Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Luận văn thạc sĩ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật ấn tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.89 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY

ĐỔI MỚI MƠ HÌNH QUẢN LÝ TỊA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP
CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY

ĐỔI MỚI MƠ HÌNH QUẢN LÝ TỊA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP
CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số:

60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Thị Thùy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MƠ HÌNH QUẢN LÝ TỊA ÁN
7
1.1. Sự hình thành Tịa án và mơ hình quản lý Tồ án..............................7
1.1.2. Sự hình thành Tồ án.......................................................................7
1.1.2. Vị trí, vai trị của Tịa án ở Việt Nam...............................................7
1 2. Khái qt mơ hình quản lý Toà án của Việt Nam giai đoạn 1945 - 2002
8

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959.............................................8
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980.............................................9
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992...........................................10
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002...........................................12
1 3. Các điểm kế thừa từ mơ hình quản lý Tồ án trong giai đoạn 1945 200213
1.4. Mơ hình quản lý Tịa án ở một số quốc gia trên thế giới...................15
1.4.1. Mơ hình do Bộ Tư pháp quản lý tại Cộng hịa liên bang Đức.......16
1.4.2. Mơ hình tự quản do một đơn vị “trực thuộc Tòa án” độc lập với
cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý......................................................16
1.4.3. Mô hình kết hợp do đơn vi tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư
pháp cùng thực hiện ở Cộng hịa Pháp....................................................28
1.4.4. Mơ hình Tịa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa
phương cùng thực hiện ở Trung Quốc.....................................................31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................33
Chương 2: MƠ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
VỚI YÊU CẦU ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA
ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ................................34
2.1. Mơ hình quản lý Toà án của Việt Nam hiện nay...............................34
2.1.1. Hệ thống tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành........................34


2.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta hiện nay .
38
2.1.3. Sự cần thiết đổi mới mơ hình quản lý Tồ án ở Việt Nam.............40
2.2. Đánh giá mơ hình quản lý Tồ án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Toà án và sự độc lập của hoạt động xét xử........44
2.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp và sự độc lập trong xét xử......46
2.2.2. Các điểm đã đạt được và các điểm bất cập...................................54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN MƠ HÌNH QUẢN LÝ

TÒA ÁN NHÂN DÂN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ
PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ .
67
3.1. Hồn thiện mơ hình tổ chức và hoạt động của Toà án theo các cấp
xét xử............................................................................................................67
3 2. Hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của các chức danh tư
pháp70
3.3. Đổi mới chế định Hội thẩm.................................................................72
3.4. Đổi mới công tác quản lý cán bộ.........................................................73
3.4.1. Tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán...........75
3.4.2. Về chế độ khen thưởng và kỷ luật..................................................78
3.4 3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, cơng chức ngành Tịa
án78
3.4.4. Đổi mới chế độ đãi ngộ..................................................................79
3.5. Đổi mới hệ thống các cơ quan xét xử gắn liền với việc đổi mới một số
cơ quan tiến hành tố tụng khác..................................................................81
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................83
KẾT LUẬN......................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án là một cơ quan thực thi pháp
luật quan trọng, đồng thời là một phương thức giải quyết tranh chấp. Từ sau
khi Luật Tổ chức tịa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực, cơ cấu tổ chức hệ
thống Tòa án Việt Nam đã có nhiều thay đổi cũng như về quyền hạn, trách
nhiệm của mỗi cấp Tòa án. Hiện nay, hệ thống Toà án nhân dân nước ta
gồm Toà án nhân dân tối cao, Tóa án nhân dân cấp cao, Tồ án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là Toà án nhân dân cấp tỉnh)

và Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là
Toà án nhân dân cấp huyện). Bên cạnh những ưu điểm vốn có như gần dân,
sát với chính quyền và các cấp uỷ Đảng ở cơ sở thì hệ thống Toà án ở nước
ta cũng bộc lộ những bất cập về tổ chức và hoạt động. Nhìn chung, tổ chức
và hoạt động của các Toà án chưa theo kịp với sự phát triển và địi hỏi của
đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Toà án các cấp nhiều đầu mối; nguồn
nhân lực, cơ sở vật chất của các Tòa án còn thiếu hụt, chưa tương xứng với
yêu cầu nhiệm vụ, vị trí, vai trị của Tịa án. Bên cạnh đó, trong tình hình
hiện nay, hoạt động xét xử của Tồ án đang đứng trước nhiều thách thức.
Đó là, tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày
càng nghiêm trọng; các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh
tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngồi có
chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn về tính chất và
hình thức biểu hiện. Với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập quốc tế thì địi hỏi của Nhà
nước và nhân dân đối với cơ quan Toà án ngày càng cao.

