BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM
***********************
BÁO CÁO KHOA HỌC
Đề tài:
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH VƯỜN ƯƠM BIO-CITY CHO
NGÀNH CHẾ BIẾN CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TẠI PHÂN VIỆN
CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH (BÌNH DƯƠNG)
Chủ nhiệm đề tài: KS. Nguyễn Anh Quân
8791
TP. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2011
1
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM
***********************
BÁO CÁO KHOA HỌC
Đề tài cấp Bộ năm 2010:
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH VƯỜN ƯƠM BIO-CITY CHO
NGÀNH CHẾ BIẾN CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TẠI PHÂN VIỆN
CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH (BÌNH DƯƠNG)
Chủ nhiệm đề tài: KS. Nguyễn Anh Quân
Các cộng tác viên:
CƠ QUAN CHỦ TRÌ
2
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Vườn ươm doanh nghiệp
Hình 2: Tiêu thụ thực phẩm tại Việt Nam 2004 – 2014
Hình 3: Mô hình hoạt động của vườn ươm
Hình 4: Các giai đoạn ươm tạo
Hình 5: Quy trình tuyển chọn ươm tạo
Hình 6: Sơ đồ quy trình tuyển chọn
Hình 7: Sơ đồ mô hình cấu trúc cơ quan quản lý vườn ươm Biocity
3
LỜI MỞ ĐẦU
Khái niệm ươm tạo doanh nghiệp bắt đầu xuất hiện từ năm 1959 tại Hoa
Kỳ, gắn với sự kiện khai trương Trung tâm công nghiệp Batavia, New York.
Từ những năm 1980, số lượng và loại hình các vườn ươm doanh nghiệp đã
phát triển mạnh tại nước này và sau đó lan rộng sang châu Âu và các nước
đang phát triển ở châu Á khác.
Với quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng và nhu cầ
u thực
phẩm chất lượng ngày một tăng, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đang
tăng trưởng rất mạnh trên toàn thế giới. Vườm ươm hỗ trợ các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm cũng được các nước
trên thế giới quan tâm phát triển. Các nước đi đầu trong lĩnh vực này là Mỹ,
Anh, Nhật, Trung Quốc.
Tại các nước này, vườm
ươm có thể hỗ trợ các doanh nghiệp: tư vấn về
sử dụng và vận hành máy móc, dây chuyền sản xuất chế biến thực phẩm; tư
vấn áp dụng quy trình sản xuất sạch; tìm đối tác để chuyển giao công nghệ
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; tư vấn đào tạo về nâng cao kỹ năng quản lý
doanh nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, marketing, tiếp cận nguồn tài chính,
quản lý tài chính, lập k
ế hoạch và kiểm soát sản xuất, vệ sinh thực phẩm, các
vấn đề về công nghệ và chất lượng sản phẩm, bán hàng, thương hiệu và định
vị sản phẩm, quảng bá doanh nghiệp, ; tiếp cận mạng lưới kinh doanh - nhân
tố quan trọng nhất cho sự phát triển của các doanh nghiệp mới thành lập như
mạng lưới các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các nhà cung cấp nguyên liệu
sản xuất, các nhà phân phối sản ph
ẩm, các nhà chuyển giao công nghệ. Đồng
thời, các vườn ươm doanh nghiệp còn hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao kỹ năng
quản lý doanh nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, marketing, Sau 2 - 3 năm
các doanh nghiệp có thể tách khỏi vườn ươm hoạt động độc lập và nhường
chỗ cho các doanh nghiệp mới thành lập khác.
4
Nước Mỹ, nơi có trên 1.000 vườn ươm doanh nghiệp, đã giúp Google
hay Yahoo thành công nhờ sự hỗ trợ từ các vườn ươm. “Trung tâm sáng tạo
Thượng Hải” của Trung Quốc là một vườn ươm, không những ươm tạo doanh
nghiệp trong nước, mà còn “ươm tạo” các doanh nghiệp quốc tế. Các công ty
nước ngoài ngày đầu bỡ ngỡ đến Thượng Hải có thể thuê một văn phòng làm
việc ở đây với giá rẻ bấ
t ngờ so với thị trường. Đó cũng là ẩn ý để doanh
nghiệp mới thành lập của Trung Quốc có điều kiện cọ sát với các doanh
nghiệp nước ngoài ngay trong vườn ươm, chuẩn bị tinh thần vươn ra thị
trường quốc tế.
Tại Vương quốc Anh, BioCity Nottingham được ví là ngôi nhà chung
đáp ứng các nhu cầu khác nhau về phòng thí nghiệm và trang thiết bị văn
phòng của rất nhiều doanh nghiệp khoa học mớ
i khởi sự thuộc các lĩnh vực
khác nhau như: Y tế, công nghệ nano, công nghệ sinh học, và dịch vụ chuyên
môn đặc biệt
Hiện nay các nước trên thế giới đang tích cực đẩy mạnh phát triển vườn
ươm doanh nghiệp. Ngay cả các nước trong khu vực châu Á như Trung Quốc,
Ấn Độ, Thái Lan, Philipine cũng có tới hàng trăm vườn ươm khác nhau. Tuy
nhiên, tại Việt Nam, vấn đề ươm tạo doanh nghiệp mới bắt đầ
u nhen nhóm từ
gần mười năm trở lại đây.
Thực tế, Việt Nam đang trở thành trung tâm chế biến thực phẩm khi tốc
độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt tới 20-30%. Việc hỗ trợ, phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đã
trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hộ
i của nước ta. Do đó, việc xây dựng các cơ sở ươm tạo doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cũng được coi là một công cụ rất hữu
hiệu để hỗ trợ và gây dựng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiềm năng.
Hiện nay cả nước ta mới chỉ có ”Vườn ươm doanh nghiệp Hà Nội” (HBI)
hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ các doanh nghiệp chế bi
ến thực phẩm. Đây là
mô hình hoạt động phi lợi nhuận với do Uỷ ban EC tài trợ với mục đích cung
5
cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập, mới khởi sự trong
ngành chế biến và đóng gói thực phẩm.
Mặc dù được đánh giá là có triển vọng, nhưng để cho vườn ươm doanh
nghiệp của Việt Nam phát triển ngang bằng với các nước trong khu vực và
trên thế giới, ngoài việc có một thị trường tốt, thì điều quan trọng nhất là phải
có sự hỗ trợ
từ Chính phủ, sự tham gia mạnh mẽ của các quỹ đầu tư mạo
hiểm; các tập đoàn lớn sẵn sàng tiếp nhận những doanh nghiệp nhỏ và vừa,
những công nghệ mới đượcươm tạo.
