Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học: Văn hóa Ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.82 KB, 11 trang )

Văn hóa Ấn Độ trong sáng tác của
Hồ Anh Thái
Nguyễn Thị Kim Thanh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. ngành: Lý luận văn học; Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Tìm hiểu những vấn đề chung về văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá - văn
học, bức tranh chung về văn hoá Ấn Độ và dòng chảy Ấn Độ trong sáng tác Hồ Anh
Thái. Tái dựng bức tranh lắp ghép đa chiều quá khứ – hiện tại về tính cách con
người và xã hội nơi xứ sở Ganga. Tìm hiểu một nét đặc trưng trong nhân sinh quan
của Hồ Anh Thái: cảm hứng Phật giáo và sự chi phối của cảm hứng này trong sáng
tác của nhà văn. Khảo sát và phân tích kĩ thuật xử lý chất liệu văn hoá Ấn Độ của Hồ
Anh Thái: yếu tố ảo – kỳ ảo; người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật; sự đa thanh
của giọng điệu trần thuật.
Keywords. Lý luận văn học; Văn hóa Ấn Độ; Văn học Việt Nam; Truyện ngắn
Content
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Anh Thái là một trong những tên tuổi đáng chú ý của nền văn xuôi đương đại Việt
Nam với sức viết dồi dào và khá đa dạng. Gần như năm nào Hồ Anh Thái cũng có sách xuất
bản. Mỗi cuốn sách là một lát cắt bén ngọt lách vào giữa những đường gân của cuộc sống và
điểm trúng huyệt cuộc sống. Có lẽ vì vậy tác phẩm của anh luôn được bạn đọc đón đợi và gây
được tiếng vang trong dư luận.
Ấn Độ là một trong những nền văn hoá cổ xưa và lâu đời đã quy tụ quanh mình cả
một trường văn hóa và các tiểu vùng văn hoá rộng lớn. Việt Nam hiện nay không thiếu những
chuyên khảo nghiên cứu về nền văn hoá ấn Độ. Nhưng trong lĩnh vực sáng tác văn học dường
như đây vẫn còn là một miền đất chưa mấy ai khai phá.
Hồ Anh Thái đã có sáu năm sống và học tập trên đất nước ấn Độ (1988 -1994). Đây
có thể coi là một cơ duyên hiếm có tạo điều kiện cho Hồ Anh Thái tìm hiểu, khám phá về đất
nước, con người và xứ sở Ganga. Tầm văn hoá của một tiến sĩ văn hoá phương Đông, cái


nhìn sắc bén của một cử nhân quan hệ quốc tế hoà trong cảm nhận tinh tế của một nhà văn có
cơ hội ngụp lặn thả sức mình trong các đại dương văn hoá ấn Độ cổ kính, kỳ vĩ. Không dừng
lại ở cách viết phảng phất chất huyền bí của người ấn mà có hẳn một dòng chảy văn hoá ấn
Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Và chính những sáng tác về đề tài ấn Độ này đã tạo ra
những nét độc đáo trong văn phong và ghi những dấu ấn sâu đậm trong nghiệp văn của anh.


Vì những lý do trên, trong luận văn này chúng tôi tiến hành nghiên cứu Văn hoá ấn Độ
trong sáng tác của Hồ Anh Thái – một sắc diện khá đặc trưng trong sáng tác của nhà văn có
phong cách độc đáo này.
2. Lịch sử vấn đề
Những bài viết về Hồ Anh Thái xuất hiện khá nhiều và cũng khá đa dạng về hướng khai
thác. Nhưng tìm kiếm Hồ Anh Thái theo hướng đi vào mảng đề tài văn hoá ấn Độ trong sáng
tác của anh thì chưa có luận văn nào triển khai.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và nghiên cứu những nét văn hoá - xã
hội ấn Độ và cách thức xử lý chất liệu văn hoá ấn trong sáng tác của Hồ Anh Thái qua ba tác
phẩm viết về đề tài này: Tiếng thở dài qua rừng kim tước (tập truyện, NXBHNV, Hà Nội,
1998); Đức Phật, nàng Savitri và tôi (tiểu thuyết, NXB Đà Nẵng, 2007) và Namaska! Xin
chào ấn Độ (Tiểu luận và biên khảo, NXB Hà Nội, 2008).
4. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm những phần sau:
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3. Lịch sử vấn đề
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Mục đích, ý nghĩa
6. Cấu trúc đề tài
Chương 1: Văn hóa và nguồn cảm hứng về văn hóa ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái

