
và tầm nhìn đến năm 2020”; Quyết định 2770/QĐ-UBND ngày 16/9/2010 “V/v
phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể Thủy sản tỉnh Quảng Ninh đến năm
2010, xây dựng quy hoạch đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”.
II. PHẠM VI ĐỀ ÁN
Đề án được nghiên cứu tại 125 xã ở thuộc 13 huyện, thị xã, thành phố của
tỉnh Quảng Ninh (trừ thành phố Hạ Long, các phường và thị trấn); riêng 2 xã
Phương Nam, Phương Đông do chuẩn bị lên phường nên thị xã Uông Bí đề nghị
không tổng hợp vào Đề án xây dựng nông thôn mới. (Chi tiết xem Biểu 1A).
2
PHẦN THỨ NHẤT
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ NHÂN LỰC
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Quảng Ninh là một tỉnh miền núi, biên giới và hải đảo nằm ở phía Đông
Bắc của Tổ quốc, với diện tích tự nhiên 609.897,94 ha. Tỉnh có 14 đơn vị hành
chính, gồm 10 huyện, 2 thị xã và 2 thành phố; vị trí địa lý ở toạ độ từ 20
o
40' đến

21
o
40' vĩ độ Bắc và 106
o
26' đến 108
o
31' kinh độ Đông; Phía Bắc giáp Trung
Quốc, có đường biên giới dài 132,8 km; Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, có bờ biển
dài 250 km; Phía Nam giáp Hải Phòng và Hải Dương; Phía Tây giáp Bắc Giang
và Lạng Sơn.
2. Đặc điểm địa hình
Quảng Ninh là tỉnh có đặc điểm vừa là miền núi, trung du và ven biển.
Phía Bắc và Tây Bắc là vùng đồi thấp, tiếp đó là dãy núi cao thuộc cánh cung
Đông Triều, Móng Cái. Phía Nam cánh cung này là dãy núi thấp đồi cao tiếp
giáp với vùng phù sa ven biển và hàng ngàn hòn đảo, phần lớn là núi đá vôi chạy
suốt từ Đông Triều đến Móng Cái tạo thành một bức bình phong chắn gió cho
đất liền.
Nhìn chung địa hình địa thế của tỉnh đa dạng, phức tạp hạn chế lớn tới
việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, sản xuất nông lâm nghiệp với quy mô lớn,
nhưng lại là tiềm năng trong ngư nghiệp và đa dạng hoá cây trồng vật nuôi.
3. Về khí hậu
Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới - gió mùa. Mùa
hạ nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam. Mùa đông lạnh, khô
hanh, ít mưa, gió là gió đông bắc.
II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. Tài nguyên đất đai
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 609.897,94 ha, trong đó:
- Đất nông nghiệp: 404.917,36 ha, gồm: Diện tích đất sản xuất nông
nghiệp là 53.348,68 ha; Diện tích đất lâm nghiệp 331.445,82 ha; Đất nuôi trồng

thủy sản: 20.001,08 ha; Đất làm muối: 3,8 ha; Đất nông nghiệp khác: 117,98 ha.
- Đất phi nông nghiệp: 80.262,31 ha.
- Đất chưa sử dụng: 124.718,27 ha.
- Đất có mặt nước ven biển: 69.252,18 ha.
2. Tài nguyên rừng
Toàn tỉnh có 331.445,82 ha đất lâm nghiệp, chiếm 54,3% diện tích đất đai
toàn tỉnh, trong đó: đất rừng sản xuất 201.684,81 ha, đất rừng phòng hộ
107.689,77 ha, đất rừng đặc dụng 22.071,24 ha. Rừng chịu ảnh hưởng của khí
3
hậu biển có nhiều hơi nước, mưa nhiều; rất thuận lợi cho việc sinh trưởng của
cây cối.
Đồi và rừng Quảng Ninh có tiềm năng trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và
nhiều loài cây công nghiệp.
3. Tài nguyên nước
Về nước mặt: Lượng nước các sông khá phong phú, ước tính 8.776 tỷ m
3
phát sinh trên toàn lưu vực. Dòng chảy lên tới 118 l/s/km
2
ở những nơi có mưa
lớn. Cũng như lượng mưa trong năm, dòng chảy của sông ngòi cũng chia làm 2
mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 có lượng nước chiếm 75 - 80% tổng
lượng nước trong năm, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 có lượng nước chiếm
20 - 25% tổng lượng nước trong năm.
Về nước ngầm: Theo kết quả thăm dò, trữ lượng nước ngầm tại vùng
Cẩm Phả là 6.107 m
3
/ngày, vùng Hạ Long là 21.290 m
3
/ngày.
Nếu cộng tất cả, toàn tỉnh có từ 2.500 đến 3.000 ha mặt nước ao, hồ, đầm

có điều kiện nuôi trồng thuỷ sản. Tỉnh đã xây dựng 53 hồ đập chứa nước vừa và
lớn với tổng dung tích 300 triệu m
3
, phục vụ những mục đích kinh tế - xã hội của
tỉnh như hồ Yên Lập (dung tích 127 triệu m
3
), hồ Chúc Bài Sơn (15 triệu m
3
), hồ
Quất Đông (10 triệu m
3
).
4. Tài nguyên biển
Với bờ biển dài 250 km, Quảng Ninh có nhiều ngư trường khai thác hải
sản. Hầu hết các bãi cá chính có sản lượng cao, ổn định, đều phân bố gần bờ và
quanh các đảo, rất thuận tiện cho việc khai thác. Ngoài ra, còn có trên 40.000 ha
bãi triều, 20.000 ha eo vịnh và hàng vạn ha các vũng nông ven bờ, là môi trường
thuận lợi để phát triển nuôi và chế biến hải sản xuất khẩu.
Ven biển có nhiều khu vực nước sâu, kín gió là lợi thế đặc biệt quan trọng
thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản, xây dựng và phát triển kinh tế thủy sản.
III. DÂN SỐ, LAO ĐỘNG
Quảng Ninh có 14 huyện, thị xã, thành phố với tổng số 186 xã, phường,
thị trấn. Trên địa bàn tỉnh có 22 dân tộc đang sinh sống. Theo kết quả điều tra sơ
bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số toàn tỉnh có
1.144.381 người, trong đó: Tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 575.939
người (chiếm tỷ lệ 50,3%); Dân số ở khu vực nông thôn là 568.442 người. Tỷ lệ
tăng dân số bình quân từ năm 1999 đến 2009 là 1,3%.
Giai đoạn 2006 – 2010 toàn tỉnh đã đào tạo 12.680 lao động nông thôn; Tỷ lệ
lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2010 khoảng 48%, trong đó tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề khoảng 38%, cao hơn mức bình quân của cả nước.

Tóm lại: Quảng Ninh là một tỉnh miền núi, trung du, ven biển và hải đảo,
có tiềm năng tự nhiên, kinh tế xã hội để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng
và xây dựng nông thôn mới, góp phần quan trọng trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
4
PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TỈNH QUẢNG NINH

I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản tăng bình quân 5,4%/năm. Cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ: Khu vực nông – lâm – thuỷ sản giảm dần nhưng vẫn
tăng về số tuyệt đối, khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ đã tăng đáng
kể; đến năm 2010: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng 5,6%; công nghiệp –
xây dựng 54,7%; dịch vụ 39,7%. Sản xuất nông nghiệp vượt qua nhiều khó khăn
về thiên tai, dịch bệnh, giữ vững ổn định và có bước phát triển mới, giá trị sản
xuất (giá cố định) tăng bình quân 6,3 %/năm, tổng giá trị sản xuất nông – lâm –
thủy sản 5 năm đạt 12.453 tỷ đồng.
Về trồng trọt: Đã thực hiện có kết quả chương trình chuyển dịch cơ cấu
mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, năng suất, sản lượng lương thực tăng, cơ bản đảm bảo cân
đối được lương thực ở khu vực nông thôn. Mặc dù diện tích gieo trồng cây
lương thực có giảm do chuyển đổi mục đích sang làm khu công nghiệp và xây
dựng cở hạ tầng nhưng tổng sản lượng lương thực cây có hạt 5 năm qua ổn định
ở mức 227 – 230 ngàn tấn/năm, năng suất lúa bình quân đạt 44,7 tạ/ha. Đến nay
giá trị sản phẩm trồng trọt, nuôi trồng thủy sản trên 1 đơn vị diện tích bình quân
đạt khoảng 47 triệu đồng/ha. Cơ cấu cây trồng vật nuôi có sự chuyển biến mạnh.
Đã hình thành một số vùng chuyên canh như: 8.956 ha cây ăn quả (vải, nhãn
chiếm 71%) trong đó: có 300 ha vải chín sớm ở Xã Bình Khê (Đông Triều),