Với sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế
biến công nghiệp thực phẩm khu vực phía Nam nước ta cả về số lượng lẫn
quy mô, đồng thời cùng với những lợi ích cụ thể mà vườn ươm đem lại cho sự
phát triển của doanh nghiệp nên việc hình thành các vườn ươm này là hết sức
cần thiết.
Vì vậy, triển khai Đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình vườn ươm bio-
city cho ngành chế biến công nghiệp thực phẩm tại Phân viện Công nghiệp
thực phẩm TPHCM (Bình Dương)” là nhiệm vụ phù hợp với định hướng của
Chính phủ để phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công
nghiệp chế biến thể hiện tại Quyết định số 14/2007/QĐ-TTg củ
a Thủ tướng
Chính phủ ngày 25 tháng 01 năm 2007 về việc phê duyệt “Đề án phát triển và
ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đến năm
2020”.
6
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm, quá trình hình thành, phát triển vườn ươm doanh
nghiệp trên thế giới
Theo định nghĩa của Hiệp hội ươm tạo doanh nghiệp quốc gia Mỹ
(NBIA), “Vườn ươm doanh nghiệp là nơi nuôi dưỡng của các doanh nghiệp,
giúp chúng sống sót và lớn lên trong giai đoạn khởi sự bằng cách cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các nguồn lực cần thiết cho các doanh
nghiệp non trẻ này”.
Theo nhiề
u nghiên cứu, khái niệm “ươm tạo doanh nghiệp” bắt đầu
xuất hiện từ năm 1959 tại Hoa Kỳ, gắn với sự kiện khai trương Trung tâm
công nghiệp Batavia, New York. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, số lượng
và loại hình vườn ươm doanh nghiệp đã phát triển mạnh tại nước này, sau đó
lan rộng sang châu Âu và châu Á. Tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận về vai trò,
chức năng của việc ươm tạ
o doanh nghiệp trong chính sách phát triển doanh
nghiệp và điều kiện kinh tế, khoa học và công nghệ (KH&CN) từng thời kỳ,
mà mỗi quốc gia có những quan điểm, cách hiểu khác nhau, nhưng khái quát
chung lại, vườn ươm doanh nghiệp hoạt động có mục tiêu cơ bản là: 1) Cung
cấp có thời hạn một hệ thống các dịch vụ phát triển kinh doanh chất lượng cao
cho các doanh nghiệp với giá ưu đãi hoặc miễn phí; 2) Giúp các doanh nghiệp
kết n
ối tới các nguồn vốn ưu đãi và các trường đại học, viện nghiên cứu, khu
công nghệ cao; 3) Giúp các doanh nghiệp mở rộng mạng lưới liên kết kinh
doanh rộng lớn trong và ngoài cơ sơ ươm tạo.
Hiện nay, các nước trên thế giới đang tích cực đẩy mạnh phát triển
vườn ươm doanh nghiệp. Số lượng vườn ươm trên thế giới phát triển gần như
theo cấp số nhân. Trên thế gi
ới hiện có khoảng 5.000 vườn ươm doanh nghiệp
và khoảng hơn một phần ba là các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ. Ở Mỹ
hiện có trên 1.100 vườn ươm. Riêng trong năm 2001, các vườn ươm ở Bắc
Mỹ đã hỗ trợ trên 35.000 doanh nghiệp khởi sự, cung cấp 82.000 chỗ làm mới
và tạo ra doanh thu năm trên 7 tỷ USD. Chi phí để tạo ra một việc làm mới
trong vườn ươm là 1.100 USD so với 10.000 USD ở bên ngoài. Ước tính tại
7
Mỹ 1 USD đầu tư vào vườn ươm và các doanh nghiệp đang ươm tạo hoặc đã
tốt nghiệp sẽ tạo ra khoảng 30 USD thuế doanh thu, và tỷ lệ sống sót của các
doanh nghiệp được ươm tạo là trên 90%, một con số rất cao nếu so với chỉ
20% còn hoạt động sau 3 năm của các doanh nghiệp bên ngoài. Ở Châu Âu có
trên 1.200 vườn ươm, tạo ra khoảng 30.000 việc làm mới mỗi năm với chi phí
trung bình để tạ
o một việc làm mới là 4.000 euro. Tại Trung Quốc, đến năm
2005 đã có 534 vườn ươm với tổng diện tích 19,7 triệu m2, thực hiện ươm tạo
cho gần 40.000 doanh nghiệp, hơn 15.000 đã tốt nghiệp và tạo ra trên 700
nghìn việc làm. Các vườn ươm của Trung Quốc đã giúp tỷ lệ thương mại hóa
nghiên cứu khoa học tăng từ 25-30% lên trên 70%, số lượng bản quyền sở
hữu trí tuệ gia tăng đ
áng kể, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao với sự
đóng góp của nhiều sinh viên du học và học giả Hoa kiều trở về. Đến năm
2004, 32 vườn ươm theo dạng công viên phần mềm đã ươm trên 12 nghìn
doanh nghiệp, tổng doanh số chiếm 55,5% cả ngành, 45,7% lượng xuất khẩu,
71,9% lượng lao động, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 50%/năm. Theo
thống kê, một phần tư số doanh nghiệp công ngh
ệ vừa và nhỏ của TQ xuất
thân từ các vườn ươm. Về tác động của vườn ươm làm tăng hiệu quả thông
qua một số tiêu chí:
Nếu các vườn ươm của Trung Quốc đã giúp tỷ lệ thương mại hóa
nghiên cứu khoa học tăng từ 25-30% lên trên 70%, số lượng bản quyền sở
hữu trí tuệ gia tăng đáng kể, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao với s
ự
đóng góp của nhiều sinh viên du học và học giả Hoa kiều trở về.
Các vườn ươm Trung Quốc đã có những đóng góp to lớn như:
- Giúp tỷ lệ thương mại hóa nghiên cứu khoa học tăng thêm, giúp tiết
kiệm đầu tư cho nghiên cưu khoa học công nghệ hàng năm.
- Số lượng bản quyền sở hữu trí tuệ gia tăng đáng kể;
- Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao v
ới sự đóng góp của nhiều
sinh viên du học và học giả Hoa kiều trở về.