1.1 Quan niệm chung về văn hóa
1.1.1 Định nghĩa văn hóa
1.1.2 Phân biệt văn hóa với một số thuật ngữ liên quan
1.2 Cảm hứng sáng tác văn học từ chất liệu văn hóa của nước ngoài
1.3 Sáng tác về văn hóa ấn Độ của Hồ Anh Thái
1.3.1 Khái quát chung về nền văn hóa ấn Độ
1.3.2 Dòng chảy ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Chương 2: Bức tranh văn hóa – xã hội ấn Độ và cảm hứng Phật giáo trong sáng tác của Hồ
Anh Thái
2.1 Con người ấn Độ dưới ngòi bút Hồ Anh Thái
2.1.1 Tinh thần mộ đạo
2.1.2 Sức sống mãnh liệt và khao khát theo đuổi giá trị cuộc sống
2.1.3 Hòa hợp với thiên nhiên
2.2 Xã hội ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái
2.2.1 Sự phân chia đẳng cấp
2.2.2 Bi kịch của người phụ nữ và vấn đề nữ quyền
2.2.3 Vấn đề tình yêu và tình dục trong xã hội ấn Độ
2.2.4 Văn hóa xã hội ấn Độ - đa dạng và thống nhất
2.2.5 Một số vấn đề văn hóa – xã hội khác
2.3 Cảm hứng Phật giáo trong văn chương Hồ Anh Tháia
2.3.1 Vai trò của Phật giáo trong xã hội ấn Độ
2.3.2 Tinh thần giải thương Đức Phật
2.3.3 Sự biểu hiện tư tưởng Phật giáo
Chương 3: Phương thức tiếp cận và xử lý chất liệu văn hóa ấn Độ của Hồ Anh Thái
3.1 Sử dụng yếu tố ảo – kỳ ảo
3.1.1 Quan niệm về cái ảo – kỳ ảo
3.1.2 Những dạng thức cái kỳ ảo trong sáng tác về văn hóa ấn Độ của Hồ Anh Thái


3.2 Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật

3.2.1 Cơ sở lý luận
3.2.2 Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong sáng tác Hồ Anh Thái
3.3 Sự đa thanh của giọng điệu trần thuật
3.3.1 Giọng điệu trần thuật trong sáng tác của Hồ Anh Thái
3.3.2 Sự đa thanh của giọng điệu trần thuật trong sáng tác viết về ấn Độ
Kết luận
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Văn hoá và nguồn cảm hứng về văn hoá ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh
Thái
1.1. Quan niệm chung về văn hoá
Trên cơ sở đưa ra nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau của các học giả trong nước và
thế giới về văn hoá  người viết đưa ra cách hiểu chung nhất về văn hoá: Văn hoá là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Con người là chủ thể sáng tạo ra
văn hoá và những nét văn hoá đó sẽ quy định phương thức ứng xử của cả cộng đồng người;
Văn hoá là một dòng chảy bắt nguồn từ quá khứ, được hiện tại tiếp tục bồi đắp để tạo lập
những giá trị nền tảng cho tương lai; Văn hoá mang tính dân tộc rõ nét.
1.2. Cảm hứng sáng tác văn học từ chất liệu văn hoá của nước ngoài
Trong văn học Việt Nam và thế giới, việc kể chuyện về văn hoá, con người của một đất
nước khác không phải là chuyện hiếm. Tuy nhiên đây không phải là chuyện dễ. Công việc
này một mặt bắt nguồn từ chính sức hút nội tại của nền văn hoá; mặt khác phụ thuộc vào tài
năng và sự tinh tế trong cảm nhận cũng như quá trình lao động nghệ thuật hết mình của người
viết.
1.3. Sáng tác về văn hoá ấn Độ của Hồ Anh Thái
Đối với Hồ Anh Thái, việc đến với ấn Độ trước hết là một nhân duyên. Trong thời
gian sinh sống tại ấn Độ, Hồ Anh Thái không bỏ lỡ cơ hội khám phá các vùng đất nổi danh
cũng như tiếp xúc với nhiều tầng lớp người ấn, cố gắng thu thập nhiều tài liệu quý hiếm để
làm cơ sở cho những sáng tạo của mình. Và tập truyện ngắn Tiếng thở dài qua rừng kim tước;
tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi; Tập biên khảo Namaska! Xin chào ấn Độ đã ra đời
từ những nỗ lực hết mình đó của nhà văn.
Chương 2: Bức tranh văn hoá - xã hội ấn Độ và cảm hứng Phật giáo trong sáng tác của