1


Mặt khác, Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa
án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Để thực hiện tốt nhiệm
vụ của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, một trong những yêu cầu quan trọng
đặt ra là cần tạo tạo cơ chế vận hành hệ thống tịa án một cách thơng suốt, hợp
lý, trước hết là cơ chế quản lý tổ chức, con người với những nguyên tắc chung
về quản lý nhà nước và những nội dung, cách thức đặc thù phù hợp với tính

chất của cơ quan xét xử.
Trong nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong những
đặc trưng cơ bản. Xét theo chiều ngang, đó là sự độc lập của quyền tư pháp
với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Xét theo chiều dọc, đó là sự độc lập
giữa các cấp tòa án khác, độc lập trong nội bộ một cấp tòa án. Mối quan hệ
giữa cơ quan lập pháp với cơ quan tư pháp chủ yếu thông qua việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và
giám sát đối với hoạt động xét xử. Mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp với
cơ quan tư pháp thông qua việc bảo đảm các điều kiện về nguồn lực cho tòa
án thực hiện tốt quyền tư pháp. Sự độc lập của tòa án theo chiều dọc được thế
hiện ở hai yếu tố: độc lập của các cấp tòa án, độc lập trong nội bộ một cấp tòa
án và độc lập của thẩm phán, hội thẩm trong hội đồng xét xử. Để độc lập, tòa
án phải được tổ chức theo cấp xét xử, quan hệ giữa các cấp tịa án là quan hệ
tố tụng, khơng phải quan hệ mệnh lệnh, hành chính. Do đặc thù của đối tượng
quản lý (cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp), quản lý tòa án là một lĩnh
vực quản lý đặc thù ở đa số các nước, tịa án khơng tổ chức và quản lý giống
như cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
2


Ở nước ta, vấn đề quản lý các tòa án từ lâu là một nội dung gây tranh
luận kéo dài trong khoa học cũng như trong thực tiễn. Nhiều năm qua, Nhà
nước ta đã cố gắng tìm tịi và áp dụng nhiều mơ hình quản lý tịa án nhưng
thực tiễn quản lý cho thấy các mơ hình này đều chưa thật hồn thiện.
Vì vậy, nhằm góp phần vào việc đổi mới hệ thống Toà án nhân dân
theo theo đúng tinh thần cải cách tư pháp đã được đề ra trong các Nghị
quyết của Đảng, học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài: “Đổi mới mơ hình
quản lý Tịa án ở Việt Nam hiện nay nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư
pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp, thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao đã
có nhiều chương trình trao đổi và hợp tác với các cơ quan ở các nước Pháp,
Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada... và các tổ chức quốc tế như
SIDA, JICA, UNDP... về hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội
thảo, Tọa đàm... trong và ngoài nước đã cho chúng ta một bức tranh nhiều
màu sắc về tổ chức và hoạt động hệ thống cơ quan tư pháp của các nước.
Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà
nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII và
IX là nền tảng tư tưởng vững chắc cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta. Trong những năm gần đây đã có
một số cơng trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, sách
chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến cải
cách tư pháp như: Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội: Đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003; Cơ sở lý luận và thực tiễn
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến
3


pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hồng Thế Liên; Sách
chun khảo Mơ hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Tư pháp năm 2006;
Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước của GS.TS. Nguyễn Đăng
Dung, NXB Giao thông vận tải năm 2002; Hệ thống tư pháp và cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ
biên, NXB Khoa học xã hội năm 2002; Những cơng trình khoa học nghiên
cứu về Tòa án nhân dân ở những góc độ khác nhau... Các cơng trình khoa học
nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về mơ hình tổ
chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta, phúc đáp những yêu

cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì các lý do khác nhau nên những
cơng trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách đầy đủ, Toàn diện các
vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
nói chung và Tịa án nhân dân nói riêng trong điều kiện cải cách tư pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn mơ hình quản lý Tòa án ở Việt Nam,
chỉ ra những kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của
những bất cập đó trong quản lý Tịa án của Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá mơ hình quản lý Tòa án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử, nhằm đưa
ra những đổi mới phù hợp thực trạng việc quản lý Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
- Đề ra các giải pháp hồn thiện quản lý Tịa án nhân dân nhằm đảm bảo
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, học viên xác định đối
tượng và phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về mơ
hình quản lý Tịa án, đưa ra thực trạng mơ hình quản lý Tịa án của Việt Nam
4


hiện nay với yêu cầu bảo đảm tính độc lập và thực hiện quyền tư pháp (những
kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của những bất cập
đó), trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần đổi mới, hồn thiện quản
lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự
độc lập của hoạt động xét xử.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; Các quan điểm của Đảng về từng bước
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách

tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức
và hoạt động của Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của luật học như phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê xã hội học, phương pháp
luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên
cứu của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa
học về mơ hình quản lý Tịa án của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận
văn đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều
kiện thực tiễn, góp phần đổi mới, hồn thiện quản lý Tòa án nhân dân nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét
xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước
5


pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm
thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về mô hình quản lý Tịa án
Chương 2: Mơ hình quản lý Tòa án của Việt Nam với yêu cầu đảm bảo
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt
động xét xử
Chương 3: Một số giải pháp hồn thiện mơ hình quản lý Tịa án nhân

dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và
sự độc lập của hoạt động xét xử

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MƠ HÌNH QUẢN LÝ TỊA ÁN
1.1. Sự hình thành Tịa án và mơ hình quản lý Tồ án
1.1.2. Sự hình thành Tồ án
Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho
pháp luật được thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó khơng
được các giai cấp và tầng lớp khác tn theo, pháp luật không đi vào đời
sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, ln ln có
các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều
luật của nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai
cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ
bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi như quân đội, cảnh sát...
Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách
tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có
một cơ quan được lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi
nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tịa án, ln tồn tại trong bất kỳ chế
độ nhà nước nào.
Theo V.I. Lênin "… Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động
của tịa án là hình thức hoạt động của nhà nước... " [13, tr.197].
1.1.2. Vị trí, vai trị của Tòa án ở Việt Nam
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện
chức năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trị hết sức quan trọng trong việc xét xử
những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá trình

phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu
đặt ra khác nhau, tổ chức, hoạt động của tịa án nhân dân cũng có những
7


nhiệm vụ và mục

8


tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai trị hết sức quan
trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...
Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân…” [1,tr.71].
1.2. Khái qt mơ hình quản lý Tồ án của Việt Nam giai đoạn
1945 - 2002
Trong giai đoạn 1945 - 2002, mô hình quản lý Tồ án nhân dân địa
phương được chia thành 4 giai đoạn tương ứng với các mơ hình khác nhau, cụ
thể là:
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Nhà nước Việt nam dân
chủ cộng hoà đã quan tâm đến công tác xét xử và xây dựng hệ thống Tồ án.
Ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 33/SL về việc thiết lập
các Tòa án quân sự ở các địa phương khác nhau trong cả nước. Theo Sắc lệnh
này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gịn, Mỹ Tho. Các Tòa án
quân sự đã được thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời chung
thẩm tất cả những người phạm vào một việc gì có phương hại cho nền độc lập

của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để giữ vững kỷ luật trong quân đội,
ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL về việc thành lập tòa án
xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội. Đây là những văn bản pháp lý đầu
tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của tịa án sau này.
Tuy nhiên, vì u cầu của cách mạng lúc bấy giờ, Nhà nước Việt nam
dân chủ cộng hồ mới chỉ thiết lập các Tịa án quân sự mà chưa tổ chức hệ
thống Tòa án các cấp và các Tòa án quân sự cũng chỉ xét xử các vụ án hình sự
9


mà không xét xử các vụ án dân sự.
Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13 về tổ chức
Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy
đủ, cụ thể tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thẩm phán. Theo
đó, các Tồ án sơ cấp, đệ nhị cấp, Toà thượng thẩm đã được thành lập, Thẩm
phán ở Toà án thượng thẩm và Toà án đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm,
còn thẩm phán ở Toà án sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
Ngày 29/4/1958, Quốc hội quyết định thành lập Tịa án nhân dân tối cao
và Viện cơng tố nhân dân trung ương, trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Có thể
nói đây là một bước quá độ rất cần thiết làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống
Tòa án nhân dân trong Bộ máy nhà nước một năm sau đó. Năm 1959, Hiến
pháp mới ban hành, Tồ án tối cao, Viện cơng tố được thành lập lại thành Tồ
án nhân dân tối cao và tách ra khỏi Chính phủ. Từ năm 1946 đến năm 1960 tất
cả các cơ quan Toà án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp về mặt tài
chính, kinh phí, tổ chức chế độ làm việc và các công việc về nhân sự.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 đã thể chế hoá các quan điểm của Nghị quyết Đại
hội lần thứ III của Đảng đã đề ra. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp
1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, ngày 14/7/1960, Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khố II, kỳ họp thứ nhất đã thơng qua