Ngay cả các nước khác như, Ấn Độ, Thái Lan, PhiliPine cũng có tới
hàng trăm vườn ươm khác nhau. Tuy nhiên, tại Việt Nam, vấn đề ươm tạo
8
doanh nghiệp mới bắt đầu nhen nhóm từ vài năm trở lại đây. “Trung tâm sáng
tạo Thượng Hải” là một vườn ươm, không những ươm tạo doanh nghiệp trong
nước, mà còn “ươm tạo” các doanh nghiệp quốc tế. Các công ty nước ngoài
ngày đầu bỡ ngỡ đến Thượng Hải có thể thuê một văn phòng làm việc ở đây
với giá rẻ bất ngờ so với thị trường. Đó cũng là ẩn ý
để doanh nghiệp mới
thành lập của Trung Quốc có điều kiện cọ sát với các doanh nghiệp nước
ngoài ngay trong vườn ươm, chuẩn bị tinh thần vươn ra thị trường quốc tế.
Gợi ý từ khu của Thượng Hải có thể được xem xét để học hỏi trong việc xây
dựng vườn ươm tại Việt Nam.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển vườn ươm doanh nghiệp ở
Việt Nam
Từ “incubator” du nhậ
p vào Việt Nam từ những năm 1996 - 1997 khi
nói về các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi đó, danh từ này
được dịch ra tiếng Việt là “lồng ấp”. Sau đó, cụm từ “Lồng ấp doanh nghiệp”
đã được thay bằng một cụm từ mỹ miều hơn - “Vườn ươm doanh nghiệp”.
Đến nay, khái niệm này không còn xa lạ đối với những người làm xúc tiến
phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam.
Mục đích chính mà vườn ươm mang lại là: Các ý tưởng mới của các
bạn trẻ sẽ được nâng đỡ trong vườn ươm doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa các hoạt động đối với vườn ươm doanh nghiệp nói
chung như sau:
9
Hình 1: Vườn ươm doanh nghiệp
Không thể so sánh với nước Mỹ, nơi có trên 1.000 vườn ươm doanh
nghiệp, nhưng con số 8 khu nhà được gọi là “vườm ươm doanh nghiệp” mới
được hình thành ở Việt Nam thì quả là quá ít, và hơn thế nữa cũng chưa mấy
người biết đến chúng. Có quan niệm “nhỏ là đẹp”, nhưng nhỏ cũng có nghĩa
là doanh nghiệp phải đối diện với đủ cái khó từ chính quy mô nhỏ bé củ
a
mình. Trừ lợi thế linh hoạt, uyển chuyển, các doanh nghiệp mới thành lập khó
từ nhân sự, vốn, đến cả vấn đề muôn thủa là mặt bằng kinh doanh. Đó là chưa
kể, DNNVV hầu hết khởi nghiệp ở bước đang thử nghiệm công nghệ mới mà
chưa biết có vượt qua được “thung lũng tử thần” hay không? Nhưng một khi
họ đã thành công thì giá trị gia tăng sẽ không phả
i là 1 hay 2 lần chi phí mà có
khi lên tới cả trăm lần. Vậy nên, những quỹ đầu tư mạo hiểm có ý nghĩa
nhiều khi sống còn với các DNNVV.
Chính bởi trăm sự khó khăn trong những ngày đầu mới “nứt vỏ hạt” ấy
nên DNNVV mới cần đến khu vườn ươm, nơi có bàn tay nâng đỡ của các cơ
quan chức năng, các nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp, th
ậm chí của cả các doanh nghiệp lớn đã có kinh nghiệm. Cây lớn
không thể ở mãi trong vườn ươm. Những khu công nghiệp, cụm công nghiệp
sẽ là nơi doanh nghiệp vươn tới sau khi đã cứng cỏi, “ tốt nghiệp” vườn ươm.
Các “vườn ươm doanh nghiệp” xuất hiện tại Việt Nam cũng vì mục tiêu này.
10
Mặc dù vậy, có lẽ đối với đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) Việt Nam, “vườn ươm doanh nghiệp” vẫn còn là một khái niệm rất
xa vời. Hiện chỉ có 8 “vườm ươm doanh nghiệp” mới được hình thành ở Việt
Nam. DNNVV hầu hết khởi nghiệp ở bước đang thử nghiệm công nghệ mới
mà chưa biết có vượt qua được được giai đoạn khởi đầu khó kh
ăn hay không.
Vì vậy, DNNVV rất cần đến khu vườn ươm, nơi có bàn tay nâng đỡ của các
cơ quan chức năng, các nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp, thậm chí của cả các doanh nghiệp lớn đã có kinh nghiệm. Cây
lớn không thể ở mãi trong vườn ươm. Những khu công nghiệp, cụm công
nghiệp là nơi doanh nghiệp vươn tới sau khi đã cứng cỏi, “tốt nghiệp” vườn
ươm. Các “vườn ươm doanh nghiệp” xuất hiện tại Việt Nam cũng vì mục tiêu
này.
Khác với các hình thức hỗ trợ DNNVV khác, vườn ươm doanh nghiệp
phải là nơi hội tụ các dịch vụ phát triển kinh doanh, trong đó khó khăn về mặt
bằng sản xuất cũng như địa điểm làm việc của doanh nghiệp được hỗ trợ giải
quyết một cách hiệu quả. Bởi
đây là một trong những khó khăn lớn nhất của
đối tượng doanh nghiệp này. Hiện nay có nhiều tỉnh, thành đề ra các khu quy
hoạch cho phát triển khu, cụm công nghiệp. Nhưng lại hiếm có nơi nào xác
định đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp cho DNNVV, đầu tư vào các vườn
ươm doanh nghiệp. Có nhiều nơi, DNNVV không thể vào được các khu công
nghiệp vì không gánh được chi phí cho cả ngàn mét vuông trên những lô đất
đã và đang được quy hoạch trong các khu công nghiệp hiện nay. Vì thế,
doanh nghiệp v
ẫn thiếu đất, còn các khu công nghiệp vẫn “thừa” đất. Các khu
văn phòng cho thuê cao cấp chỉ hợp túi tiền của các doanh nghiệp lớn. Có biết
bao khu đô thị mới ra đời nhưng hầu như rất ít quy hoạch khu văn phòng cho
các doanh nghiệp nhỏ hay khu chợ dành cho các hộ buôn bán nhỏ. Đó là lý do
mà các doanh nghiệp phải chọn giải pháp “văn phòng doanh nghiệp giữa trời”
(trong khu chung cư cao tầng) dù không phù hợp với khuyến cáo của Bộ Xây
dự
ng về việc hạn chế sử dụng căn hộ trong chung cư để làm văn phòng.