Hồ Anh Thái
2.1. Con người ấn Độ dưới ngòi bút Hồ Anh Thái
2.1.1. Tinh thần mộ đạo
Mộ đạo ở đây với nghĩa là tư tưởng sùng kính thánh thần, là vai trò tối cao của tôn
giáo trong tâm linh con người. Một người mộ đạo tức là người hoàn toàn tin tưởng vào ý
nghĩa và sự cao cả của tôn giáo cũng như của thánh thần trong đời sống. Họ hướng tới đó với
sự sùng kính linh thiêng.
Trong cuộc sống của người ấn Độ thần linh có vai trò vô cùng quan trọng. Thần linh
là hiện diện của uy quyền, của sức mạnh siêu nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của những
gì cao đẹp nhất trong cuộc sống: lòng từ bi bác ái, sự công bằng và hướng thiện. Do vậy
người ấn luôn suy nghĩ và hành động dưới sự giám sát, bảo hộ và soi đường của thần linh. Và
chính ý thức về đời sống tâm linh đã làm nên chiều sâu trong suy nghĩ của người ấn, tạo nên
sự nhẫn nhịn và cam chịu nhiều khí đến khó hiểu trong tính cách của họ.
2.1.2. Sức sống mãnh liệt và khao khát theo đuổi giá trị cuộc sống
Người ấn sùng đạo, sống cam chịu và bền bỉ. Người ấn ít nói và có cảm giác như mỗi
cá nhân là một tiểu vũ trụ bất khả xâm phạm. Nhưng đằng sau dáng vẻ âm thầm và chịu


đựng, sau vẻ lầm lì đến khó hiểu ấy lại chứa đựng những trái tim nhiệt thành, khát sống, là
những bộ óc thông minh, linh hoạt; là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và rất sâu sắc.
2.1.3. Hòa hợp với thiên nhiên
Có một di sản lớn mà Phật giáo để lại trong tính cách ấn Độ là tôn trọng sự sống của
muôn loài. Người ấn quan niệm rằng: lẽ nào người ta lại đi sát sinh, hủy diệt sự sống của
những giống loài khác, trong khi ai ai cũng coi mạng sống của mình là quý nhất trên đời?
Giáo lý của nhà Phật đó ngấm dần, lan tỏa khắp tiểu lục địa ấn Độ và ảnh hưởng sang các tôn
giáo khác, cho tới ngày nay trở thành một phần tính cách ấn.
2.2. Xã hội ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái
2.2.1. Sự phân chia đẳng cấp
ấn Độ là đất nước có chế độ phân chia đẳng cấp nặng nề kéo dài hàng nghìn năm.
Người dân ấn đã “ăn đời ở kiếp” với sự phân biệt này và thậm chí đã tạo nên những đặc trưng