Luật Tổ chức Tịa án nhân dân. Tiếp đó, để kiện Tồn Tịa án nhân dân các
cấp, tăng cường tính nhân dân của Tòa án nhân dân và bảo đảm cho việc xét
xử được chính xác và đúng pháp luật. Ngày 23/3/1961 Uỷ ban thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Tòa án nhân dân
tối cao và tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương. Ngoài các quy định trên,
theo Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà năm
1960, Bộ Tư pháp giải thể.
Về quản lý các Toà án nhân dân địa phương, Điều 23 Luật Tổ chức Toà
10


án nhân dân quy định: “... Bộ máy làm việc và biên chế của các Toà án nhân
dân địa phương các cấp do Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện
theo quy định chung về bộ máy làm việc và biên chế của Cơ quan Nhà nước”
và Điều 14 Pháp lệnh ngày 23/3/1961 quy định: “Tổ chức cụ thể của bộ máy
làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do
Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định
chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan nhà nước. Tổng biên
chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân
dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Tuy nhiên, trên thực tế, các Toà án nhân dân địa phương được xem là
đơn vị xét xử của đơn vị hành chính của từng cấp địa phương việc quản lý
Tồ án nhân dân địa phương chủ yếu do chính quyền địa phương đảm nhiệm
(hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, bãi miễn Chánh án, Phó chánh án, Thẩm
phán; kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động do Uỷ ban nhân dân địa
phương đảm nhiệm, chế độ tiền lương của cán bộ Toà án nhân dân các cấp do
Chính phủ đảm nhiệm.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Ngày 13/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống

nhất - Hiến pháp 1980. Nhìn chung, các quy định về Tịa án nhân dân trong
Hiến pháp 1980 kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1959.
Trong Tờ trình trước Quốc hội về Dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân
tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII (tháng 7/1981) do Toà án nhân dân tối
cao chuẩn bị trước Quốc hội có viết: “Để bảo đảm cho các Tịa án nhân dân
thực hiện được tốt cơng tác xét xử, việc quản lý về biên chế, tổ chức và cán
bộ của Tòa án nhân dân các cấp là rất quan trọng. Trước đây, khi giải thể Bộ
Tư pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã giao nhiệm vụ này cho
11


Tòa án nhân dân tối cao. Nay, nếu Bộ Tư pháp được thành lập, chúng tơi đề
nghị Tịa án nhân dân tối cao quản lý tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và
Bộ Tư pháp quản lý về tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương”.
Đồng thời trong Tờ trình thành lập lại Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng đã báo cáo trường kỳ họp thứ 1 Quốc hội khoá VII đã khẳng định:
“Thực tiễn 20 năm qua (1960 - 1980) chứng minh rõ việc Hội đồng Chính
phủ, cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý Tồn diện cơng
việc của Nhà nước khơng có Bộ Tư pháp là điều rất khơng hợp lý, Tòa án
nhân dân tối cao với tư cách là Toà án, một cơ quan xét xử của Hiến pháp lại
được giao chức năng, nhiệm vụ của Bộ, của Chính phủ mà theo pháp luật lại
khơng chịu trách nhiệm trước Chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc
hội), trong khi đó thì Hội đồng Chính phủ khơng nắm được tình hình thi hành
pháp luật, khơng gắn được việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử với việc
điều hành cơng việc chung của chính phủ, từ đó khơng chỉ đạo được hoạt động
đấu tranh chống tội phạm loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội
phạm và các hành vi phạm pháp khác. Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả
khơng tốt. Hội đồng Chính phủ phải là người quản lý Toàn diện mọi hoạt động
của đời sống xã hội kể cả quản lý tư pháp. Hội đồng Chính phủ phải có Bộ Tư
pháp để giúp cho Hội đồng Chính phủ thống nhất quản lý cơng tác tư pháp”.

Chính vì vậy, theo Luật Tổ chức tịa án nhân dân năm 1980 (Điều 16) và
Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư
pháp thì “việc quản lý các Tịa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó” (Điều
16) [3]. Về quản lý các Tịa án qn sự, thì Pháp lệnh năm 1985 đã giao “Bộ
trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý về mặt tổ chức các Tòa
12