11
Nếu tình trạng các địa phương không quan tâm, đầu tư xây dựng các
“vườn ươm doanh nghiệp” thì giấc mơ về “vườn ươm”đúng nghĩa của các
DNNVV vẫn mãi xa vời.
Năm 2006, Câu lạc bộ ươm tạo doanh nghiệp được thành lập với 11
thành viên, tuy nhiên do chính sách hỗ trợ đang trong quá trình hoàn thiện nên
chưa phát triển mạnh. Năm 2007, phong trào vườn ươm có dấu hiệu phát triển
lại, nhưng do khủng hoảng kinh tế nên
đã lắng xuống. Thế nhưng ở nhiều
nước trên thế giới, do có một hành lang pháp lý ổn định và chính sách hỗ trợ
tốt nên các vườn ươm coi cuộc khủng hoảng hiện nay là một cơ hội tốt để tạo
nguồn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp họ phục hồi kinh tế, tạo công
ăn việc làm.
Hiện “thị trường” vườn ươm của Việt Nam đang có dấu hiệ
u ấm dần
lên. Các quỹ đầu tư mạo hiểm như IDG, DFJ, Vinacapital đang tăng vốn
đầu tư và đẩy mạnh việc tìm kiếm các công ty để đầu tư. Các tập đoàn lớn
như FPT cũng đang bắt đầu tìm đến các nguồn ươm tạo, giống như thời kỳ
2008. Một tín hiệu đáng mừng nữa là Luật Công nghệ cao đã được Quốc hội
thông qua, các bộ, ban, ngành hay VCCI
đều có những dự án, chiến dịch
lớn để đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Tất cả những tín hiệu tích
cực đó sẽ giúp cho các vườn ươm doanh nghiệp khởi động và lạc quan hơn
trong thời gian tới.
Chương trình đào tạo E - Learning của TOPICA đã ươm tạo 9 doanh
nghiệp hạt giống, trong đó 2 doanh nghiệp đã “tốt nghiệp”, 4 doanh nghiệp
nhận đượ
c đầu tư hàng tỷ đồng và các doanh nghiệp còn lại đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện. TOPICA cũng đã xúc tiến hoạt động trên khắp
64 tỉnh thành qua các trung tâm TOPICA64 và hợp tác với các doanh nghiệp
địa phương. Có tới 80% trung tâm đang hoạt động rất tốt. Trong thời gian
qua, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên mô hình vườn ươm của
TOPICA không được nhân rộng lên. Tuy nhiên, trong thời gian tới, ban lãnh
đạo của TOPICA đang lên kế hoạch áp dụng l
ại mô hình vườn ươm nhân tạo
trước đó. Đồng thời TOPICA cũng sẽ huy động sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế
12
giới và các tổ chức khác để triển khai khóa đào tạo học vấn cho các đơn vị
vườn ươm trong nước và hỗ trợ các đơn vị xây dựng vườn ươm nhân tạo của
họ. TOPICA cũng đã hợp tác với Hội Doanh nghiệp trẻ huy động được 109
doanh nghiệp tham gia đào tạo, dự kiến đến năm 2010 con số này sẽ là 1.000
doanh nghiệp. Học viên theo học các khóa học trực tuyến s
ẽ chỉ phải lên lớp 1
lần trong 1 tháng và thực hành trong môi trường 3D với kiến thức, kỹ năng
thực tế cao.
Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh trực
thuộc Ban Quản lý Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, do Ủy ban
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thành lập vào tháng 8 năm 2006. Vườn
ươm doanh nghiệp công nghệ cao được thành lập với mục tiêu cơ bản và cốt
lõi là “nuôi dưỡng”, hỗ trợ cá nhân, nhóm hoặc tổ chứ
c có sở hữu và năng lực
công nghệ, có ý tưởng kinh doanh tốt dựa trên công nghệ, tạo điều kiện cho
họ vượt qua những khó khăn ban đầu, phát triển theo kế hoạch kinh doanh
được đề ra và trưởng thành vững vàng.
Vườn ươm Doanh nghiệp công nghệ cao được đầu tư để xây dựng cơ sở
hạ tầng tiêu chuẩn quốc tế, lắp đặt các trang thiết bị văn phòng, hệ thống
mạng viễn thông và các phòng thí nghiệm hiện đại, chuyên nghiệp.
Các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp cũng sẽ
được Vườn ươm thiết kế đa dạng, quy mô và chất lượng nhằm phục vụ tốt
nhất cho công tác ươm tạo doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, một số cơ sở ươm tạo doanh nghiệp cũng đã rải rác hình
thành, tuy nhiên đến nay vẫn còn tương đối hạn chế về số lượng, với thời gian
hoạt động chỉ mới từ 1 đến 5 năm. Nhìn chung, các cơ sơ ươm tạo doanh
nghiệp này vẫn còn đang trong giai đoạn đầu phát triển, nhưng cũng đã có
một số cơ sơ bắt đầu hoạt động có hiệu quả như: Vườn ươm công nghệ FPT,
Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ Tinh Vân, Vườn ươm CRC (Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội), Vườn ươm Phú Thọ (Trường Đại học Bách khoa
thành phố Hồ Chí Minh), Vườn ươm doanh nghiệp chế biến thực phẩm Hà
Nội (HBI), Vườn ươm doanh nghiệp phần mềm thành phố Hồ Chí Minh
13
(SBI), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao Hoà Lạc (Ban quản lý
Khu Công nghệ cao Hoà Lạc).
Các dịch vụ phát triển kinh doanh đang được thực hiện gồm:
- Các dịch vụ tư vấn tại chỗ về phát triển kinh doanh để điều chỉnh, cập
nhật và đánh giá các kế hoạch kinh doanh hiện tại và hỗ trợ khách hàng ươm
tạo trong tất cả các lĩnh vực liên quan.
- Khách hàng ươm tạo được tiếp cận mạng lưới của SBI gồm các
chuyên gia tư v
ấn địa phương, các giảng viên, các đối tác chiến lược, thành
viên của Công viên phần mềm Quang Trung và các khách hàng khác của SBI,
các quan hệ kinh doanh và quan hệ trong khu vực cơ quan nhà nước.
- Hỗ trợ trong xác định, tuyển chọn, tuyển dụng, đào tạo và giữ nhân
viên cho khách hàng ươm tạo và các khách hàng bên ngoài.
- Đào tạo theo mục tiêu trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật khác nhau
dựa trên nguyên tắc học kết hợp với thực hành.
