Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Mẫu sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.91 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. LỜI MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận.
2.2. Thực trạng của việc dạy học lịch sử ở trường Tiểu học Thị trấn
Vĩnh Lộc
2.3. Các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử
cho học sinh tiểu học.
Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của người dạy, người học.
Giải pháp 2: Sử dụng kênh hình hiệu quả.
Giải pháp 3: Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử.
Giải pháp 4: Chia các bài học thành các dạng bài học cơ bản và đưa
ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó.
Giải pháp 5: Giáo viên nắm vững và thực hiện linh hoạt quy trình dạy
học phân mơn Lịch sử.
Giải pháp 6: Các giải pháp khác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị


1. MỞ ĐẦU
0/27


1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với chiều dài Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm, trên dải đất Việt Nam
hình chữ S, mỗi ngày chúng ta lại được chứng kiến những lễ hội lịch sử hào
hùng của dân tộc. Đây là lịng biết ơn của tồn thể dân tộc đối với các nhân vật
lịch sử; sự kiện lịch sử lớn đã trải qua một thời của dân tộc Việt Nam. Chúng ta
vô cùng tự hào về trang sử hào hùng của dân tộc, bởi trên mỗi mảnh đất quê
hương Việt Nam đều từng diễn ra những sự kiện lịch sử lớn của đất nước, nơi
sản sinh nhiều nhân vật lịch sử, nhiều vị anh hùng dân tộc tiêu biểu.
Có được những trang sử hào hùng và những con người anh hùng ấy, bởi
vì: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của dân
tộc ta. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại trỗi dậy, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn… nó lướt qua mọi gian khổ khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng
chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta...” (Hồ Chí Minh) 2
Đối với việc giáo dục thế hệ trẻ - những “thế hệ cách mạng cho đời sau”
Bác luôn quan tâm đến việc giáo dục truyền thống của cách mạng và lịch sử, văn
hóa của dân tộc. Bác đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. 2
Thực hiện tư tưởng của Người, nền giáo dục của chúng ta đã rất coi trọng
giáo dục lịch sử dân tộc trong việc xây dựng nhân cách những con người mới xã
hội chủ nghĩa “vừa hồng, vừa chuyên”. Chẳng thế mà chúng ta đã có những thế
hệ người Việt Nam trong thời đại của Bác Hồ vơ cùng u nước, sống có hồi
bão, có lý tưởng cao đẹp, hết lịng hết sức phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân
dân….
Nhưng trong những năm gần đây, chúng ta thấy rất buồn sau mỗi kì thi

đại học lại có nhiều bài thi nhầm lẫn đến rơi nước mắt khi trả lời các kiến thức
cơ bản về lịch sử. Điều này một phần có lỗi từ cái gốc lịch sử từ bậc học Tiểu
học của các em - Đây là một điểm yếu cần được khắc phục. Làm thế nào để
trong cuộc sống thường nhật của chúng ta có những con người yêu nước, đầy

1/27


tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, với dân tộc? Khơng cịn những học sinh
hư hỏng, xem thường truyền thống lịch sử, mơ hồ với lịch sử dân tộc. Đó là một
vấn đề lớn đòi hỏi tâm huyết và sự sẻ chia của các nhà khoa học, các nhà giáo,
nhất là những người trực tiếp giảng dạy ở bậc Tiểu học.
Phải khẳng định ngay rằng với những cố gắng nhất định, việc dạy Lịch sử
trong các trường Tiểu học đã góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục, hình thành
và phát triển nhân cách học sinh theo những yêu cầu đặt ra. Chúng ta đã có
nhiều giờ dạy Lịch sử ở bậc Tiểu học rất hay, rất xúc động, làm cho cả người
dạy, người học và người tham dự không khỏi tự hào rằng mình là người Việt
Nam - Một dân tộc với truyền thồng “Nghìn năm văn hiến”. Những tiết dạy
học Lịch sử như thế đã thực sự mang lại những giá trị to lớn trong việc hình
thành ở học sinh những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam, nó có tác dụng
hơn hẳn những lời giáo huấn thơng thường. Đặc biệt nó đã ngăn được những ảnh
hưởng tiêu cực của cuộc sống đến sự hình thành và phát triển của nhân cách các
em.
Là một giáo viên Tiểu học và là người trực tiếp dạy phân môn Lịch sử tôi
luôn trăn trở làm thế nào để dạy tốt phân môn Lịch sử ở trường Tiểu học, làm
thế nào để học sinh u thích mơn học Lịch sử? Để trả lời được câu hỏi đó là cả
một q trình và cũng là mục đích cần hướng đến của những nhà kĩ sư tâm hồn.
Với những lí do trên, bằng kinh nghiệm của bản thân trong q trình
giảng dạy tơi xin nêu ra một số ý kiến với mong muốn góp chút phần nhỏ bé của
mình vào việc “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn

Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phân mơn Lịch sử trong trường Tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng
trong việc góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh đồng thời tạo cơ
sở để các em tiếp thu có hệ thống và vững chắc chương trình của môn Lịch sử ở
các cấp học trên. Việc dạy Lịch sử trong các trường Tiểu học đã góp phần khơng
nhỏ vào việc giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo những
yêu cầu đặt ra. Chính vì thế mà tơi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.

2/27


1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Lịch sử lớp 5.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài, sách giáo khoa, sách giáo
viên Tiểu học và các tư liệu lịch sử liên quan.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát, phân tích, tổng hợp.
1.4.3. Phương pháp thống kê phân loại.
1.4.4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

3/27


Lịch sử là mơn học nghiên cứu và phân tích những sự kiện đã xảy ra.
Phân môn Lịch sử ở Tiểu học cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản,

thiết thực về: các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối có hệ
thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước tới nửa
đầu thế kỉ XIX. Việc học lịch sử không phải chỉ là học thuộc, nạp vào trí nhớ
các em những lời giảng của thầy hay nội dung sách giáo khoa mà điều cốt lõi là
thông qua quá trình làm việc với các nguồn tài liệu, học sinh tự tạo cho mình
những hình ảnh lịch sử, sự hiểu biết về quá khứ, rèn luyện cách thức, phương
pháp tìm hiểu lịch sử.
Phần Lịch sử lớp 4, lớp 5 khơng trình bày lịch sử theo một hệ thống chặt
chẽ. Mỗi bài học là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử khơng thể hình
thành một cách cô lập mà luôn gắn liền với một bối cảnh lịch sử cụ thể. Vì vậy
trước khi dạy nội dung của một bài cụ thể, giáo viên cần giới thiệu sơ lược về
bối cảnh lịch sử. Để đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phải nắm vững tồn bộ tiến
trình lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến nay. Người giáo viên chính là chiếc
cầu nối để đưa các em đến gần hơn với những trang lịch sử hào hùng của dân
tộc, là người định hướng giúp các em có được cách học có hiệu quả. Đây cũng là
kiến thức nền móng cho các em tiếp tục học lên các cấp học trên. Để làm được
điều đó trước hết người giáo viên phải có kiến thức vững vàng, am hiểu về lịch
sử dân tộc và bản thân người giáo viên phải là người yêu mến, tự hào về lịch sử
của dân tộc mình thì mới thực sự làm trịn trách nhiệm vẻ vang đó.
Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, theo tinh thần đổi mới phương pháp
dạy học, trong đó người giáo viên ln giữ vai trị tổ chức chỉ đạo, học sinh tích
cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách
nhiệm. Người giáo viên đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt
động và hợp tác. Người học (HS) được người dạy (GV) theo sát giúp đỡ trong
quá trình học nên tích cực tự giác và thể hiện sự năng động trong hoạt động học
tập, kết quả cuối cùng là học sinh đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên. Tự
mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú say mê và