án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tòa án quân sự khu vực”.
Về biên chế của các Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1981 và Pháp lệnh tổ chức Tòa án qn sự năm 1985, thì biên chế của
Tịa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định và
trình Hội đồng Nhà nước phê chuẩn. Tổng số biên chế của các Tòa án nhân
dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Hội đồng Bộ trưởng quyết
định. Sau khi đã được Hội đồng Bộ trưởng quyết định tổng số biên chế, việc
quy định biên chế cho từng Tòa án nhân dân địa phương đó Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quyết định. Đối với các Tịa án qn sự, thì bộ máy làm việc, biên chế
của Tòa án quân sự cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định,
sau khi đã thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phịng và trình Hội đồng
Nhà nước phê chuẩn bộ máy làm việc, biên chế của các Tòa án quân sự quân
khu và cấp tương đương, của các Tòa án quân sự khu vực do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quyết định, sau khi đã thống nhất ý kiến với Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phịng. Về kinh phí, phương tiện hoạt động và
trụ sở của các Tòa án quân sự do Bộ Quốc phòng và các đơn vị quân đội bảo
đảm.
Tóm lại, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương trong giai đoạn
này do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, nhưng chủ yếu là việc trình tổng số biên chế

và quy định biên chế cụ thể cho từng Tòa án nhân dân địa phương, cịn về
kinh phí hoạt động vẫn do ngân sách địa phương cấp, về nhân sự như Chánh
án, Phó Chánh án, Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm
1986 và tiếp tục được khẳng định và phát triển trong Nghị quyết Đại hội lần
thứ VII của Đảng năm 1991 là cơ sở cho việc ban hành Hiến pháp năm 1992 Hiến pháp của thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án nhân dân
13


năm 1992, Tồ án nhân dân tối cao đã có văn bản đề nghị giao quản lý các
Toà án nhân địa phương về mặt tổ chức. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 cũng như
Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành tiếp tục kế thừa và phát triển các
quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 1981
theo đó, “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án
nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án
Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương
về mặt tổ chức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định”.
Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã xác định Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án địa
phương về mặt tổ chức. Thi hành Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002, ngày
25/9/2002, tại Bộ Tư pháp, lễ bàn giao cơng tác quản lý Tồ án nhân dân địa
phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực
về mặt tổ chức từ Bộ Tư pháp sang Toà án nhân dân tối cao đã được tiến
hành.
1.3. Các điểm kế thừa từ mô hình quản lý Tồ án trong giai đoạn
1945 - 2002

Một số điểm kế thừa từ các mơ hình quản lý Toà án trong giai đoạn 1945
- 2002 như sau:
1) Tiếp tục thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán như đã được thực hiện
từ năm 1992 đến nay nhằm đảm bảo chọn được những người thực sự đủ tiêu
chuẩn làm thẩm phán và bảo đảm cho thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật.
2) Cần phải khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
không phải là cơ quan quản lý hành chính
14


Bởi lẽ, thứ nhất, xét về vi trí, vai trị của Toà án trong hệ thống tổ chức,
bộ máy Nhà nước thì Tồ án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử, mà
không phải là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, cho nên trong cách thức
tổ chức các cơ quan xét xử có đặc thù riêng. Đó là, theo quy định của các Luật
tổ chức Tồ án, thì các Tồ án của nước ta được tổ chức theo địa giới hành
chính từ cấp huyện trở lên, hoạt động xét xử độc lập với nhau theo thẩm
quyền mà không thành một hệ thống như các cơ quan khác.
Hơn nữa, một trong những nguyên tắc quan trong trong hoạt động của
Toà án được ghi nhận trong tất cả các bản hiến pháp của nước ta đó là “khi
xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Pháp luật
là mệnh lệnh tối cao đối với những người làm công tác xét xử. Muốn vậy, đối
với người Thẩm phán, địi hỏi phải có điều kiện chủ quan và khách quan về
thực hiện quyền năng và nghĩa vụ của mình. Về chủ quan, muốn “độc lập” thì
người Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có bản lĩnh, đạo đức và như vậy
họ phải được đào tạo một cách chính quy, được bổ nhiệm theo các tiêu chuẩn
chặt chẽ và phải được hưởng chế độ lương bổng thoả đáng. Về khách quan,
để các Thẩm phán được “độc lập” trong hoạt động xét xử, cần thiết phải ngăn
chặn mọi sự can thiệp của cơ quan hoặc cá nhân vào việc xét xử các vụ án cụ
thể, ít nhiều ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật mà Thẩm phán là

người có sứ mệnh duy trì sự nghiêm minh đó. Do đó, trong cách thức tổ chức,
các Tồ án cấp trên khơng có quan hệ hành chính, chỉ đạo điều hành Toà án
cấp dưới. Mối quan hệ giữa các Toà án này với nhau là quan hệ tố tụng theo
quy định của pháp luật. Việc quản lý hành chính có liên quan đến tổ chức, bộ
máy, đào tạo, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, bảo đảm trụ sở,
kinh phí phương tiện hoạt động của Tồ án được giao cho cơ quan có chức
năng quản lý hành chính nằm ngồi tổ chức cơ quan xét xử nhằm tránh sự
điều hành, mệnh lệnh trong công tác xét xử.
15



×