Phương Nam (Uông Bí), 700 ha na dai, 300 ha củ đậu ở xã Việt Dân, An Sinh
(Đông Triều); Có 1.170 ha chè tập trung tại 2 huyện Hải Hà và Đầm Hà, trong
đó có 500 ha chè kinh doanh, 670 ha chè trồng mới. Một số địa phương ở Hoành
Bồ, Hạ Long, Cẩm Phả, Đông Triều đã xây dựng thành công các mô hình trồng
rau, hoa theo hướng công nghệ cao, giá trị thu nhập bình quân 1 ha đạt từ 500 –
800 triệu đồng/ha.
Chăn nuôi ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Chú trọng phát triển
chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy mô trang trại, mang tính sản xuất hàng hoá,
nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần chuyển dịch tích cực cơ cấu nông nghiệp
nông thôn. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp từ 32,4% năm 2005 lên 38%
năm 2009. Mấy năm gần đây đàn gia súc phát triển ổn định và tăng bình quân
2,5%. Tính đến 01/10/2009, đàn lợn 367.500 con, đàn trâu 63.500 con, đàn bò
28.000 con, dê 6.500 con, đàn gia cầm 2,36 triệu con; sản lượng thịt hơi đạt
khoảng 44.066 tấn. Hiện toàn tỉnh có 18 cơ sở nuôi gia cầm tập trung có quy mô
từ 1 – 2 vạn con và có 2 trại chăn nuôi lợn công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh có 30
trang trại có quy mô từ 30 – 200 con lợn thịt; 53 trang trại nuôi bò, có 13 trang
trại nuôi gia cầm có quy mô 2.000 – 8.000 con/trang trại.
5
Lâm nghiệp phát triển khá, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao
động và các nguồn vốn tham gia trồng, bảo vệ rừng. Trong 5 năm qua, bằng các
nguồn vốn của trung ương, ngành than, địa phương và của dân toàn tỉnh đã trồng
được 74.396 ha, bình quân mỗi năm trồng được 14.879 ha. Diện tích đất trống,
đối núi trọc đã thu hẹp đáng kể; Đến nay, diện tích đất có rừng trong toàn tỉnh đã
đạt 301.752 ha, trong đó rừng trồng các loại là 152.560 ha, nâng độ che phủ rừng
từ 45,2% năm 2005 lên 50% năm 2010. Thực hiện chuyển đổi 08 Lâm trường
quốc doanh thành các Công ty Lâm nghiệp; sau chuyển đổi hoạt động của các
đơn vị có hiệu quả đã góp phần chuyển từ nền lâm nghiệp truyền thống sang lâm
nghiệp xã hội, đời sống người lao động được nâng lên, người trồng rừng đã có
thể sống bằng nghề rừng. Năm 2009, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng 68.370
m

3
, khai thác và thu mua nhựa thông là 11.000 tấn; chế biến gỗ 6.340 m
3
; dịch
vụ gỗ trụ mỏ 125.000m
3
; tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chế biến từ nhựa
thông đạt 7,5 triệu USD.
Về thủy sản: Toàn tỉnh hiện có 12.205 tàu, thuyền làm nghề khai thác
thuỷ sản (trong đó có 162 tầu công suất từ 90 CV trở lên). Năm 2009, tổng sản
lượng thuỷ sản 78.562 tấn (trong đó đánh bắt 51.240 tấn; nuôi trồng các loại
27.332 tấn), tăng 23.697 tấn so với năm 2005, giá trị xuất khẩu đạt 45,95 triệu
USD. Trong những năm qua ngành thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng khá, đã tập
trung quy hoạch, mở rộng vùng nuôi, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất
giống và nuôi trồng. Công tác chuyển dịch cơ cấu giống, mùa vụ trong nuôi
trồng thuỷ sản cũng được quan tâm đúng mức, đã đưa nhiều tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, nhất là các loại giống có năng suất, giá trị cao vào nuôi trồng như tôm
Sú, cá Song, cá Giò, Tu Hài, Ba Ba
Công nghiệp chế biến nông lâm sản: Toàn tỉnh hiện có 605 cơ sở chế
biến nông lâm sản, trong đó có 7 công ty chế biến gỗ với công suất thiết kế là 20
nghìn m
3
/năm và các cơ sở chế biến khác chế biến từ 7- 9 nghìn m
3
gỗ/năm; 03
công ty sản xuất dăm giấy với công suất 340 nghìn tấn/năm; Ván ghép thanh
2.000m
3
/năm; Ván MDF 5.000m
3

; Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy 10.500
tấn/năm; Có 02 xưởng chế biến chè công suất 3.000 tấn/năm; 03 cơ sở chế biến
thức ăn chăn nuôi công suất 3.000 tấn/năm; chế biến nhựa thông 9.000 tấn/năm.
Ngoài ra còn có hàng trăm cơ sở chế biến bảo quản nông sản quy mô hộ gia
đình.
Cơ sở chế biến thủy sản: Có 06 nhà máy chế biến thủy sản trong đó có 2 xí
nghiệp mắm Cái Rồng và Đại Yên; 4 công ty xuất khẩu thủy sản. Các cơ sở chế
biến nông – lâm – thủy sản đã quan tâm đầu tư đổi mới hệ thống trang thiết bị, dây
chuyền máy móc hiện đại, ứng dụng các quy trình chế biến theo công nghệ cao, tạo
ra các sản phẩm có chất lượng xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu, Nhật Bản.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1. Xây dựng kết cấu hạ tầng
- Giao thông: Đã đưa vào sử dụng mới 49 km đường huyện, 130 km
đường xã, thôn, bản. Toàn tỉnh có 764 km đường huyện, đã cứng hoá mặt đường
455 km (chiếm 60%); 2.233 km đường xã, đã cứng hoá mặt đường 527 km
6
(chiếm 24%). Hệ thống đường giao thông nông thôn, miền núi được quan tâm
đầu tư nâng cấp, tạo ra một mạng lưới giao thông đồng bộ, thông suốt giữa các
vùng miền trong tỉnh và giữa các xã với trung tâm huyện, thị xã, thành phố, góp
phần tích cực phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi, xoá đói giảm nghèo,
nâng cao đời sống nhân dân. Số xã, phường có đường ô tô đến trung tâm xã tăng
từ 130 xã, phường năm 2005 lên 186 xã, phường năm 2010.
- Thủy lợi: Đã đầu tư, đưa vào sử dụng hồ Đầm Hà Động và các tuyến đê
biển: Hà Nam, Bắc Cửa Lục, Đông Yên Hưng; hoàn thành 424 km kênh mương
tưới tiêu cấp II, III. Đến nay đã chủ động tưới tiêu cho 74% diện tích gieo trồng.
- Hệ thống điện nông thôn: Hệ thống điện được quan tâm đầu tư tạo điều
kiện để điện khí hóa nông thôn, phục vụ sản xuất và đời sống. Đến nay 100% số
xã trong đất liền có điện lưới quốc gia (xã đảo có điện diezen); có trên 96% số
hộ dân nông thôn được sử dụng điện theo giá nhà nước. Đã hoàn thành bàn giao
lưới điện nông thôn cho ngành điện quản lý, phối hợp hỗ trợ vốn để ngành điện

đầu tư điện lưới đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
- Cơ sở vật chất giáo dục: Hệ thống giáo dục của tỉnh tương đối hoàn
chỉnh, thống nhất và đa dạng, mạng lưới trường lớp được xây dựng, củng cố và
phát triển đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Trên địa bàn
tỉnh hiện có 2 trường Đại học, 2 trường cao đẳng nghề, 5 trường cao dẳng
chuyên nghiệp, 1 trường trung cấp chuyên nghiệp, 3 trường trung cấp nghề, 6
trung tâm dạy nghề và 15 cơ sở khác đăng ký hoạt động dạy nghề, 415 trường
phổ thông, 183 trường mầm non, 15 trung tâm giáo dục thường xuyên và 186
trung tâm học tập cộng đồng. Đến hết năm 2010, sẽ có 47,1% trường mầm non,
phổ thông đạt chuẩn quốc gia; cơ bản hoàn thành mục tiêu kiên cố hóa trường,
lớp học và nhà công vụ cho giáo viên theo Đề án của Chính phủ trước cả nước 2
năm. Cơ sở vật chất trường học được đầu tư xây dựng trong những năm qua đã
tạo ra diện mạo mới cho vùng nông thôn của tỉnh, đặc biệt ở miền núi, biên giới
và hải đảo.
- Cơ sở vật chất y tế: Xây dựng, đưa vào sử dụng Bệnh viện đa khoa tỉnh
và đầu tư nâng cấp hầu hết các bệnh viện đa khoa khu vực, bệnh viện tuyến
huyện. Hiện nay, toàn tỉnh có 15 bệnh viện, 09 phòng khám đa khoa khu vực, 10
trung tâm y tế tuyến tỉnh, 14 trung tâm y tế tuyến huyện, 186 trạm y tế xã,
phường; tỷ lệ dân số được tiếp cận dịch vụ y tế đạt trên 92%; đạt tỷ lệ 30 giường
bệnh trên 10.000 dân và 8 bác sỹ trên 10.000 dân. Tỷ lệ xã đạt chuẩn y tế quốc
gia tăng từ 46,7% (năm 2005) lên 100% (năm 2010).
- Cơ sở vật chất văn hoá, thông tin: Nhà văn hóa thôn, bản đã và đang
được đầu tư xây dựng theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm ở các
huyện. Tính đến cuối năm 2009 toàn tỉnh có 1.225/1.529 thôn, khu phố đã xây
dựng xong nhà văn hóa và đi vào hoạt động đạt hiệu quả tốt, chiếm 80%. Hệ
thống phát thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông phát triển nhanh đáp ứng
các nhu cầu cơ bản của người dân và phục vụ tốt du lịch, dịch vụ. Tỷ lệ phủ sóng
phát thanh – truyền hình đạt trên 95%. Tỷ lệ máy điện thoại cố định và di động
trả sau đạt 40 thuê bao/100 dân, Internet ước đạt 12,3 thuê bao/100 dân. Ở khu
7