- Tổ chức các sự kiệ
n và các cuộc gặp gỡ nhằm giúp các khách hàng
ươm tạo liên kết và trưng bày các sản phẩm và dịch vụ.
- Tổ chức các hoạt động xúc tiến/quảng cáo cho các khách hàng ươm
tạo và khách hàng bên ngoài; thiết kế các tài liệu quảng bá, chuẩn bị cho triển
lãm.
- Cung cấp các dịch vụ thư ký, hành chính cho các khách hàng ươm
tạo.
- Các dịch vụ khác.
Hiện “thị trường” vườn ươm của Việt Nam đang có dấu hiệu ấm dầ
n
lên. Các quỹ đầu tư mạo hiểm như IDG, DFJ, Vinacapital đang tăng vốn
đầu tư và đẩy mạnh việc tìm kiếm các công ty để đầu tư. Các tập đoàn lớn
như FPT cũng đang bắt đầu tìm đến các nguồn ươm tạo, giống như thời kỳ
2008. Một tín hiệu đáng mừng nữa là Luật Công nghệ cao đã được Quốc hội
thông qua, các bộ, ban, ngành hay VCCI đều có những d
ự án, chiến dịch
lớn để đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Tất cả những tín hiệu tích
14
cực đó sẽ giúp cho các vườn ươm doanh nghiệp khởi động và lạc quan hơn
trong thời gian tới.
1.3. Tính chất hoạt động của các vườn ươm
1.3.1. Tính chất hoạt động phi lợi nhuận
Vườn ươm doanh nghiệp được coi là công cụ phát triển hiệu quả, được
thiết kế để thúc đẩy sự phát triển và thành công của doanh nghiệp thông qua
việc cung cấp các dịch vụ và các nguồn lực hỗ
trợ. Mục tiêu chính này nhằm
tạo ra các doanh nghiệp hoạt động thành công trên thị trường sau khi rời khỏi
vườn ươm. Trong đa số trường hợp, mục đích này gắn liền với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN của các quốc gia, hoặc chiến lược phát
triển kinh doanh của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong trường
hợp phát triển các doanh nghiệp tiềm năng, doanh nghiệp công nghệ
, thương
mại hoá công nghệ, hiện thực hoá ý tưởng kinh doanh…, nên các vườn ươm
thường nhận được sự phối hợp, hỗ trợ, tài trợ… từ phía các tập đoàn, doanh
nghiệp, quỹ đầu tư, ngân sách gắn với mục tiêu ươm tạo cụ thể. Theo đó,
phần lớn các vườn ươm hoạt động phi lợi nhuận, nhằm tạo ra được các điều
kiện ưu đ
ãi thuận lợi nhất cho doanh nghiệp được ươm tạo.
1.3.2. Mô hình tổ chức và sở hữu
Tại nhiều quốc gia, hầu hết các vườn ươm doanh nghiệp được thành lập
và vận hành với sự tham gia của Nhà nước ở các cấp độ khác nhau. Tuy
nhiên, cũng tồn tại khá phổ biến mô hình vườn ươm doanh nghiệp hoàn toàn
thuộc sở hữu tư nhân, hoạt động độc lập về tài chính, đầu tư
, kinh doanh. Nhà
nước hoặc các nhà tài trợ khác hỗ trợ ươm tạo các doanh nghiệp tiềm năng
thông qua cơ chế và dịch vụ của vườn ươm. Ở Việt Nam, một số cơ sở ươm
tạo doanh nghiệp hiện đang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu
hạn, có sự hỗ trợ của Nhà nước và tài trợ của EU (Vườn ươm HBI và SBI);
hoặc đơn vị sự nghiệp có thu thuộ
c sở hữu nhà nước (Vươn ươm doanh
nghiệp công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm ươm tạo doanh
nghiệp công nghệ cao Hoà Lạc). Nhưng cũng có mô hình ươm tạo thuộc sở
15
hữu tư nhân (Vườn ươm công nghệ FPT, Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ
Tinh Vân).
Qua thực tế hoạt động và trong điều kiện đang phát triển của Việt Nam
hiện nay, mô hình lý tưởng để điều hành vườn ươm doanh nghiệp trong tương
lai nên là mô hình thực thể công - tư theo hình thức doanh nghiệp. Điều này là
hợp lý và cần thiết để nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ về
mặt chính sách,
đảm bảo sự phát triển bền vững của vườn ươm và cung cấp những ưu đãi cho
vườn ươm như: Miễn/giảm thuế cho các doanh nghiệp ươm tạo, kéo dài thời
gian khấu hao cho các tài sản cố định của vườn ươm, khuyến khích các nhà
tài trợ cho vườn ươm, tạo điều kiện thuận lợi cho vườn ươm kết nối kinh
doanh, tiếp cận tài chính (vốn ngân hàng) cho các doanh nghi
ệp được ươm
tạo.
1.3.3. Tính bền vững
Tuy có vai trò quan trọng như trên, việc hình thành và duy trì hoạt động
vườn ươm doanh nghiệp trong một số trường hợp cần có sự cân nhắc “thấu
đáo” về các chi phí - lợi ích. Trước hết, chi phí thành lập và vận hành các
vườn ươm là rất đáng kể. Tại Mỹ, để tạo ra một việc làm tại các vườn ươm
được nhà nước hỗ trợ hoạt
động cần chi phí là 1.100 USD; chi phí vận hành
trung bình hàng năm cho một vườn ươm doanh nghiệp công nghệ khoảng
350.000 USD. Mức chi phí tại Đức thậm chí còn lớn hơn nhiều, trong khi
hiệu quả thấp hơn, tỷ lệ ươm tạo thành công chỉ đạt từ 20-30%, tùy theo
ngành nghề.
Với chi phí tương đối lớn như vậy, nên hầu hết trong giai đoạn đầu hoạt
động, tự bản thân các vườn ươm không bù đắp được toàn b
ộ chi phí và buộc
phải tham gia vào những chương trình đặc biệt. Đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam, nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các DNVVN còn
hạn chế, nên nếu phải dùng nguồn chi ngân sách nhà nước (do người dân và
doanh nghiệp đóng thuế) để hỗ trợ cho một nhóm doanh nghiệp (dẫu đã được
lựa chọn khắt khe) là khó nhận được sự đồng thuận rộng rãi, nhất là khi nhận
thứ
c về lợi ích của các vườn ươm mang lại còn hạn chế.