riêng trong tính cách và suy nghĩ của họ. Ngày nay, mặc dù ấn Độ là một nước theo nền cộng
hoà với chủ trương “bình đẳng giai cấp và giải phóng đẳng cấp” nhưng dư âm của sự phân
biệt đẳng cấp ngàn năm trước vẫn còn đọng lại trong đời sống, trong tâm thức người dân. Hệ
thống đẳng cấp vẫn tồn tại ngấm ngầm, đặc biệt là ở nông thôn và những vùng xa đô thị,
lặng lẽ sắp đặt ngôi thứ và trật tự trong các làng xã.
2.2.2. Bi kịch của người phụ nữ và vấn đề nữ quyền
Vấn đề thân phận Eva trong xã hội ấn Độ không phải là vấn đề mới mẻ. Nhưng nó đã,
đang và sẽ luôn nhức nhối trong lòng mỗi nhân tâm. Qua trang viết của Hồ Anh Thái người
đọc cảm thấu được những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội ấn Độ cổ đại và hiện đại.
Dường như mỗi người phụ nữ trong xã hội ấn Độ đều ít nhiều mang trên mình những nỗi đau.
Nhưng nỗi đau lớn nhất là không được làm chủ chính mình. Họ được sinh ra và quyền định
đoạt số phận nằm ngoài tầm tay họ (phụ thuộc vào cha mẹ, vào phong tục, tập quán xã hội,
vào nhà chồng).
Hồ Anh Thái không chỉ nêu ra bi kịch của người phụ nữ mà quan trọng hơn anh còn
truy tìm và cố gắng cắt nghĩa nguồn gốc bi kịch của họ. Những nỗi đau mà người phụ nữ phải
hứng chịu một phần không nhỏ bắt nguồn từ những tập tục, hủ tục lạc hậu đã mục ruỗng
nhưng vẫn còn sức níu kéo sự hiện hữu ở đời. Mặt khác, bi kịch cũng nảy sinh từ sự đói
nghèo, từ sự nhẫn tâm của người đời. Và cũng từ đó, biết bao cảnh ngộ thương tâm, éo le
“giữa xã hội như thể chợ trời” đã diễn ra.
Vấn đề nữ quyền và bi kịch của người phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của Ấn Độ.
Và sáng tác của Hồ Anh Thái không những đó “điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ”
(K.Pandey – tiến sĩ văn học người Ấn) mà còn mang màu sắc nhân loại trong việc đề cập đến
những vấn đề chung muôn thuở.
2.2.3. Vấn đề tình yêu và tình dục trong xã hội ấn Độ
Qua trang viết của Hồ Anh Thái, người đọc nhận thấy sự tồn tại song hành của hai thế
giới đối lập nhau trong xã hội ấn Độ: Một ấn Độ của hàng ngàn những quy tắc và định kiến
trong sự phân chia giai cấp nặng nề; một ấn Độ lại rất phóng túng và tự do trong quan hệ nam
nữ (ở đó có những con người coi dục lạc là điều duy nhất trên đời và thậm chí còn đồng nhất
tình yêu với tình dục).
Người ấn rất coi trọng sự trinh trắng của người con gái, coi trọng sự chung thuỷ trong

tình yêu nhưng trong hôn nhân lại rất đề cao sự tự do trong quan hệ nam nữ và thậm chí còn
coi quan hệ tình dục là một thứ nghệ thuật được bảo hộ bởi thần tình yêu Kama.
2.2.4. Văn hóa xã hội ấn Độ - đa dạng và thống nhất
ấn Độ là một khối mâu thuẫn lớn, một đất nước chứa đựng rất nhiều điều khác biệt cả
về địa lý, lịch sử, chính trị, xã hội và văn hóa. Những sự khác biệt này tạo cho xã hội ấn Độ
sự đa dạng, nhiều màu sắc nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều thành kiến, phân biệt, thậm chí
xung đột và bạo lực.


Hồ Anh Thái đã đề cập khá nhiều tới các vấn đề nóng bỏng trong đời sống văn hóa –
xã hội ấn Độ. Hiện lên qua những trang văn xuôi là một ấn Độ đan xen đời sống hiện đại với
những tăm tối của một đất nước đang sống cuộc sống ngàn năm của mình. Đó là một ấn Độ
đầy kịch tính trong cuộc đấu tranh giữa văn minh và lạc hậu, giữa cái Thiện và cái ác; giữa
hoà bình và những bất ổn thường trực; một ấn Độ trong xu thế hội nhập với những câu
chuyện bi hài.
2.2.5. Tính chân thực trong cảm quan về ấn Độ qua sáng tác của HAT
Qua lăng kính của một người ngoại quốc, những tác phẩm về ấn Độ của Hồ Anh Thái
mang sắc thái rất riêng, vừa khách quan vừa chủ quan, vừa chung vừa riêng so với những nhà
văn người ấn viết về chính quê hương mình. Không bị ngợp bởi ký ức của nền văn hóa khổng
lồ, không sa chân vào bóng tối mênh mông, những trang văn về đất nước ấn Độ của Hồ Anh
Thái đã chạm đến ngưỡng của sự chân thực khi định vị về văn hóa của ấn Độ.
2.3. Cảm hứng Phật giáo trong văn chương Hồ Anh Thái
Trong những nhân tố tạo lập nên tư tưởng văn chương của Hồ Anh Thái có lẽ nhân
sinh quan Phật giáo đóng vai trò quan trọng. Dấu ấn của tôn giáo lớn này in đậm trong văn
xuôi của Hồ Anh Thái, tạo thành một nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào và chi phối khá nhiều
tới văn phong của anh.
2.3.1. Vai trò của Phật giáo trong xã hội ấn Độ
Ra đời khoảng 500 năm TCN, đạo Phật là sản phẩm điển hình của tư duy và văn hóa
ấn Độ. Phật giáo đã ăn sâu vào phong tục tập quán, lối nghĩ và hành xử của người ấn, trở
thành một nét đặc trưng văn hóa tạo nên tính cách dân tộc ấn.