vực nông thôn, số hộ có máy thu hình là 88%, có máy vi tính là 4%, kết nối
Internet là 3%.
2. Phát triển ngành nghề nông thôn
Trong những năm qua, ngành nghề nông thôn từng bước được khôi phục
và phát triển, như dệt may, mây tre đan, dệt thổ cẩm, chạm khắc than đá, gốm
sứ, cơ khí nông thôn. Nhiều sản phẩm đến nay đã sản xuất theo xu hướng hàng
hoá như: gốm sứ, thuỷ tinh dân dụng, may mặc. Ngành nghề nông thôn phát
triển đã thu hút hàng vạn lao động nông nghiệp tham gia, làm thay đổi cơ cấu
sản xuất, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn.
3. Các hình thức tổ chức sản xuất
Kinh tế hợp tác với nòng cốt là hợp tác xã đã góp phần tích cực vào phát
triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn, tăng thu nhập, tạo việc làm
cho xã viên và giảm nghèo; mặc dù quy mô sản xuất còn nhỏ nhưng đến năm
2010, kinh tế hợp tác đã thu hút khoảng 138.000 lao động, chiếm 20% tổng số
lao động, đóng góp khoảng 3,5% vào GDP toàn tỉnh.
4. Giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
Trong 5 năm qua, đã giải quyết việc làm cho 13,06 vạn lao động, bình
quân mỗi năm 2,6 vạn lao động. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng
tích cực, đến nay lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản: 43%; lao động công
nghiệp và xây dựng: 23%; lao động khu vực dịch vụ: 34% trong tổng số lao
động toàn tỉnh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh, từ 33% năm 2005 lên
48% năm 2010 (trong đó đào tạo nghề đạt 38%).
Theo báo cáo của các địa phương thống kê ở 125 xã, hiện có 133.590 hộ
dân, trong đó hộ nông nghiệp 102.225 hộ (chiếm 76,5%); tổng số lao động
316.830 người, trong đó: lao động nông nghiệp 238.959 người (chiếm 75,4%),
lao động Công nghiệp – TTCN – Xây dựng 38.395 người (chiếm 12,1%), lao
động dịch vụ thương mại 39.476 người (chiếm 12,5%). Giai đoạn 2006 – 2010
toàn tỉnh đã đào tạo 12.680 lao động nông thôn; tỷ lệ lao động nông thôn đã qua
đào tạo hiện nay chiếm khoảng 23 %.
Tóm lại: Trong những năm qua, nhờ có sự đổi mới về đường lối phát

triển, chính sách của Đảng và Nhà nước nên tốc độ phát triển kinh tế xã hội tăng
cao, hệ thống cơ sở hạ tầng được củng cố xây dựng mới. Ứng dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ đã làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Bộ
mặt nông thôn và đời sống nhân dân có nhiều đổi mới so với các thời kỳ trước.
III. THỰC TRẠNG NÔNG THÔN TỈNH QUẢNG NINH THEO BỘ TIÊU
CHÍ QUỐC GIA VỀ NÔNG THÔN MỚI
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, tháng 7/2010 Sở Nông nghiệp và
PTNT đã hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố rà soát, đánh giá thực trạng
nông thôn ở các xã, lập báo cáo xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
Theo báo cáo đánh giá của các địa phương tính đến thời điểm 30/6/2010, mức độ
đạt 39 chỉ tiêu thuộc 19 tiêu chí theo 5 nhóm tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới ở 125 xã trên địa bàn tỉnh như sau:
8
1. Nhóm I: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
- Về quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Có 50 xã đã có quy
hoạch, đạt 40% về số xã.
- Về Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội – môi trường theo
chuẩn mới có 19 xã đã có quy hoạch, chiếm 15,2% số xã của tỉnh;
- Về quy hoạch phát triển các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh,
bảo tồn bản sắc văn hóa tốt đẹp: có 26 xã có quy hoạch, chiếm 20,8% số xã.
2. Nhóm II: Hạ tầng Kinh tế - Xã hội
2.1. Giao thông
- Đường trục xã, liên xã:
Toàn tỉnh có 1.287 km đường trục xã, liên xã, trong đó đã bê tông hóa,
nhựa hóa 772,5 km; có 514,8 km (chiếm 40%) đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của
Bộ Giao thông Vận tải.
Số xã có tỷ lệ km đường trụ xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa
đạt chuẩn đạt 50 % trở lên: có 44 xã đạt chuẩn, chiếm 35,2% số xã.
- Đường trục thôn, xóm:

Đường trục thôn, xóm ở trên địa bàn các xã của tỉnh hiện nay là 1.555 km,
trong đó 453,4 km đã được bê tông hóa và nhựa hóa; có 514,8 km đạt chuẩn theo
cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông - Vận tải.
Chỉ tiêu tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp
kỹ thuật của Bộ GTVT đạt 50% trở lên: có 24 xã đạt chuẩn, chiếm 19,2 % tổng
số xã.
- Đường ngõ, xóm:
Đường ngõ, xóm ở các xã tổng chiều dài khoảng 1.733 km, trong đó 230,6
km đã được cứng hóa, 212,5 km đạt chuẩn.
Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa đạt 100%
(trong đó 50% được cứng hóa): có 23 xã đạt chuẩn, chiếm 18,4% tổng số xã.
- Đường trục chính nội đồng:
Hiện tại có 926,2 km đường trục chính nội đồng, trong đó có 12,3 km đã
được cứng hóa, 6,7 km đạt chuẩn.
Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận
tiện đạt 50% trở lên: có 8 xã đạt chuẩn, chiếm 6,4% tổng số xã.
2.2. Về thủy lợi
Trên địa bàn các xã của tỉnh hiện nay, kênh cấp I có 1.541,9 km (trong đó
kiên cố hóa 602,5 km), kênh cấp II 3.541,4 km ( đã kiên cố hóa 1.202,3 km),
kênh cấp III 1.725,9 km (đã kiên cố hóa 183,1 km). Đánh giá các chỉ tiêu về
thủy lợi theo chuẩn nông thôn mới như sau:
9
- Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh: có 75 xã
đạt chuẩn, chiếm 60% tổng số xã.
- Tỷ lệ km kênh mương do các xã quản lý được kiên cố hóa đạt 50% trở
lên: có 42 xã đạt chuẩn, chiếm 33,6% tổng số xã.
2.3. Điện nông thôn
Hệ thống điện ở các xã hiện nay gồm có 573 trạm biến áp với tổng công
suất 92.483 KVA, có 690,2 km đường dây trung thế và 1.634,7 km đường dây
hạ thế.

- Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện: có 70 xã đạt
chuẩn, chiếm 56% tổng số xã.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 95% trở
lên: có 89 xã đạt chuẩn, chiếm 71,2% tổng số xã.
2.5. Trường học
Hiện nay trên địa bàn các xã có 29 nhà trẻ (trong đó đạt chuẩn là 7 nhà
trẻ), 124 trường mẫu giáo (17 trường đạt chuẩn), 132 trường tiểu học (46 trường
đạt chuẩn), trung học cơ sở có 94 trường (đạt chuẩn 21 trường).
Về chỉ tiêu tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS
có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia đạt 70% trở lên có 28 xã đạt chuẩn, chiếm
22,4%.
2.6. Cơ sở vật chất văn hóa
Toàn tỉnh có 24 Trung tâm Văn hóa – Thể thao xã; 557 Trung tâm Văn
hóa Thể thao thôn, bản trong đó 146 trung tâm đạt chuẩn.
- Đạt chỉ tiêu Trung tâm văn hóa - thể thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa –
Thể thao – Du lịch có 16 xã, chiếm 12,8% tổng số xã.
- Tỷ lệ thôn có Trung tâm văn hóa - thể thao thôn đạt quy định của Bộ Văn
hóa – Thể thao – Du lịch đạt 100%: có 18 xã đạt chuẩn, chiếm 14,4% tổng số xã.
2.7. Chợ nông thôn
Toàn tỉnh có 65 chợ nông thôn; Đạt chỉ tiêu chợ đạt chuẩn của Bộ Xây
dựng có 13 xã, chiếm 10,4% tổng số xã của tỉnh.
2.8. Thông tin và truyền thông
Hiện nay ở khu vực nông thôn có 44% số hộ có điện thoại cố định, 4% số
hộ có máy tính, 3% số hộ có kết nối Internet, 6% số hộ có máy thu thanh, 88%
có máy thu hình.
- Đạt chỉ tiêu có điểm phục vụ bưu chính viễn thông: có 118 xã, chiếm
80% tổng số xã.
- Đạt chỉ tiêu có Internet đến thôn: có 51 xã đạt chuẩn, chiếm 40,8% số xã.
2.9. Nhà ở dân cư
- Chỉ tiêu không có nhà tạm, dột nát: có 125 xã đạt, chiếm 100% số xã.

10
- Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ Xây dựng đạt 75% trở lên: có 30 xã
đạt chuẩn, chiếm 24% tổng số xã.
3. Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất
3.1. Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân thu nhập đầu
người ở khu vực nông thôn gấp 1,2 lần: có 35 xã đạt chuẩn, chiếm 28% tổng số
xã.
3.2. Hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo đạt < 10%: có 89 xã đạt chuẩn, chiếm 71,2% tổng số xã.
3.3. Cơ cấu lao động
Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp từ 45% trở xuống: có 17 xã đạt chuẩn, chiếm 13,6% tổng số xã.
3.4. Hình thức tổ chức sản xuất
Đạt chỉ tiêu có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả: có 48 xã
đạt chuẩn, chiếm 38,4% tổng số xã.
4. Nhóm IV: Văn hóa – Xã hội – Môi trường
4.1. Giáo dục, đào tạo
- Đạt chỉ tiêu Phổ cập giáo dục trung học cơ sở: có 125 xã đạt chuẩn,
chiếm 100% tổng số xã.
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông,
bổ túc, học nghề) đạt 70% trở lên: có 78 xã đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 62,4%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 20% trở lên: có 18 xã đạt chuẩn,
chiếm 14,4% tổng số xã.
4.2. Y tế
- Tỷ lệ người tham gia các hình thức BHYT đạt 20% trở lên: có 91 xã đạt
chuẩn, chiếm 72,8% tổng số xã.
- Đạt chỉ tiêu Y tế xã đạt chuẩn quốc gia: có 125 xã đạt chuẩn, chiếm
100% tổng số xã.
4.3. Văn hóa

Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa theo quy định
của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch: Có 29 xã đạt chuẩn, chiếm 23,2% tổng số
xã.
4.4. Môi trường
- Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia
đạt 70% trở lên: có 78 xã đạt chuẩn, chiếm 62,4% tổng số xã.
- Các cơ sở SX – KD đạt tiêu chuẩn về môi trường: có 41 xã đạt chuẩn,
chiếm 32,8%.
11
- Đạt chỉ tiêu không có hoạt động gây suy giảm môi trường và có các hoạt
động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp: có 65 xã đạt chuẩn, chiếm 52% tổng số
xã.
- Đạt chỉ tiêu nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch: có 23 xã đạt
chuẩn, chiếm 18,4% tổng số xã.
- Đạt chỉ tiêu chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định: Có
15 xã đạt chuẩn, chiếm 12% số xã.
5. Nhóm V: Hệ thống chính trị
5.1. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh
- Đạt chỉ tiêu cán bộ xã đạt chuẩn: có 72 xã đạt, chiếm 57,6% tổng số xã.
- Đạt chỉ tiêu có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy
định: có 119 xã, chiếm 95,2% tổng số xã.
- Đạt chỉ tiêu Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững
mạnh”: có 105 xã, chiếm 84% số xã.
- Đạt chỉ tiêu các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên
tiến trở lên: có 91 xã đạt chuẩn, chiếm 72,8% tổng số xã.
5.2. An ninh, trật tự xã hội
Đạt chỉ tiêu an ninh, trật tự xã hội được giữ vững: có 107 xã đạt chuẩn,
chiếm 85,6% tổng số xã.
Tổng quát chung, đánh giá theo 19 tiêu chí nông thôn mới ở 125 xã của
tỉnh như sau:

- Số xã đạt trên 75% bộ tiêu chí (đạt trên 29/39 chỉ tiêu): 26 xã (chiếm
20,8%). Các địa phương có xã đạt chỉ tiêu này là: Đông Triều 9 xã, Yên Hưng 9
xã, Móng Cái 4, Hoành Bồ 1 xã, Vân Đồn 1 xã, Tiên Yên 1 xã, Đầm Hà 1 xã.
- Số xã đạt 50 – 75% bộ tiêu chí (đạt từ 20 - 29/39 chỉ tiêu): 41 xã (chiếm
32,8%), bao gồm: Đông Triều 9 xã, Uông Bí 2 xã, Yên Hưng 6 xã, Hoành Bồ 4
xã, Vân Đồn 4 xã, Cẩm Phả 3 xã, Cô Tô 2 xã, Ba Chẽ 1 xã, Tiên Yên 2 xã, Bình
Liêu 1 xã, Đầm Hà 3 xã, Hải Hà 1 xã, Móng Cái 3 xã.
- Số xã đạt <50% bộ tiêu chí (đạt dưới 20/39 chỉ tiêu) 58 xã (chiếm
46,4%), gồm: Đông Triều 1 xã, Yên Hưng 3 xã, Hoành Bồ 7 xã, Vân Đồn 6 xã,
Ba Chẽ 6 xã, Tiên Yên 8 xã, Bình Liêu 6 xã, Đầm Hà 5 xã, Hải Hà 14 xã, Móng
Cái 2 xã.
IV. CÁC CƠ CHẾ ĐẦU TƯ HIỆN HÀNH
1. Về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Căn cứ Thông tư liên tịch số 48/2008/TTLT-BTC-BNN về việc chế độ
quản lý, sử dụng vốn ngân sách nhà nước chi cho chương trình mục tiêu quốc
gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006-2010 do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ Tài chính ban hành để sửa đổi, bổ
12
sung một số điểm Thông tư liên tịch số 80/2007/TTLT-BTC-BNN ngày
11/7/2007 hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng vốn ngân sách nhà nước chi cho
chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai
đoạn 2006-2010; Cơ chế hỗ trợ như sau:
+ Mức hỗ trợ công trình cung cấp nước sạch tập trung, như sau: Ngân sách
Nhà nước hỗ trợ một phần sắt thép, xi măng, gạch, cát, thiết bị cho hạng mục
công trình đầu nguồn, trạm xử lý nước, đường ống dẫn chính. Mức hỗ trợ cụ thể
như sau:
* Mức ngân sách Nhà nước hỗ trợ không quá 45% đối với vùng thị trấn,
thị tứ; không quá 60% đối với vùng đồng bằng, vùng duyên hải; không quá 75%
đối với các vùng nông thôn khác theo dự toán công trình được cấp có thẩm
quyền phê duyệt;

* Không quá 90% tổng dự toán công trình được cấp có thẩm quyền phê
duyệt đối với xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi, vùng bãi
ngang ven biển và hải đảo, xã biên giới theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;
trường hợp Thủ tướng Chính phủ đã quyết định ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu
tư công trình cấp nước, thì nguồn vốn và mức hỗ trợ đầu tư thực hiện theo các
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
* Đối với công trình nước sạch của trạm xá, trường học ở nông thôn (nhà
trẻ, mẫu giáo, trường tiểu học, trường Trung học cơ sở, trường Trung học phổ
thông, trường dạy nghề ở nông thôn), chợ nông thôn, ngân sách Nhà nước hỗ trợ
không quá 75% tổng dự toán công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
riêng đối với các đơn vị không có nguồn thu, UBND cấp tỉnh xem xét quyết định
mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước (bao gồm ngân sách Trung ương và vốn
ODA bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương; ngân sách địa phương đầu
tư cho chương trình) cho phù hợp.
Công trình cấp nước tập trung tự chảy (chỉ thực hiện ở vùng núi cao):
Ngân sách Nhà nước hỗ trợ không quá 90% tổng dự toán công trình được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
+ Công trình cấp nước phân tán: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần vật
tư như: ống, bơm tay, xi măng, máng thu hứng nước mưa tuỳ theo từng loại hình
cấp nước cho hộ nghèo; hộ gia đình chính sách xã hội; hộ gia đình ở các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo, xã biên giới theo các quy định của Thủ tướng Chính phủ; trường hợp
Thủ tướng Chính phủ đã Quyết định ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu tư công
trình cấp nước phân tán, thì nguồn vốn và mức hỗ trợ đầu tư thực hiện theo các
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Mức hỗ trợ cụ thể như sau: “Loại giếng khoan đường kính nhỏ, giếng đào,
bể chứa nước mưa (4m
3
) và lu chứa nước mưa (2m
3