16
Để tồn tại và phát triển bền vững, các vườn ươm trước hết phải đảm
bảo đầu tư thích đáng cơ sở vật chất và có đội ngũ nhân lực phù hợp. Đây là
nền tảng quan trọng để vườn ươm có thể cung cấp được dịch vụ chất lượng
cao, hấp dẫn, đồng thời phát triển thêm các dịch vụ gia tăng nhằm tăng thêm
ngu
ồn thu cho vườn ươm, cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ phát triển kinh
doanh để có thể trang trải chi phí trong phạm vi dự kiến.
1.4. Tiềm năng xây dựng mô hình vườn ươm doanh nghiệp chế biến
thực phẩm tại Việt Nam
Theo dự báo của Tổ chức Giám sát Kinh doanh Quốc tế (BMI), tổng
mức tiêu dùng thực phẩm ở các thị trường Việt Nam trong giai đoạn 2009-
2014 sẽ tăng 67,3%, riêng trong n
ăm 2014, mức tiêu dùng này ước tính đạt
426.997 tỷ đồng. Mức tiêu thụ bình quân theo đầu người ước đạt 56,4%
(tương đương 4.537.628 đồng) vào năm 2014.
Hình 2: Tiêu thụ thực phẩm tại Việt Nam 2004 - 2014
Tuy nhiên tính theo GDP thì mức tiêu dùng thực phẩm có thể sẽ giảm
nhẹ từ 15,5% (năm 2009) xuống 14,8% (năm 2014). Điều này cho thấy thu
nhập của người dân tăng nhưng ở mức tương đối chậm. Nền kinh tế phát triển
cộng với dòng vốn đầu tư vào các ngành thực phẩm, đồ uống và công nghiệp
17
bán lẻ tăng sẽ là tiền đề thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng thực phẩm. Trong
ngắn hạn, giá cả các mặt hàng thực phẩm dự báo vẫn ở mức thấp. Tuy nhiên
mức giá thấp mà các nhà bán lẻ áp dụng hiện này vẫn cao hơn rất nhiều so với
khả năng tài chính của người tiêu dùng trung bình ở nông thôn.
Với đà tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 7,5%/năm trong suốt 10 năm
qua, lực lượng tầ
ng lớp trung lưu ngày càng tăng tại Việt Nam kéo theo nhu
cầu tiêu dùng về ẩm thực tăng lên nhanh chóng. Tất nhiên, nền kinh tế Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu nhưng chính phủ Việt Nam đã
tìm ra các giải pháp phù hợp giúp nền kinh tế duy trì ổn định. Gần đây BMI
đã có đánh giá lạc quan hơn về mức tăng trưởng của Việt Nam đạt 4,4% so
với dự báo ban đầu là 2,9%. Việt Nam sẽ tr
ở về quỹ đạo tăng trưởng vào năm
2011 do đặc điểm hiện nay của Việt nam là dân số trẻ và mật độ tăng cao nên
Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ tiềm năng về các sản phẩm đồ
uống và thực phẩm có thương hiệu trong trung hạn.
Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong cơ cấu giá tr
ị sản xuất công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh trong
những năm qua. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Việt Nam ngày
càng thể hiện vai trò quan trọng đối với nền kinh tế đất nước. Hiện các
DNVVN chiếm khoảng 96,5% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp
trên 40% GDP và là khu vực phát triển nhanh nhất, góp phần quan trọng trong
tạo việc làm mới, giảm đói nghèo ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Việc hỗ trợ, phát triển DNVVN đã trở
thành một trong những nhiệm vụ
trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó,
các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp (Business Incubator) được coi là một công
cụ rất hữu hiệu để hỗ trợ và gây dựng phát triển các DNVVN tiềm năng.
18
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng điều tra
- Các doanh nghiêp cụ thể hoạt động trong lĩnh vực chế biến thực phẩm
khu vực miền Nam Việt Nam
- Các đối tượng khởi nghiệp ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
2.2. Phương pháp điều tra khảo sát
a. Khảo sát trực tiếp:
- Phiếu điều tra, phỏng vấn các doanh nghiêp cụ thể ho
ạt động trong
lĩnh vực chế biến thực phẩm khu vực miền Nam Việt Nam.
+ Phỏng vấn trực tiếp các đối tượng có nhu cầu khởi nghiệp ngành
công nghiệp thực phẩm
b. Khảo sát gián tiếp:
Thu thập thông tin thông qua Internet, các tổ chức trong và ngoài nước
(Sở CôngThương, Hiệp hội DN vừa và nhỏ).
2.3. Phương pháp phân tích đánh giá chuyên gia
- Phương pháp kế thừa: nghiên cứu học tập các yếu tố dẫn đế
n thành
công của các mô hình vườn ươm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế
biến thực phẩm trong và ngoài nước.
- Phương pháp chuyên gia: nghiên cứu xây dựng mô hình vườn ươm
bio-city cho ngành chế biến công nghiệp thực phẩm cho các tỉnh phía Nam.
19
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Nghiên cứu khảo sát, thu thập thông tin về các mô hình vườn ươm
biocity ứng dụng cho ngành công nghiệp thực phẩm trên thế giới và
trong nước
3.1.1. Mô hình vườn ươm biocity ứng dụng cho ngành công nghiệp thực
phẩm trên thế giới.
Từ nửa cuối thế kỷ 19, các vườn ươm doanh nghiệp thực phẩm đầu tiên
trên thế giới được thành lập tại Mỹ để hướng tớ
i phục vụ đối tượng khách
hàng là các doanh nghiệp khởi sự chế biến thực phẩm quy mô siêu nhỏ và hộ
gia đình. Các dịch vụ cung cấp tại vườn ươm thường là các thiết bị chế biến
thực phẩm cho thuê bán thời gian, đi kèm các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và hỗ
trợ kỹ thuật. Các dịch vụ này đã giúp giảm đáng kể các chi phí đầu tư ban
đầu, các rủi ro của kinh doanh th
ực phẩm. Các vườn ươm đã tạo cơ hội cho
các doanh nghiệp khởi sự trở nên linh hoạt hơn trong hợp tác kinh doanh,
phân phối sản phẩm.
Nhờ việc bố trí gần các trường, viện nghiên cứu chuyên ngành, các
vườn ươm chế biến thực phẩm đã tạo điều kiện cho các doanh nhân khởi sự
tiếp cận với các chuyên gia chế biến, các máy móc chuyên dụng và các trang
thiết bị cần thiế
t, và các khóa đào tạo. Người tham gia vườn ươm là các doanh
nhân tiềm năng xuất xứ từ cả khu vực nông thôn và thành thị.