2.3.2. Tinh thần giải thiêng Đức Phật
Tinh thần giải thiêng ở đây không có nghĩa là báng bổ thánh thần mà theo nghĩa quét
sạch mây mù huyền thoại bao quanh cuộc đời Đức Phật để làm hiển lộ chân dung một nhà
hiền triết, một nhà tư tưởng đã tìm ra con đường giải thoát cho chúng sinh khỏi những nỗi
khổ trần gian. Đây là cách tiếp cận rất đặc biệt của Hồ Anh Thái.
Xuyên suốt các chương Đức Phật (trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi)
người đọc nhận thấy thường xuyên có một sự phản biện ngầm của tác giả trước những chi tiết
mang màu sắc huyền thoại về Đức Phật mà kinh điển Phật giáo đã ghi lại. Tinh thần giải
thiêng còn được thể hiện qua việc phát triển đạo pháp và xây dựng giáo hội của Đức Phật. Và
sự tồn tại của nàng công chúa Savitri cùng “tình yêu dữ dội” (chữ dùng của Hồ Anh Thái)
dành cho hoàng tử Siddhartha đã hoàn tất quá trình giải thiêng hình ảnh Đức Phật.
2.3.3. Sự biểu hiện tư tưởng Phật giáo
Trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi, thông qua việc dựng lại câu chuyện
biên niên về cuộc đời của Đấng Giác Ngộ, Hồ Anh Thái đã chuyển tải một cách nhuần
nhuyễn những nguyên lý cơ bản của học thuyết Phật giáo.
Tư tưởng đó một mặt được thể hiện thông qua những lời giáo huấn trực tiếp của Đức
Phật, mặt khác còn được chuyển tải qua cuộc đời và số phận của các nhân vật. Hồ Anh Thái
đã lý giải số phận con người bằng cái nhìn Phật giáo: quy luật nhân quả, luật luân hồi và sức
mạnh của tình thương, của sự giác ngộ qua cuộc đời của tên cướp Anguli Mali, của
Ajatasatru và cuộc đời của công chúa Savitri.
Với việc vay mượn những truyền tích Phật giáo, sáng tạo và hư cấu trên tinh thần tôn
trọng lõi chân sử, kết hợp khéo léo giữa huyền thoại và lịch sử, sử dụng bảng phối giọng đa
âm, Hồ Anh Thái đó thành công trong việc dựng lên chân dung một Đấng giác ngộ vừa
thiêng liêng vừa gần gũi cũng như chuyển tải khá nhuần nhuyễn những tư tưởng của đạo Phật
vào tác phẩm mà không hề khiên cưỡng.
Chương 3: Phương thức tiếp cận và xử lý chất liệu văn hoá ấn Độ của Hồ AnhThái
3.1. Sử dụng yếu tố ảo - kỳ ảo
3.1.1. Quan niệm về cái ảo - kỳ ảo