4/27



u mến mơn học hơn so với những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ
giáo viên.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC THỊ TRẤN VĨNH LỘC
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, qua dự giờ đồng nghiệp đặc biệt là
giáo viên trực tiếp dạy phân môn Lịch sử, tôi nhận thấy:
+ Về phía học sinh: Nhiều học sinh sợ khi đến giờ Lịch sử và khơng thích
học Lịch sử. Các em chưa xác định được tầm quan trọng của môn học nên việc
đầu tư thời gian cịn ít, chỉ chú trọng nhiều vào học Tốn và Tiếng Việt. Chính
vì thế nên các em không nhớ được các mốc thời gian và các sự kiện lịch sử tiêu
biểu ứng với các mốc thời gian đó hoặc các em cịn nhầm lẫn các nhân vật với
các triều đại lịch sử,...
+ Về phía giáo viên: Trong nhiều tiết dạy giáo viên vẫn chưa tổ chức
được cho học sinh sưu tầm tư liệu và chuẩn bị bài chu đáo, chưa tạo ra được
được sự hứng thú cho học sinh tham gia học hỏi và tìm hiểu kĩ bài học; nhiều
giờ Lịch sử diễn ra nặng nề hoặc khô khan, hiệu quả giáo dục thấp. Điều này
dẫn đến có những học sinh khơng biết gì về truyền thống lịch sử cha ơng, đó
cũng chính là ngun nhân dẫn đến sự nhầm lẫn các nhân vật và triều đại Lịch
sử...
Sau khi đưa ra vấn đề nghiên cứu tôi đã tiến hành trao đổi đồng nghiệp,
khảo sát học sinh nhằm tìm hiểu thực trạng dạy - học. Cuối năm học …….., nhà
trường tổ chức kiểm tra định kỳ. Kết quả thu được như sau:
Lớp Sĩ số HS

Điểm 9, 10

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6


Điểm dưới 5

5A

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

6

24%

11

44%

7


28%

1

4%

25

Lớp Sĩ số HS

Điểm 9, 10

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6

Điểm dưới 5

5B

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

6

24%

11

44%

8

32%

0

0%

25

5/27


Qua bảng trên tôi nhận thấy kết quả lịch sử của học sinh cịn rất khiêm
tốn. Trước thực trạng đó, trong q trình giảng dạy phân mơn Lịch sử ở lớp

5 tôi đã vận dụng một số kinh nghiệm bản thân có được trong q trình học
tập và tích lũy kinh nghiệm của bản thân để dạy - học xem là có hiệu quả
thơng qua việc nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc”.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHẦN
MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của người dạy, người học.
Một số người cho rằng dạy Lịch sử ở Tiểu học là dễ vì kiến thức ít. Điều
đó hồn tồn không đúng và sẽ không thể thực hiện được việc giảng dạy Lịch sử
ở Tiểu học đạt chất lượng, vì:
- Một là: Cấu trúc một bài Lịch sử ở Tiểu học mang tính sơ giản, chứ
khơng có nội dung đầy đủ và có tính hệ thống chặt chẽ (như các cấp học cao
hơn) nên rất khó dạy cho học sinh, nhất là học sinh Tiểu học với vốn sống, vốn
kiến thức còn rất hạn chế, sơ sài.
- Hai là: Tư duy của học sinh Tiểu học cịn mang tính tư duy trực quan mà
Lịch sử lại có tính q khứ. Vì thế khơng cho phép người học được chứng kiến
một cách trực tiếp những con người, những sự kiện…đang diễn ra nên việc
“dựng” lại những nhân vật, sự kiện lịch sử nhất là trong điều kiện còn thiếu thốn
về phương tiện, đồ dùng dạy học là việc không dễ.
- Ba là: Lịch sử vốn là những sự việc đã diễn ra, có thật, nó tồn tại
khách quan trong quá khứ, khơng thể phán đốn, suy ḷn, tưởng tượng để nhận
thức lịch sử nên việc dạy học theo hướng “tích cực hóa hoạt động tư duy của
học sinh” địi hỏi người giáo viên phải vận dụng các phương pháp với nhiều
công phu mà vẫn khó đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, mục
tiêu của dạy học Lịch sử ở Tiểu học chỉ là cung cấp cho học sinh những kiến
thức sơ giản, ban đầu của lịch sử dân tộc nên chương trình chỉ có thể lựa chọn
những sự kiện, những nhân vật lịch sử tiêu biểu của mỗi giai đoạn lịch sử mà
không thể dạy cho các em một hệ thống kiến thức chặt chẽ như các cấp học trên.