Theo thời gian, số lượng vườn ươm doanh nghiệp chế biến thực phẩm
đã tăng lên nhanh chóng.
Tại các quốc gia châu Mỹ, việc khởi sự một doanh nghiệp thực sự là
thách thức vô cùng lớn cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ vì sự đầu tư trang
thiết bị chế biến đắt tiề
n, phải đảm bảo các quy định của pháp luật về an toàn
thực phẩm, khó khăn trong thuê mặt bằng sản xuất, phải cạnh tranh kinh
doanh khốc liệt,
20
Hàng chục doanh nghiệp tham gia vào các vườn uơm doanh nghiệp chế
biến thực phẩm thời kỳ đầu tiên đã vượt qua được các khó khăn nêu trên,
thành công và thu được nhiều lợi nhuận.
Hiện nay, nhu cầu tham gia vườn ươm chế biến thực phẩm tại Mỹ ngày
càng tăng cao. Ước tính có khoảng 5% doanh nghiệp thực phẩm khởi nghiệp
đã tham gia vườn ươm chế biến thực phẩm.
Gần 90% các vườn ươ
m doanh nghiệp đã hoạt động như một công cụ
phát triển kinh tế với sự tham gia của các tổ chức, liên hiệp hội phi lợi nhuận,
các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương, các trường đại học, các công ty
dịch vụ,…
3.1.2. Các mô hình vườn ươm biocity ứng dụng cho ngành công
nghiệp thực phẩm trên thế giới.
3.1.2.1. Vườn ươm Biocity Nottingham
Với lịch sử phát triển công nghiệp lâu đờ
i, tại nước Anh đã có tới 300
vườn ươm doanh nghiệp và cho tới nay đã hỗ trợ ươm tạo thành công được
hơn 12.000 doanh nghiệp. Hiệp hội vườn ươm doanh nghiệp tại Anh hoạt
động rất mạnh mẽ. Biocity Nottingham là một trong những vườn ươm doanh
nghiệp công nghệ sinh học lớn nhất châu Âu, đồng thời phát triển nhanh nhất
của Vương Quốc Anh. Hiện vườn ươm này có liên kết chặt ch
ẽ với Công viên
Công nghệ sinh học Virginia và luôn luôn đi theo định hướng đẩy mạnh các
cơ hội ươm trồng và phát triển các công ty tại Anh. Đây là mô hình kiên kết
chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học hàn lâm, các doanh nghiệp và
chính phủ. Hơn 80% các nghiên cứu khoa học và 80% hoạt động khởi nghiệp
của vườn ươm này nằm ở vùng công nghệ cao giữa Leeds, Sheffield và
Nottingham.Vườn ươm doanh nghiệp này cung cấp các hỗ trợ về kinh doanh,
tài chính, phòng thí nghi
ệm, văn phòng cho các công ty dược phẩm, sinh
phẩm và thực phẩm có ứng dụng công nghệ sinh học. Với 70 doanh nghiệp
được ươm tạo và số lượng đáng kể các hợp tác liên kết quốc tế, vườn ươm
Biocity Nottingham được công nhận là đơn vị đứng đầu trong số các vườn
21
ươm trẻ và phát triển nhanh nhất nước Anh, luôn được Chính phủ coi là trung
tâm đổi mới công nghệ quốc gia.
3.1.2.2. Vườn ươm Jeddah Biocity
Jeddah Biocity là vườn ươm doanh nghiệp của Arập Saudi để thành lập
một cơ sở có thể biến các ý tưởng nghiên cứu khoa học ngành công nghệ sinh
học thành hiện thực trong lĩnh vực công nghiệp. Tham vọng của Arap Saudi
là muốn thông qua dự án này để biến nước này trở thành trung tâm phát triển
công nghiệp sinh học mạnh nh
ất Trung Đông. Vườn ươm này nằm trong
Công viên khoa học thuộc Trường Đại học Abdul-Aziz tại Jeddah.
3.1.2.3. Vườn ươm doanh nghiệp Toronto –Canada
Đây là vườn ươm thuộc Hiệp hội vườn ươm doanh nghiệp Canada
(CABI) là một mô hình thành công giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp xây
dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp vững mạnh và khả thi cho đến khi đã
tự lập vững chắc trong cộng đồng doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp mới khởi sự được xem xét để vào Vườn ươm này thụ
hưởng các hoạt động hỗ trợ quản lý, giáo dục, thông tin, kỹ thuật, dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh, tài nguyên mạng, tư vấn tài chính và tìm kiếm sự trợ giúp tài
chính.
Mục tiêu của vườn ươm không chỉ để đảm bảo các doanh nghiệp nhỏ
tồn tại thời gian khởi động, là lúc doanh nghiệp dễ bị tổn thương nhất, đồng
thời còn tạo được sự tự tin, hỗ trợ tài chính, kiến thức thực tế cho các sinh
viên tốt nghiệp để điều hành thành công một doanh nghiệp sản xuất độc lập,
trong vòng hai hoặc ba năm khởi động.
Trên 95% khách hàng doanh nghiệp khởi sự và 87% sinh viên tốt
nghiệp đã kinh doanh thành công sau khi vào vườn ươm, theo Báo cáo đánh
giá tác động của Vườn ươm được NBIA xuất bản năm 1997. Vườn ươm đã
đem lại những lợi ích cộng đồng đánh kể, đó là các công ty lành mạnh, tăng
trưởng việc làm và tăng tốc đầu tư trở lại đáng kể. Các doanh nhân nổi lên từ
các vườn ươm đã chứng minh được v
ề khả năng cạnh hàng đầu về phát triển
22
công nghệ mới, về tính sáng tạo, tạo chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao, có
ảnh hưởng tích cực đến xã hội.
3.1.2.4. Vườn ươm CREATIVA – CH Pháp
Quyết định để phát triển một vườn ươm trên trang web AGROPARC
đã được đưa sau một nghiên cứu khả thi thực hiện vào năm 1988 do Phòng
Thương mại và Công nghiệp của Avignon & Vaucluse, theo yêu cầu của
thành phố Avignon – CH Pháp
Kể từ khi vườn ươm doanh nghiệp tại AGROPARC vào tháng Bảy năm
1990 đi vào hoạt động, đã có 215 công ty và tổ chức có mặt từ năm 1991
(ngoài số 76 công ty hiện đang có mặt trong vườn ươm).