Trên cơ sở những quan điểm của các học giả trong nước và thế giới, người viết tổng
hợp và xin đưa ra cách hiểu về bản chất cái kỳ ảo: Cài kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng
bay bổng và kì diệu của nhà văn. Nó có mầm mống, cơ sở từ hiện thực nhưng tồn tại dưới
dạng các yếu tố phi thực thấm đẫm màu sắc hoang đường; Dạng thức tồn tại của cái kỳ ảo:
với tư cách là một kiểu tư duy hoặc một thủ pháp nghệ thuật; Sắc thái của cái kỳ ảo: gắn liền
với nỗi sợ hãi của con người; khát vọng của con người; niềm tin, mơ ước của con người về
cuộc sống, qua đó người viết cắt nghĩa, lý giải và bộc lộ quan điểm về những vấn đề của đời
thường.
3.1.2. Những dạng thức cái kỳ ảo trong sáng tác về văn hoá ấn Độ của Hồ Anh Thái
3.1.2.1. Phục sinh nhân vật truyền thuyết
Nhân vật truyền thuyết là những nhân vật có thực được tái sinh bằng huyền thoại. Nhà
văn đã dựa trên cái lõi của sự thực lịch sử và khoác lên nhân vật vầng hào quang của những
yếu tố huyền ảo.
Nhân vật được bất tử và cao đẹp hơn, lạ hơn nhờ bút pháp huyền ảo đó. Người đọc có
thể nhận thấy sự hiện diện của loại nhân vật này qua các truyện ngắn Đến muộn, Chuyện
cuộc đời Đức Phật, Kiếp người đi qua, Thi nhân (trong tập truyện Tiếng thở dài qua rừng
kim tước) mà thực chất đã được lồng thành những câu chuyện nhỏ xoay quanh Đức Phật
trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi (trừ truyện ngắn Thi nhân). Những câu chuyện
có nguồn gốc từ huyền thoại và Hồ Anh Thái dựa trên trí tưởng tượng làm sống lại những
huyền thoại.
3.1.2.2. Kể lại sự tích về các vị thần
Bản thân việc kể lại câu chuyện về các vị thần linh không mang yếu tố kỳ ảo mà màu
sắc kỳ ảo được tạo ra bởi chính câu chuyện về vị thần đó. Khảo sát tác phẩm của Hồ Anh
Thái, người viết còn nhận thấy trong sáng tác viết về ấn Độ, đặc biệt trong tiểu thuyết Đức
Phật, nàng Savitri và tôi, Hồ Anh Thái đã để các nhân vật của mình kể khá nhiều huyền thoại
về các vị thần trong tín ngưỡng của người ấn.
3.1.2.3. Đối thoại tâm linh
Đối thoại tâm linh là một hình thức đào sâu vào thế giới tâm linh, mở ra những điều bí
ẩn mà nhiều khi bằng cái nhìn duy lý, con người không bao giờ chạm tới được. Chính đối
thoại tâm linh góp phần tạo nên màu sắc hư ảo cho tác phẩm.

Khảo sát các tác phẩm viết về ấn Độ của Hồ Anh Thái người viết nhận thấy có sự tồn
tại của một hệ thống các nhân vật thần linh trong tín ngưỡng, tôn giáo. Và hình thức đối thoại
tâm linh chủ yếu được nhà văn vận dụng là để các nhân vật đối thoại với các lực lượng thần
bí, siêu nhiên. Những nhân vật thần linh này thuộc kiểu nhân vật vô hình, không trực tiếp
xuất hiện, hành động nói năng mà chỉ tồn tại trong suy nghĩ và tâm thức con người. Chính
niềm tin vào sự tồn tại của thánh thần và sức mạnh của lực lượng siêu nhiên trong thế giới
tâm linh của người ấn đã tạo nên một vẻ đẹp bí ẩn, kỳ ảo cho những trang viết của Hồ Anh
Thái.
3.1.2.4. Chi tiết mang màu sắc cổ tích
Hình thức “truyện giả cổ” hoặc mang hơi hướng cổ tích là hướng khai thác được rất
nhiều nhà văn lựa chọn. Vay mượn những thi pháp quen thuộc của thế giới cổ tích, các nhà
văn đã lồng vào đó tâm thức của con người hiện đại.
Khảo sát các tác phẩm viết về văn hoá ấn Độ của Hồ Anh Thái người viết nhận thấy
có sự tồn tại của những chi tiết mang sắc thái cổ tích. Và môtip quen thuộc trong cổ tích được
Hồ Anh Thái sử dụng nhiều nhất trong sáng tác của mình là môtip kén dâu, kén rể, môtíp đua
tài.
3.1.2.5. Sử dụng các chi tiết mang tính biểu tượng
Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống thực bằng những chi tiết gỡ
nhặt được từ đời sống ồn tạp vừa tạo nên một thế giới ngập đầy những biểu tượng. Thông
điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy


chất ảo (hình ảnh rừng kim tước; tiếng sáo của Raja, hình ảnh cuộc sống của con người trong
thung lũng).
3.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
3.2.1. Cơ sở lý luận
Người kể chuyện là một phạm trù cơ bản của trần thuật học, là câu trả lời cho câu hỏi
“Ai nói”, “Ai là người mang giọng kể trong tác phẩm”, là người đứng sau tất cả những gì
được thể hiện trong tác phẩm tự sự. Người kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện
quan điểm tác giả trong tác phẩm. Nói đến người kể chuyện là nói đến điểm nhìn được xác