): Mức ngân sách Nhà nước
hỗ trợ không quá 45% đối với vùng đồng bằng, không quá 60% đối với vùng
trung du và không quá 75% đối với vùng miền núi theo dự toán được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
13
Riêng đối với hộ gia đình bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình liệt sĩ, gia
đình có công với cách mạng: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% giá trị của công
trình do cấp có thẩm quyền phê duyệt; đối với hộ gia đình có người tàn tật thực
sự khó khăn UBND cấp tỉnh xem xét quyết định mức hỗ trợ cho phù hợp.
2. Đối với chương trình kiên cố hóa kênh mương
Theo Quyết định số 42/2001/QĐ-UB ngày 08/1/2001 của UBND tỉnh về
việc ban hành quy chế quản lý chương trình kiên cố hóa kênh mương; Cơ chế
đầu tư như sau:
- Kênh loại 1: Do ngân sách trung ương đầu tư, bố trí vào vốn xây dựng cơ
bản hàng năm của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Kênh loại 2: Do ngân sách địa phương đầu tư bố trí trong vốn đầu tư xây
dựng cơ bản hàng năm của tỉnh.
- Kênh loại 3: Tỉnh hỗ trợ 70% bằng nguồn vốn vay ưu đãi. Cấp huyện, xã
và dân đóng góp 30% bằng tiền hoặc ngày công lao động quy ra tiền.
(Loại I: Kênh trục chính của những hệ thống lớn ở đồng bằng và một số hệ
thống quan trọng ở miền núi; Loại II: Kênh liên huyện, liên xã; Loại III: Kênh
mương liên thôn, nội đồng).
3. Các công trình y tế, giáo dục, thể dục thể thao
3.1. Về điểm vui chơi trẻ em
Theo Quyết định số 1317/2009/QĐ-UBND ngày 29/4/2009 của Uỷ ban
Nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định quản lý, sử dụng nguồn vốn 1% tổng
chi thường xuyên ngân sách tỉnh để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu ưu tiên vì trẻ
em. Hỗ trợ vốn thực hiện mục tiêu vui chơi, giải trí của trẻ em: Vốn dành cho
đầu tư xây dựng và trang sắm thiết bị cho các điểm vui chơi nguồn 1% tỉnh hỗ
trợ cho mục tiêu xây dựng điểm vui chơi chỉ được thanh toán cho các mục xây

lắp và trang thiết bị, dụng cụ vui chơi dành cho trẻ em. Vốn chi cho việc san gạt
tôn tạo mặt bằng, kiến thiết cơ bản khác các đơn vị được giao kế hoạch đầu tư
dùng vốn địa phương để giải quyết.
Mức hỗ trợ cụ thể như sau:
- Điểm vui chơi cấp xã, phường, thị trấn: Mức hỗ trợ căn cứ theo dự án
được UBND cấp huyện phê duyệt, mức tối đa là 300 triệu đồng. Mức hỗ trợ này
đã bao gồm cả xây lắp và mua sắm trang thiết bị. Những địa phương xây dựng
dự toán cao hơn mức trên thì chủ động bổ sung vốn từ nguồn ngân sách địa
phương hoặc huy động đóng góp của cộng đồng.
- Đối với những xã phường, thị trấn do không có quỹ đất hoặc do đặc
điểm dân cư không tập trung, nếu xây dựng điểm vui chơi cấp xã sẽ không phát
huy được hiệu quả thì đầu tư cho khu vui chơi tại các nhà trẻ, mẫu giáo và khu
tập trung dân cư (có thể là cho một hoặc một số thôn, bản, khu phố). Mức hỗ trợ
cụ thể như sau:
+ Điểm vui chơi ở các khu dân cư thuộc các phường, thị trấn, các xã vùng
đồng bằng hoặc nơi tập trung dân cư tối đa không quá 100 triệu đồng/1điểm.
14
+ Điểm vui chơi cho các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa: Không quá 150
triệu đồng/1 điểm.
+ Sửa chữa và nâng cấp:
* Điểm vui chơi cấp xã, phường, thị trấn: Đối với những điểm đang phát
huy hiệu quả nhưng cơ sở vật chất đã xuống cấp, cần đầu tư nâng cấp, cải tạo thì
mức hỗ trợ tối đa là 150 triệu đồng, trong đó vốn dành cho mua sắm thiết bị là
70 triệu đồng.
* Trung tâm vui chơi dành cho trẻ em cấp huyện: Mức hỗ trợ tối đa để đầu
tư năng cấp cải tạo là 200 triệu đồng, trong đó vốn dành cho mua sắm thiết bị là
100 triệu đồng.
3.2. Kiên cố hoá phòng học, trường đạt chuẩn quốc gia; nhà công vụ
giáo viên
- Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính

phủ V/v phê duyệt Đề án kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo
viên giai đoạn 2008-2012. Lộ trình phấn đấu kiên cố hoá trường, lớp học, xoá bỏ
phòng học tạm, giải quyết nhà công vụ cho giáo viên; nội dung, quy mô đầu tư
và tỷ lệ ngân sách Trung ương/tỉnh hỗ trợ theo quy định riêng của Đề án.
- Quyết định số 3488/QĐ-UBND ngày 09/11/2006 của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh về việc phê duyệt Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và xây dựng trường chuẩn
quốc gia tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015; theo đó đã
đề ra chỉ tiêu phấn đấu kiên cố hoá phòng học đến năm 2010 đạt 60 - 70%, năm
2015 đạt 100%.
- Quyết định số 4177/QĐ-UBND ngày 25/12/2006 của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh về việc phê duyệt Đề án phát triển hệ thống cơ sở nội trú dân nuôi trong trường
trung học cơ sở và phổ thông cơ sở trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 - 2010.
- Quyết định số 639/2008/QĐ-UBND ngày 05/3/2008 của Uỷ ban Nhân
dân tỉnh về việc phê duyệt Đề án phát triển giáo dục mầm non tỉnh Quảng Ninh
giai đoạn 2008 - 2015 và định hướng đến năm 2020; theo đó đã đề ra nhiệm vụ
đến năm 2012 là tập trung vốn xây dựng trường mầm non ở các xã đặc biệt khó
khăn.
3.3. Trạm y tế xã đạt chuẩn
Quyết định số 3754/QĐ-UBND ngày 28/11/2006 của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh V/v phê duyệt Đề án phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia về Y tế xã, tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2006-2010 - định hướng đến năm 2015.
Các nội dung còn lại: Sân luyện tập thể dục thể thao, nhà sinh hoạt cộng
đồng: Chưa có cơ chế cụ thể.
4. Công trình giao thông
Sở Giao thông đang được giao nhiệm vụ xây dựng cơ chế, chính sách đầu
tư xây dựng đường giao thông nông thôn – miền núi; Trong đó, đề xuất:
15
Ngân sách hỗ trợ đường giao thông nông thôn các huyện miền núi là 70%;
Các huyện, thị xã, thành phố còn lại hỗ trợ 30%.
5. Điện nông thôn

Theo biên bản ghi nhớ giữa UBND tỉnh Quảng Ninh với Công ty điện lực
I và Điện lực Quảng Ninh ngày 3/8/2009; Cơ chế đầu tư như sau:
Ngành điện làm chủ đầu tư xây dựng toàn bộ hệ thống lưới điện quốc gia
khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh. Về cơ chế ngành điện vay vốn để đầu tư,
tỉnh Quảng Ninh sẽ hỗ trợ lãi suất phần vốn đầu tư xây dựng đường dây trung áp
và trạm biến áp trong thời gian 03 năm và chịu chi phí (cả gốc + lãi) đối với
phần vốn đầu tư xây dựng hệ thống hạ áp.
6. Công trình chợ
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/1/2003 của Chính phủ, nguồn
vốn đầu tư phát triển của Nhà nước (bao gồm vốn từ ngân sách Trung ương, địa
phương và các nguồn viện trợ không hoàn lại) chỉ hỗ trợ đầu tư xây đựng một số
chợ sau:
- Chợ đầu mối chuyên ngành nông sản, thực phẩm để tiêu thụ hàng hóa ở
các vùng sản xuất tập trung về nông, lâm, thủy sản.
- Chợ ở các cụm xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo thuộc các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, định canh định cư
của Nhà nước.
- Chợ loại 1 theo quy hoạch ở vị trí trọng điểm về kinh tế thương mại của
tỉnh, thành phố, làm trung tâm giao lưu hàng hóa và phục vụ nhu cầu tiêu dùng ở
các thành phố, thị xã lớn.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Sản xuất nông lâm ngư nghiệp phát triển tương đối khá, cho năng suất,
chất lượng cao và liên tục được mùa, đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu tỉnh giao,
tỷ trọng nông nghiệp đã giảm dần trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh. Việc
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã trở thành phong trào rộng khắp các
địa phương, hộ nông dân đã xác định được nhiều loại cây trồng có lợi thế, xây
dựng được nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu sản xuất đạt giá trị kinh tế cao.
Ngoài những kết quả đạt được trên, trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn
bộc lộ một số tồn tại, như: Giá trị hàng hóa nông nghiệp tăng trưởng còn thấp;
sản xuất nông nghiệp phải đương đầu với hàng loạt rủi ro về thiên tai và dịch