6/27



Cũng chính vì khơng có hệ thống chặt chẽ nên những “nhịp dẫn” của “cây cầu
lịch sử” bị “đứt đoạn” làm cho người giáo viên gặp khó khăn trong việc “dẫn”
các em đi từ thời đại này tới thời đại kia, từ sự kiện này tới sự kiện khác. Giáo
viên cần nắm vững nội dung, cấu trúc SGK Lịch sử và Địa lí kết hợp với sự hiểu
biết và tìm tịi thơng qua các tài liệu để đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy.
Chẳng hạn khi dạy bài 7: “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” 1 , giáo viên phải
giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử của sự kiện lịch sử trọng đại này
trước khi bước vào nội dung chính của bài. Nếu ở các cấp học trên thì thao tác
này khơng địi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các tư liệu và phải giảng
giải nhiều vì trước đó học sinh đã được học đầy đủ về tình hình lịch sử của đất
nước giai đoạn 1925- 1930 nên hiểu được bối cảnh lịch sử với u cầu cấp bách
phải có một chính đảng thống nhất và đủ mạnh để lãnh đạo cách mạng nước ta.
Ngược lại ở Tiểu học trước khi học bài này học sinh mới được học về một số
nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu nên không thể hiểu được đầy đủ bối cảnh
lịch sử của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Vì vậy người giáo viên phải
có khả năng khái quát vấn đề rất cao, vừa dẫn được cái xa, vừa nêu được cái
gần, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh để không mất nhiều thời gian
mà vẫn giúp các em nhanh chóng hiểu được vấn đề. Muốn vậy người giáo viên
phải thơng hiểu lịch sử và có kho tàng ngơn ngữ giàu có với khả năng diễn đạt
ngắn gọn, trong sáng và dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của học sinh tiểu học.
Điều này quả là không dễ nhưng nếu chịu khó trau rồi, rèn luyện với lịng u
nghề, u học trị và u lịch sử dân tộc thì người giáo viên Tiểu học hồn tồn
có thể làm được.
Cụ thể là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để dẫn dắt
học sinh đi từ các vấn đề lịch sử: Giữa năm 1929 các tổ chức cộng sản là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đơng Dương Cộng sản liên
đồn nối tiếp nhau xuất hiện. Nó đã tạo ra tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của
Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy đều là các tổ chức cộng sản nhưng cả ba tổ chức
đều hoạt động riêng rẽ, cơng kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau nên

đã gây ra trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách

7/27


mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước để lãnh
đạo cách mạng. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã đứng ra triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 3 đến 7-2-1930 tại Cửu Long, Hương Cảng,
Trung Quốc. Với tài năng và uy tín cao của người Hội nghị đã nhất trí tán thành
thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một chính Đảng duy nhất của giai
cấp cơng nhân Việt Nam. Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba nhân tố: Chủ nghĩa
Mác-Lê nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính chất quyết định đến bước phát triển
mới và thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở giai đoạn tiếp theo.
Từ sự khái quát tiến trình lịch sử để dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Giải pháp 2: Sử dụng kênh hình hiệu quả.
Cũng giống như một số môn học khác, trong SGK Lịch sử 5, kênh chữ
giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn có
vai trị quan trọng; nó khơng chỉ minh họa cho kênh chữ, mà còn là nguồn cung
cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
Trong giờ dạy Lịch sử, có những giáo viên khơng hiểu kênh hình nên
khơng khai thác được kênh hình với đúng vai trị của nó mà chỉ đưa ra như một
sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử
hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngồi tính minh hoạ mỗi
bức tranh, bức ảnh cịn hàm chứa những thông tin lịch sử với mức độ khác nhau
phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Có thể phân loại kênh hình trong sách
giáo khoa phân mơn Lịch sử như sau:

- Loại thứ nhất: Bản đồ, lược đồ:
Bản đồ, lược đồ chủ yếu được bố trí ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các
chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị trí của cuộc khởi
nghĩa, chiến dịch, trận đánh… cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của
cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… Ví dụ ở bài 14: “Thu - Đông 1947,

8/27


Việt Bắc mồ chôn giặc Pháp” (Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 5) giáo viên
giới thiệu lược đồ:

Khi khai thác lược đồ, giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu
xa của cách chọn vị trí trận địa, việc phịng thủ và hướng tấn cơng của hai bên
qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự thơng minh và nghệ tḥt qn sự tài
tình cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lịng u
nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em.
Khi hướng dẫn trên lược đồ người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ
cho học sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch
của ta một cách đơn thuần mà cịn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu
thâm độc của Thực dân Pháp trong việc bao vây nhằm tiêu diệt gọn, chặt đứt
mọi đường rút và đường liên hệ của ta với bên ngoài nhưng với việc “nắm địch”,
“hiểu địch” tốt và bằng nghệ tḥt qn sự tài tình ta đã hóa giải và đập tan âm
mưu của chúng.
- Loại thứ hai: Tranh, ảnh tư liệu.
Tranh ảnh, tư liệu có nhiều ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các chiến
dịch, loại bài về chính trị xã hội và thành tựu.

9/27



Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về một loại vũ
khí nào đó, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về
các thành tựu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…của mỗi triều đại ứng với
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này người giáo viên phải am
hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ tḥt, khoa học, kỹ
thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc
giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Sách giáo khoa Lịch
sử và Địa lí lớp 5)

Cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm
Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc,
kiến trúc, các giá trị văn hoá phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên
vì đây là những lĩnh vực khơng dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học
sinh, nhất là học sinh tiểu học. Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh
ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị
văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên sách báo và trên các trang
mạng. Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn
ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt phải bằng các
hình ảnh tư liệu trực quan.

10/27


- Loại thứ ba: Ảnh chân dung nhân vật lịch sử:
Đây là ảnh của các nhân vật lịch sử trong loại bài dạy về nhân vật lịch sử.
Số bài dạy về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 5
khơng nhiều. Cái mới của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật
lịch sử thông qua và gắn liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân

vật lịch sử như trong chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của
nhân vật phục vụ bài dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư chất, nhân
cách nhân vật nhưng không quá xa đà, không tách rời nhân vật lịch sử ra khỏi
mối quan hệ với thời đại của nhân vật và sự kiện lịch sử mà nhân vật có vai trị
quyết định.
Ví dụ một số bài như: “Bình Tây đại ngun sối Trương Định”; Nguyễn
Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước; Cuộc phản công ở kinh thành Huế;
Phan Bội Châu và phong trào Đông du; Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước;
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất
hiện của các nhân vật Lịch sử tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các
hình ảnh, chân dung các nhân vật lịch sử và có sự so sánh vai trị của họ ở mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau (Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Chẳng hạn khi dạy bài 5: “Phan Bội Châu và phong trào Đông du” 1
giáo viên tiến hành như sau:
+ Cho học sinh quan sát chân dung Phan Bội Châu.

+ Hỏi: Em có biết nhân vật lịch sử này tên là gì, có đóng góp gì cho lịch
sử nước nhà khơng?

11/27


+ Giáo viên giới thiệu bài học và cho học sinh làm việc theo nhóm tìm
hiểu thơng tin tư liệu về Phan Bội Châu và phong trào Đông Du,...
Giải pháp 3: Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử.
Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ làm
cho giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh hơn và
cuối cùng là làm cho tiết dạy - học Lịch sử mang lại hiệu quả cao hơn. Thường
là việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ về nhân vật lịch sử, sự kiện
lịch sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng có khi là cả trong

phần chính của bài. Ví dụ khi giới thiệu bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước” (Lịch sử lớp 5) 1 , người giáo viên bằng giọng đọc truyền cảm của mình
có thể đọc hoặc ngâm trích đoạn thơ cho học sinh nghe sau phần củng cố nội
dung chính của bài như:
“Đất nước đẹp vơ cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tơi làm sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bến dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn khơng bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng thấy nước đau thương...”
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên) 3
Hay đoạn thơ trong bài “Bác ơi” của nhà thơ Tố Hữu giáo viên đọc cho học sinh
nghe ngay sau khi cho học sinh tìm hiểu về ý chí quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước của Nguyễn Tất Thành:
“Từ đó người đi những bước đầu
Lênh đênh bốn biển một con tàu
Cuộc đời sóng gió trong than bụi
Tay đốt lị, lau chảo, thái rau”. 4

12/27


THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh
nghiệm mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!


13/27



×