định trong hệ đa phương, không gian, thời gian, tâm lý tạo thành góc nhìn. Điểm nhìn chi
phối cách kể, giọng kể. Việc gắn kết điểm nhìn với người kể chuyện là một mắt xích quan
trọng trong trần thuật học.
Ở tác phẩm của Hồ Anh Thái, nhà văn thâm nhập vào thế giới văn hóa ấn Độ dưới
nhiều góc nhìn khác nhau. Việc vận dụng linh hoạt nhiều điểm nhìn cũng như dạng thức kể
chuyện sinh động giúp nhà văn dễ dàng, chủ động hơn khi khám phá cả phần chìm cũng như
phần nổi trong đời sống hàng nghìn năm của dân tộc ấn huyền bí.
3.2.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong sáng tác Hồ Anh Thái
3.2.2.1 Dạng thức người kể chuyện
Hai dạng thức kể chuyện phổ biến là ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất. Sự vận dụng
linh hoạt hai dạng kể này mang lại cho sáng tác của Hồ Anh Thái góc nhìn đa chiều,
khách quan và chân thực về đất nước, con người xứ Ấn.
Và xuyên suốt các tác phẩm của Hồ Anh Thái, luôn có sự hiện diện của hình
bóng tác giả, khi với vai trò là người kể chuyện xưng tôi, khi lại với vai trò của người
kể chuyện ngôi thứ 3. Trong mỗi bước chân, trong mỗi cuộc hành trình khám phá quê
hương đức Phật, Hồ Anh Thái luôn cố gắng lưu giữ và biến những trải nghiệm của mình
thành những câu chuyện thú vị như một món quà gửi tới độc giả, với mong muốn mỗi
trang sách sẽ cung cấp những kiến thức nhập môn bổ ích.
3.2.2.2 Sự luân chuyển các điểm nhìn
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, điểm nhìn thường xuyên có sự thay đổi, di chuyển
linh hoạt. Điển hình cho cách kể linh hoạt và góc nhìn đa chiều chớnh là tiểu thuyết Đức
Phật, nàng Savitri và tôi. Tiểu thuyết gồm một nhân vật trung tâm là Đức Phật và hai nhân
vật chính: Savitri (nhân vật 2 trong 1) và nhân vật xưng “tôi” – nhà nghiên cứu văn hóa Ấn
Độ.
Viết về một nhân vật vĩ đại, từng được/bị phong kín trong huyền thoại đó hơn 2500
năm, Hồ Anh Thái cũng không dễ dãi tựa lưng vào lịch sử để viết một tiểu thuyết “lịch sử - tư
liệu” thông thường. Và cũng không dựa theo huyền thoại để dễ dàng vô độ về hư cấu. Chọn
một điểm nhìn trung hòa, ở giữa hai thái cực, Hồ Anh Thái đã thành công về ý đồ sáng tạo
được nghiền ngẫm rất kỹ. Liên tục di chuyển góc nhìn, Đức Phật được nhìn từ nhân vật nàng
Savitri - một cái nhìn dục lạc, trần thế rồi chuyển sang góc nhìn thâm trầm của nhân vật Tôi –

một cái nhìn như thể muốn cân bằng âm dương giữa Đức Phật và Savitri, nhằm tạo cho cuốn
tiểu thuyết một từ trường thu hút độc giả, với sự mở ngỏ cố ý của tiểu thuyết.
Theo bước chân của ba nhân vật, người đọc liên tục đi đi lại lại giữa quá khứ và hiện
tại. Dễ hình dung rằng tác giả đã tạo ra một con lắc thời gian bằng ba nhân vật ấy để đưa
người đọc đi - về. Mỗi lần đưa đi là một lần tri nhận về thời đại và cuộc đời Đức Phật, mỗi
lần đưa lại là một lần giật mình thức tỉnh trong đời thực.
3.3. Sự đa thanh của giọng điệu trần thuật
3.3.1. Giọng điệu trần thuật trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Giọng điệu trần thuật là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả”. Nó là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học”, là yếu tố
quan trọng tạo nên phong cách nhà văn.