bệnh gây ra. Trong cơ cấu ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn so với ngành chăn
nuôi (khoảng 50%), trong đó lúa là cây trồng chiếm diện tích lớn nhất. Do quy
mô về sản xuất nông nghiệp còn nhỏ, manh mún, nông dân chưa được tổ chức
trong các hợp tác xã và hiệp hội ngành hàng, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản
chế biến như kho tàng, sân phơi, bến bãi, còn kém phát triển, công nghiệp chế
biến nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau
quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản chế biến ở dạng sơ chế, mẫu mã
16
bao bì chưa phù hợp; chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp. Diện tích đất sản
xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng sang làm
các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn được tăng cường, góp phần
thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Việc tập
trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội vùng nông thôn, nhất là
hệ thống giao thông, điện, kênh mương, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế,
chợ, các thiết chế văn hóa…đã có tác động tích cực đến phát triển sản xuất, tạo
việc làm và xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn.
Tuy nhiên, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế –
xã hội còn yếu kém, thiếu đồng bộ, môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai thấp. Đô thị hoá nông thôn còn tự phát, nhiều xã
chưa có quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết; cảnh quan bị phá vỡ và nhiều nét
văn hóa bị pha tạp, mai một. Chỉ có một số ít điểm dân cư có quy hoạch, nhưng
chất lượng thấp, việc tổ chức quản lý quy hoạch không gian đô thị còn nhiều yếu
kém, chưa chú trọng giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Các chính sách của Trung ương, tỉnh, huyện đã kịp thời hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất và xã hội, có tính đặc thù riêng mang lại hiệu
quả cao. Song do nguồn lực đầu tư hạn chế, đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước
chỉ đáp ứng được khoảng 40 - 60% yêu cầu thực tế, đầu tư còn dàn trải, nhiều
công trình chậm tiến độ, hiệu quả chưa cao, chất lượng kết cấu hạ tầng còn kém
xa so với thành phố.

- Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Đã
thu hút và chuyển được một số dự án về đầu tư và xây dựng công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, du lịch và quá trình đô thị hoá có sự phát triển rõ nét, giá trị cao đã thu
hút và chuyển dịch lao động từ lĩnh vực nông nghiệp thuần sang các lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế nông thôn vẫn còn một số tồn tại:
Công nghiệp, TTCN và dịch vụ chậm phát triển, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Cơ cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ
yếu là thuần nông, các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Các doanh nghiệp ở nông thôn, kể cả doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh đều có quy mô nhỏ. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn còn mang tính tự phát và thiếu sự chuẩn bị. Chất lượng lao
động nông nghiệp, nông thôn còn thấp nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
- Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới, phát
triển đa dạng, đã huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực ở nông
thôn, cư dân ở nông thôn có thêm việc làm và thu nhập. Kinh tế hộ tiếp tục phát
triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, góp phần chủ yếu tạo tăng trưởng
nông nghiệp, thu nhập cho nông dân. Xuất hiện ngày càng nhiều trang trại chăn
17
nuôi, thuỷ sản và kinh doanh tổng hợp đạt hiệu quả kinh tế cao. Tổ hợp tác bước
đầu hình thành và phát triển, hoạt động đa dạng, phù hợp với trình độ của nông
dân ở nhiều vùng.
Tuy vậy, tổ chức, thể chế ở nông thôn vẫn còn chậm đổi mới. Kinh tế trang
trại phát triển chậm và chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn; mức độ trang bị cơ giới và áp dụng khoa
học công nghệ còn hạn chế, khả năng cạnh tranh kém. Kinh tế hợp tác phát triển rất
chậm, chưa đóng vai trò mong đợi trong hỗ trợ hoạt động sản xuất của nông hộ.
- Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng

được cải thiện đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Nhờ thu
nhập tăng, nông dân ở nhiều vùng có thêm tích luỹ, đã xây cất nhà ở kiên cố,
khang trang, mua sắm phương tiện đi lại và các vật dụng lâu bền, điều kiện sinh
hoạt được cải thiện. Giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 10,62% năm 2005 xuống
còn 4,09% vào cuối năm 2010 (theo tiêu chí cũ). Số dân khu vực nông thôn được
sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến nay khoảng 83%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
suy dinh dưỡng đã giảm từ 24,3% năm 2005 xuống còn dưới 18% năm 2010, tỷ
lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm phòng đầy đủ 7 loại vắc xin đạt 96%. Các lĩnh
vực văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình có nhiều chuyển biến tích cực,
mức hưởng thụ văn hoá, thông tin cho nhân dân được nâng lên. Công tác vệ sinh
môi trường nông thôn bước đầu đã được các cấp chính quyền và nhân dân quan
tâm và coi trọng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay đời sống vật chất và tinh thần
của cư dân nông thôn nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn ở
mức thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng
ngày càng lớn; phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc về việc làm, thu nhập. Nếp
sống văn hoá chậm hình thành; Tệ nạn xã hội vẫn gia tăng, tình trạng nghiện ma
tuý, tệ nạn mại dâm, cờ bạc có xu hướng phát triển. Một số hủ tục mê tín, dị
đoan vẫn còn tồn tại, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Còn tình trạng
trong sản xuất thâm canh, sử dụng nhiều loại phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ,
chất kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng chăn nuôi tập
trung, nuôi thủy sản tập trung, các vùng chuyên canh các cây trồng thâm canh
đang làm ô nhiễm môi trường, tạo ra dư lượng các chất độc hại trong nông sản
thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và đột biến của sâu bệnh. Bên cạnh
đó, nhiều tài nguyên tự nhiên bị khai thác quá mức làm giảm tính đa dạng sinh
học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống phòng
chống, giảm nhẹ thiên tai và việc phân bố dân cư hiện tại chưa đáp ứng được yêu
cầu bảo vệ sản xuất, dân sinh, chưa chuẩn bị tốt các điều kiện để đối phó với tình
trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
- Hệ thống chính trị ở nông thôn do Đảng lãnh đạo được tăng cường; dân

chủ cơ sở được phát huy; vị thế của giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tổ chức Đảng, chính quyền và
các đoàn thể quần chúng ở cơ sở được tăng cường và kiện toàn. MTTQ tỉnh
cùng với các đoàn thể quần chúng đóng góp tích cực giải quyết nhiều vấn đề ở
nông thôn. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ngày càng đi vào nề nếp, góp
18
phần quan trọng tạo nên sự đồng thuận ở nông thôn. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ở khu vực
nông thôn có sự thay đổi rõ rệt, đã giảm được số hộ nghèo, nhân dân tin tưởng
vào công cuộc đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở khu vực nông thôn nhìn
chung vẫn còn hạn chế. An ninh nông thôn có nơi chưa tốt, đơn thư khiếu kiện
giải quyết chưa kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:
- Về khách quan: Do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp; tốc độ đô thị
hoá và tăng trưởng kinh tế cao, thu hút đầu tư lớn đã nảy sinh những mâu thuẫn
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Nhu cầu đầu tư cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn lớn song khả năng đáp ứng của các nguồn lực còn thấp.
Tư duy về kinh tế thị trường của đại bộ phận nông dân còn nhiều hạn chế. Khu
vực nông nghiệp, nông thôn chịu nhiều tác động của thiên tai, dịch bệnh, rủi ro
cao.
- Về chủ quan: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của hệ
thống chính trị nói chung, nhất là ở cơ sở nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu; khả
năng tham mưu, đề xuất, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
và của tỉnh còn yếu. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ,
đội ngũ doanh nhân còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; Thiếu
đội ngũ cán bộ giỏi về xây dựng nông thôn mới làm nòng cốt chỉ đạo thực hiện ở
cơ sở.
Xây dựng nông thôn mới thời gian qua thiếu định hướng do chưa có quy
hoạch tổng thể, chưa có bộ tiêu chí, chuẩn mực thể hiện các đặc trưng của nông