Đ
ây là vườn ươm được thiết kế để dành riêng cho các ngành chế biến
thực phẩm, đồng thời CREATIVA cũng nhận ươm tạo các công ty có hoạt
động kinh doanh sáng tạo (CNTT, công nghệ truyền thông, điện tử, robot, tư
vấn nhân sự, đào tạo dành cho người lớn )
Từ tháng 7 1990 đến tháng Sáu năm 1993, quản lý, điều hành được
thực hiện bởi Phòng Avignon Thương mại và Công nghiệp.
Kể từ tháng Bảy nă
m 1993, CREATIVA đã hoạt động theo Hiệp hội
AGROPARC.
Tổng đầu tư bất động sản của CRÉATIVA là 3.380.000 €, trong đó:
• 35% được các thị trấn và cộng đồng Greater Avignon tài trợ
• 23% bằng các tài trợ châu Âu
• 9% của khu vực Vaucluse
• 6% của Vùng
Ngoài ra, 73% đồng tài trợ thông qua các cơ quan chính phủ trong khu vực
và địa phương, 27% còn lại CRÉATIVA tài chính được trong các hình thức
thanh toán hàng quý cho thuê cho các dịch vụ cung cấp.
Ngân sách hoạt động hàng năm của CRÉATIVA (kỹ thuật và chi phí nhân
sự) là 360.000 € bao gồm thuế VAT, và. Là mô hình hoàn toàn tự hạch toán
tài chính thông qua thu nhập hoạt động.
Lợi nhuận kinh doanh tổng đã đạt được mức khả quan từ năm 1995.
23
CREATIVA là trung tâm của mạng lưới trong đó đặc biệt hữu ích cho
những công ty sáng lập và khởi sự
Mạng này bao gồm các tổ chức như: Phòng Thương mại, các chuyên
gia chuyên ngành của IRCE, các RLA (Réseau d'Accueil địa phương), hoặc
HẠT (Grand Avignon Initiative), và các tổ chức tài chính như các ngân hàng ,
quỹ đầu tư rủi ro (SAMENAR, PROENCIA ), đơn vị hỗ trợ kinh doanh
hoặc dịch vụ mạng Angels ALISEE.
CREATIVA cung cấp một trang web lý tưởng với tất cả các phương tiện cầ
n
thiết cho những người thiết lập một công ty, những người có dự án và cho tất
cả bắt đầu khởi sự kinh doanh sản xuấ. Vườn ươm được thừa hưởng các hoạt
động của AGROPARC - một mạng lưới của một loạt các dịch vụ như nghiên
cứu, các trung tâm kỹ thuật, tổ chức đào tạo, tư vấn về nhân sự, truyền thông,
Thương mại và ti
ếp thị, quản trị kinh doanh, kế toán,…
Vườn ươm cung cấp mọi trang thiết bị và dịch vụ hỗ trợ để đảm bảo thành
công bước đầu:
• cung cấp một số loại hình khác nhau của không gian văn phòng cho
thuê
• cung cấp một loạt các dịch vụ
• cung cấp giúp đỡ và hỗ trợ
• cung cấp thông tin chia sẻ thông tin giữa các công ty
• khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới
Số lượng trung bình của các doanh nghiệp được ươm tạo tại
CREATIVA là khoảng 80. Vì vậy, vườn ươm tạo cơ hội để chia sẻ thông tin
và hợp tác chặt chẽ giữa các công ty. Việc kết hợp này có nhiều hình thức: kỹ
năng chia sẻ, dịch vụ, tạo / tư vấn nhận được, thậm chí thiết lập một tập đoàn
trước khi r
ời khỏi vườn ươm
CREATIVA có thỏa thuận và hợp tác chặt chẽ với các vườn ươm khác trong
khu vực Paca (La Belle de Mai & Đông Paca).
3.1.2.5. Vườn ươm doanh nghiệp chế biến thực phẩm quy mô nhỏ và
siêu nhỏ tại Cộng hòa Ả rập Syria (Syrian Arab Republic)
24
Được thành lập năm 2006, Vườn ươm doanh nghiệp The Village
(VBI) có quy mô nhỏ tại Syria. VBI có mục đích khuyến khích các chị em
phụ nữ năng động tạo ra các doanh nghiệp cỡ nhỏ và siêu nhỏ để có thể tự
đứng vững , tạo ra lợi nhuận, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực.
Cho tới nay, VBI đã hỗ trợ phụ nữ tại 8 làng của Vùng Lattakia. Các doanh
nghiệp đã phát triển b
ền vững, độc lập sau thời gian ươm tạo.
Tại vườn ươm, các doanh nghiệp nhỏ do phụ nữ trong các làng làm chủ
đã được hỗ trợ để khởi sự sản xuất, kinh doanh các ngành chế biến thực phẩm
như: chế biến sữa, phomat. Thời gian ươm tạo thường khoảng 3 năm trước
khi doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ ra bên ngoài
làng cư trú, Các doanh nhân đ
ã được đào tạo, tập huấn để sản xuất các sản
phẩm với công nghệ thủ công truyền thống của Syria cho đến các công nghệ
sản xuất công nghiệp nhập ngoại (chế biến phomat Mozzarella, Provolla and
Ricotta theo công nghệ Italia).
Các doanh nhân đã được các chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật và kiến thức
kinh doanh của Vườn ươm giúp định hướng các sản phẩm mang tính độc đáo,
chất lượng tốt và có kh
ả năng cạnh tranh cao. Ví dụ: định hướng sản xuất thực
phẩm hữu cơ, thực phẩm không có chất bảo quản, không phụ gia và hóa chất,
dễ dàng được người tiêu dùng ưa chuộng.
Thông qua các mối liên kết với các tổ chức quốc gia và quốc tế, Vườn
ươm VBI đã hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia mạng lưới phân phối sản phẩm
rộng lớn hơn, trên phạm vi toàn quốc và cả
quốc tế (tham gia chuỗi thực
phẩm Italia: “Shamra”, “Express Cafe”, các cửa hàng thực phẩm chất lượng
cao, khách sạn cao cấp như Riviera Hotel )
Người tham gia vườn ươm còn được học các khóa tập huấn về kế toán,
tài chính, cách thiết lập kiên kết với khách hàng và các nhà cung cấp, thương
gia,…đồng thời được tạo cơ hội tham gia các hội chợ, triển lãm, các sự kiện
xúc tiến thương mại.
3.1.2.6. Vườn ươm doanh nghiệp ch
ế biến thực phẩm tại Mỹ