thôn mới thời kỳ CNH – HĐH; Chưa có được hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật
làm chuẩn cho xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn. Hệ
thống cơ chế, chính sách về phát triển nông thôn thiếu đồng bộ và còn nhiều
vướng mắc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, dạy nghề
cho nông dân chưa được coi trọng. Phát triển các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục
ở nông thôn, nhất là bậc học mầm non, xây dựng thiết chế văn hoá làng, xã, bảo
tồn và phát triển văn hoá truyền thống chưa được quan tâm đúng mức.
19
PHẦN THỨ BA
NỘI DUNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
GIAI ĐOẠN 2010 – 2020
I. QUAN ĐIỂM
- Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội. Trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường,
vươn lên của nông dân, tạo không khí thi đua, phấn khởi, tự giác tham gia của
nhân dân toàn tỉnh; Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có
đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân; Là cơ sở
để xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.
- Xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo phương châm dựa vào nội
lực của cộng đồng địa phương. Nhà nước hỗ trợ một phần trực tiếp cho các xã.
Đồng thời khơi dậy tinh thần và sức dân đóng góp tích cực tự giác vào xây dựng
làng quê của mình.
- Các hoạt động cụ thể của từng xã do chính người dân ở đó bàn bạc dân
chủ, tự nguyện, công khai và tự quyết định trên cơ sở các quy chuẩn của nhà
nước có sự tư vấn của cán bộ chuyên môn; Các cấp uỷ Đảng và Chính quyền
đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính
sách, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều
kiện, động viên tinh thần cho người dân thực hiện vai trò làm chủ thông qua
cộng đồng.

- Phát triển nông thôn phải vững bền cả về tự nhiên và xã hội. Đảm bảo
môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong sạch; thực phẩm vệ sinh;
tài nguyên sinh học đa dạng; giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh, thiên tai và quá
trình biến đổi khí hậu gây ra; thu hẹp khoảng cách về cơ hội phát triển giữa đô
thị và nông thôn, giữa các nhóm cư dân nông thôn; hỗ trợ người nghèo, những
nhóm đối tượng khó khăn trong quá trình phát triển.
- Triển khai xây dựng nông thôn mới ở tất cả các xã, thực hiện đồng bộ tất
cả các tiêu chí để tạo cơ hội và điều kiện ngang nhau để các xã, các địa phương
cùng vươn lên, thi đua xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên vốn ngân sách đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cho các địa phương thực hiện tốt các tiêu
chí không cần vốn đầu tư, như: Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững
mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn và những địa
phương có khả năng về đích sớm.
II. MỤC TIÊU CHỦ YẾU
1. Mục tiêu tổng quát.
Xây dựng nông thôn mới Quảng Ninh có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
đồng bộ và từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
20
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn,
hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất, đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình xây dựng Quảng
Ninh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.
2. Mục tiêu cụ thể.
2.1. Giai đoạn 2010 - 2015:

Phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh có 80 xã (chiếm 64% số xã của tỉnh) đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới; 10/13 huyện đạt chuẩn nông thôn mới và tỉnh Quảng
Ninh cơ bản đạt các tiêu chí tỉnh nông thôn mới, cụ thể là:
- Về hạ tầng kinh tế - xã hội:
Năm 2011, có 100% số thôn có nhà văn hóa đạt chuẩn; 100% xã có bưu
điện văn hóa xã, 100% thôn có điểm đủ điều kiện truy cập internet và thư viện
dùng chung. Đến năm 2012, có 100% xã đạt chuẩn về hệ thống điện; 100%
trường học mầm non, mẫu giáo đạt chuẩn; có 100% xã có nhà văn hóa và khu
thể thao đạt chuẩn. Đến năm 2015, có 75% số xã cơ bản đạt tiêu chí nông thôn
mới (trong đó có 80 xã, tương ứng 64% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới); có
100% số xã có đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa, đường
liên thôn được cứng hóa đạt chuẩn; 100% xã đồng bằng, 50% xã miền núi có hệ
thống kênh mương được kiên cố hóa.
- Về kinh tế và tổ chức sản xuất:
Đến năm 2015, kinh tế khu vực nông thôn đóng góp từ 15-20% GDP của
tỉnh, trong đó: Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 4% trong cơ cấu GDP của tỉnh;
Thu nhập của người dân nông thôn gấp 1,5 – 2 lần so với thu nhập đầu người
khu vực nông thôn của tỉnh năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo cũ) các
xã miền núi dưới 10%, các xã đồng bằng dưới 6%; 100% xã đã có nghề truyền
thống được khôi phục và phát triển; các xã có hợp tác xã hoặc tổ hợp tác hoạt
động có hiệu quả.
- Về văn hóa – xã hội – môi trường:
Duy trì 100% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; 100% y tế
xã đạt chuẩn quốc gia. Đến năm 2012, có 95% hộ dân nông thôn được dùng
nước hợp vệ sinh. Đến năm 2013, có 100% xã có nghĩa trang được xây dựng
theo quy hoạch; 100% xã đồng bằng có bộ phận dịch vụ thu gom, xử lý rác thải;
100% trung tâm xã và cụm dân cư có hệ thống thoát nước thải hoàn chỉnh.
- Về đào tạo cho lao động nông thôn:
Giai đoạn 2011 – 2015, đào tạo lao động nghề cho lao động nông thôn
23.400 người; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kiến thức quản lý Nhà

nước, tin học, lý luận chính trị 7.700 lượt cán bộ công chức xã.
- Về hệ thống chính trị:
21
Đến năm 2015, có 90% cán bộ xã đạt chuẩn; hàng năm có 80% đảng bộ và
các tổ chức đoàn thể xã đạt trong sạch vững mạnh; 100% các xã không có khiếu
kiện đông người vượt cấp.
2.2. Giai đoạn 2016 – 2020:
Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 100 xã (chiếm 80% số xã của tỉnh) đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới, tỉnh Quảng Ninh đạt tiêu chí là tỉnh nông thôn mới cụ
thể là:
- Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 1,4% trong cơ cấu GDP của tỉnh;
- Có 100% số xã có hạ tầng – kinh tế xã hội cơ bản đạt tiêu chí nông thôn
mới;
- Thu nhập của người dân nông thôn gấp 2 lần so với thu nhập đầu người
khu vực nông thôn của tỉnh năm 2015;
- Tỷ lệ dân nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh đạt trên 98%;
- Giai đoạn 2016 – 2020, đào tạo nghề cho lao động nông thôn cho 33.000
người; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ tin học, quản lý Nhà nước cho
11.600 lượt cán bộ, công chức xã.
III. NỘI DUNG, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
1. Hoàn chỉnh Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Trong năm 2010 thực hiện lập, phê duyệt xong quy hoạch xây dựng nông
thôn mới ở 32 xã đã có đồ án quy hoạch xây dựng và 12 xã thuộc Chương trình
135; năm 2011, lập, phê duyệt xong quy hoạch xây dựng nông thôn mới các xã
còn lại.
Tổ chức rà soát, bổ sung các chỉ tiêu quy hoạch và tiến hành lập mới 2 loại
quy hoạch ở cấp xã đảm bảo phù hợp với các chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cụ thể:
- Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hoá, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: Bao gồm rà soát,

điều chỉnh bổ sung quy hoạch sản xuất nông - lâm thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp
và làng nghề trên địa bàn xã, bố trí sử dụng đất đai phù hợp, kết hợp với việc đầu
tư phát triển công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu (bảo quản, chế biến, tiêu thụ
sản phẩm ).
- Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội – môi trường theo chuẩn
mới; Quy hoạch bố trí dân cư, phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các
khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hoá tốt đẹp;
gắn việc bố trí dân cư với việc tránh các nguy cơ thiên tai:
+ Rà soát điều chỉnh quy hoạch các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội và môi trường trên địa bàn gắn với hệ thống của từng vùng
(bao gồm: bố trí mạng lưới giao thông, điện, trường học các cấp, trung tâm học
tập cộng đồng, điểm vui chơi dành cho trẻ em, trạm xá, trung tâm văn hoá - thể
thao xã, trung tâm văn hoá - thể thao thôn, bưu điện và hệ thống thông tin liên
lạc, chợ, nghĩa trang, bãi xử lý rác, hệ thống cấp nước sạch, hệ thống cấp, thoát
nước, công viên cây xanh, hồ nước sinh thái) theo tiêu chuẩn do các Bộ, Ngành
liên quan ban hành.
22
+ Quy hoạch chi tiết phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu
dân cư hiện có, có tính đến đặc thù của các dân tộc, vùng dễ bị ảnh của thiên
tai….
+ Xây dựng tài liệu và tổ chức đào tạo, tập huấn đội ngũ cán bộ làm công
tác quy hoạch cấp xã để có đủ năng lực lập, quản lý quy hoạch.
+ Nghiên cứu, ban hành thiết kế mẫu một số công trình hạ tầng công cộng,
như trụ sở xã, trạm xá, trường học để hướng dẫn, khuyến khích người dân tham
khảo, lựa chọn, quy mô xây dựng từng công trình cụ thể tùy thuộc số dân và điều
kiện thực tế của từng địa phương.
Đối với các xã thuộc các Khu kinh tế đã hoặc đang lập quy hoạch xây dựng
tiến hành rà soát lại quy hoạch, bổ sung quy hoạch để đạt tiêu chí nông thôn mới.
2. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
- Hoàn thiện cơ bản hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn

thôn xã đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và phát triển bền vững; Cải thiện điều
kiện sinh hoạt và ăn ở cho từng hộ dân theo hướng văn minh, sạch đẹp; đảm bảo
các mục tiêu đã đề ra.
- Cải tạo, nâng cấp, phát triển các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ sản
xuất, đời sống văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường trên địa bàn xã; Chỉnh trang
bộ mặt nông thôn, đảm bảo các điều kiện phát triển bền vững, như:
- Hệ thống đường giao thông từ liên gia đến liên thôn; hệ thống điện đến
hộ gia đình; hệ thống thuỷ lợi và nâng cấp các chợ.
- Sửa chữa, xây dựng trụ sở xã, trung tâm văn hoá – thể thao xã và thôn,
bản đạt chuẩn, bản đảm bảo được chức năng hội họp, sinh hoạt văn nghệ, thư
viện, vui chơi giải trí; xây dựng sân vận động xã, các khu thể thao thôn, tôn tạo
các công trình văn hoá lịch sử; Tiếp tục thực hiện Chương trình kiên cố hóa
trường, lớp theo hướng đạt chuẩn về cơ sở vật chất, phấn đấu đến năm 2015 có
70% trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia; xây dựng trạm y tế, điểm bưu điện
xã đạt chuẩn.
- Cải tạo hệ thống thoát nước thải; hệ thống cấp nước sinh hoạt hợp vệ
sinh đến các hộ; xây dựng các khu chăn nuôi, khu sản xuất tiểu thủ công nghiệp
để chuyển những hộ chăn nuôi quy mô lớn và sản xuất nghề tiểu thủ công
nghiệp có ô nhiễm ra khỏi khu dân cư; quy hoạch và quản lý nghĩa địa.
- Phát triển cải tạo hệ thống ao, hồ sinh thái; trồng cây xanh, cây hoa cảnh
nơi công cộng.
- Chỉnh trang nhà ở, bố trí sắp xếp các công trình phụ hợp lý; cải tạo tường
rào, đảm bảo vệ sinh, cảnh quan đẹp cho mỗi hộ gia đình nông thôn, làm cho
người dân yêu quê hương, gắn bó lâu dài với nông thôn.
3. Hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hoá và phát triển các hình thức
tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn để tăng thu nhập cho người
dân.
23
- Thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa, quy hoạch vùng sản xuất hàng
hoá tập trung dựa trên các tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và xây dựng

các giải pháp thực hiện quy hoạch.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao tỷ
trọng dịch vụ và công nghiệp. Ngành nông nghiệp chuyển dịch mạnh theo hướng
nâng cao tỷ trọng chăn nuôi, phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao, nông
nghiệp sinh thái. Khuyến khích phát triển các hoạt động dịch vụ, du lịch, chú
trọng khai thác các tiềm năng du lịch, khuyến khích phát triển du lịch sinh thái.
- Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn, ưu
tiên phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Khôi phục các làng nghề
truyền thống bị mai một, xây dựng, phát triển các làng nghề mới để thu hút lao
động.
- Hướng dẫn người dân lựa chọn sản xuất sản phẩm có lợi thế nhất, theo
hướng thị trường và hàng hoá. Nhà nước hỗ trợ đầu tư để phát triển ngành hàng
đó thành sản phẩm hàng hoá của địa phương. Đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông
nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp.
- Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, khai thác tối ưu các
nguồn lực để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đổi mới tổ chức, nội dung hoạt động cho HTX theo hướng HTX kinh
doanh tổng hợp bao gồm: hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; sản xuất
giống; cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm; dịch vụ sản xuất và đời sống. Củng cố
các tổ dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất, chế biến nông sản, sửa chữa điện, cơ khí để
có thể làm dịch vụ, thuận tiện, hiệu quả theo yêu cầu của các hộ.
Phát triển trang trại: Mỗi xã đều quy hoạch vùng đất cho công nghiệp tập
trung, nuôi thuỷ sản tập trung hoặc cây ăn quả đặc sản, công nghiệp… để phát
triển trang trại (áp dụng chính sách thuê đất như đối với đất dành cho công
nghiệp); Nhà nước hỗ trợ cho quy hoạch hạ tầng cơ bản (đường, điện, cấp nước
và xử lý chất thải…) cho các khu trang trại tập trung và hỗ trợ một phần vốn xây
dựng hạ tầng này; Hỗ trợ phòng chống dịch bệnh cho các trang trại; Hỗ trợ vốn
đào tạo kiến thức cho các chủ trang trại.
Thành lập các tổ dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất, chế biến nông sản, sửa
chữa điện, cơ khí để đáp ứng theo yêu cầu của các hộ dân trên địa bàn.

- Tăng cường khuyến nông đối với nông dân qua các hình thức bồi dưỡng
ngắn hạn, tham quan đầu bờ, bồi dưỡng kiến thức qua câu lạc bộ khuyến nông,
khuyến công ; Thử nghiệm đổi mới cách bồi dưỡng kiến thức khuyến nông
theo hướng coi trọng việc bồi dưỡng, hỗ trợ vốn cho nhóm nông dân nòng cốt
(chọn mỗi thôn, bản chừng 15 – 20 hộ làm ăn giỏi), bồi dưỡng đào tạo kỹ hơn
cho họ về kỹ thuật sản xuất cây, con hàng hoá có triển vọng; bồi dưỡng kiến
thức thị trường, thông tin thương mại, kỹ năng hợp tác để họ trở thành các
“đầu tầu” thúc đẩy đổi mới cách làm ăn ở địa phương; Thành lập quỹ khuyến
nông, quỹ bảo hiểm rủi ro để trợ giúp nông dân trong sản xuất nông nghiệp ở
nông thôn.
24
- Phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản tại xã dựa trên lợi thế, quy
hoạch hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, chất lượng tốt. Bên cạnh
đó phải quy hoạch và xây dựng nâng cấp chợ quê hoặc kết nối với chợ nông sản
đầu mối khu vực (làm giao thông đến chợ, dành gian hàng tại chợ) để thuận lợi
cho tiêu thụ nông sản và quảng bá thương hiệu nông sản cho các xã.
4. Phát triển văn hóa - xã hội
* Giáo dục – đào tạo
- Triển khai thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi;
duy trì, giữ vững và nâng cao chất lượng kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phân luồng học sinh sau tốt nghiệp
trung học cơ sở, hướng nghiệp để có 20 – 30% học sinh học trung cấp chuyên
nghiệp, học nghề dài hạn, 70 – 80% học trung học phổ thông.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên theo hướng: đủ về
số lượng, đảm bảo về chất lượng, đạt chuẩn về trình độ đào tạo, ổn định về đội
ngũ, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, góp phần quan trọng vào việc
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
- Tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp cho nông dân.
- Xây dựng kế hoạch để đào tạo nghề cho nông dân để chuyển lao động
nông nghiệp sang phi nông nghiệp.

- Tập huấn bồi dưỡng kiến thức tổ chức sản xuất, kiến thức quản lý và
kiến thức kinh tế thị trường cho cán bộ HTX, các chủ trang trại.
- Đào tạo kiến thức quản lý, tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới,
phát triển nông thôn cho cán bộ Đảng, chính quyền, các Đoàn thể từ xã đến các
thôn.
* Y tế
- Xây dựng hạ tầng về y tế đảm bảo đạt chuẩn.
- Tổ chức xây dựng mạng lưới y tế ở thôn, bản.
- Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung cán bộ y tế đủ và đạt chuẩn.
- Tổ chức cho người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế.
- Thường xuyên tổ chức các đợt tiêm phòng, phòng dịch cho cộng đồng.
* Văn hóa
- Xây dựng nông thôn có đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, phong
phú; Bản sắc văn hoá được gìn giữ, nhiệt tình cách mạng được phát huy, tạo sức
mạnh nội sinh cho phát triển bền vững.
- Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hoá, thể thao cấp xã và
thôn, bản: Quy hoạch và xây dựng 1 điểm chơi thể thao ở thôn, bản gắn với
trung tâm văn hoá thể thao thôn. Đảm bảo điều kiện vui chơi hàng ngày cho mọi
lứa tuổi (bóng đá mini, cầu lông, bóng chuyền, bóng bàn, cờ tướng ); mỗi thôn
có 1 trung tâm văn hoá thể thao đảm đương chức năng hội họp và học tập của
25

×