Nhận xét về giọng điệu trong sáng tác của Hồ Anh Thái, các nhà phê bình đều đi đến
một thống nhất: Hồ Anh Thái là một cây bút đa giọng điệu (tức là anh luôn thay đổi giọng
điệu theo từng chủ đề, đề tài và cảm hứng khác nhau). Sự đan cài giọng điệu như vậy sẽ giúp
nhà văn phản ánh được nhiều mặt khác nhau của cuộc sống và con người.
3.3.2 Sự đa thanh của giọng điệu trần thuật trong sáng tác viết về ấn Độ
3.3.2.1. Giọng thương cảm, tâm tình
Là một nhà văn “ẩn sĩ” nhưng Hồ Anh Thái lại có một tâm hồn nhạy cảm. Do đó, anh
bắt rất nhạy những nỗi đau đớn, mất mát của con người và viết về nó bằng tấm lòng chia sẻ,
cảm thông với một giọng điệu tâm tình cảm thương sâu sắc.
3.3.2.2. Giọng hài hước giễu nhại
Những trang viết của Hồ Anh Thái luôn không thiếu tiếng cười. Cái cười vui vẻ thì ít
mà chủ yếu là cái cười cất lên từ giọng hài hước giễu cợt để nói về những thói xấu, để thức
tỉnh. Tiếng cười một mặt bật ra từ những tình huống truyện “chẳng giống ai”; mặt khác còn
được thể hiện trực tiếp qua sắc thái ngôn ngữ của người kể chuyện. Giọng hài hước mỉa mai
của Hồ Anh Thái còn nằm ngay ở sự giễu nhại. Đây là một nét độc đáo trong phong cách của
Hồ Anh Thái so với nhiều cây bút cùng thời. Anh thường nhại như vậy để tô đậm thêm, gây
sự hài hước, châm biếm những khuyết tật của cuộc sống và con người. Nhà văn cười cái xấu

để thức tỉnh nhiều hơn là để phủ định - một tiếng cười có chiều sâu triết lý và giàu ý nghĩa
nhân văn.
3.3.2.3. Giọng hiện thực sắc lạnh
Giọng hiện thực sắc lạnh thường thấy khi Hồ Anh Thái khắc họa triệt để thói xấu đáng
sợ của con người. Giọng điệu này là sự vô cảm cố tình, là lòng thương nén nhịn của Hồ Anh
Thái trước cái được phản ánh. Nói về cái ác một cách tỉnh táo, lạnh lùng, anh muốn lay tỉnh
cái thiện trong mỗi con người, đặt nhiều hy vọng vào cõi người.
3.3.2.4. Giọng suy ngẫm triết lý
Hồ Anh Thái có hẳn một mảng truyện lấy cảm hứng từ cuộc đời Đức Phật. Do vậy
chất giọng suy nghiệm về thiện - ác, chân – nguỵ, cao thượng – tầm thường được thể hiện
đậm đặc nhất trong những sáng tác này. Những triết lý ấy có thể được thể hiện trực tiếp qua
suy nghĩ và những lời giáo huấn của Đức Phật; được rút ra từ những bài học đời sống rất
thực, rất đời, rất người; có khi từ những điều nhỏ nhặt, tầm thường Hồ Anh Thái cũng khái
quát thành những vấn đề có tính triết lí (khi ấy giọng triết lí thường pha chất mỉa mai, chua
chát).
3.3.2.5 Giọng chính luận
Gắn liền với những chỉ dẫn của Hồ Anh Thái về xứ sở ấn Độ: các danh thắng, phong
tục tập quán độc đáo và người kể chuyện ở đây đóng vai trò là người giới thuyết – một hướng
dẫn viên du lịch thực thụ.
Với kĩ thuật xử lý chất liệu nghệ thuật điêu luyện, nhuần nhuyễn; kết hợp khéo léo
giữa yếu tố huyền ảo và sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật, các trang viết của Hồ Anh
Thái đã “điểm trúng huyệt tính cách con người ấn Độ” (P.Kandey) – một thành quả hấp dẫn
nhưng không phải ai cũng có thể đạt được.
C. KẾT LUẬN
Qua ba chương tìm tòi, phân tích và lí giải, luận văn đi đến một số nhận xét có tính
chất tổng kết về đề tài văn hoá ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái như sau:
1. Thời gian sống và làm việc trên đất nước ấn Độ là một cơ duyên hiếm có tạo điều
kiện cho Hồ Anh Thái tìm hiểu và khám phá về con người, đất nước, văn hoá xứ sở Ganga.
2. Viết về ấn Độ trong cái nhìn chuyển tiếp từ quá khứ hàng nghìn năm tới thời hiện
tại, Hồ Anh Thái đã lựa chọn phương thức huyền ảo. Đây không phải là phương thức mới lạ

trong văn chương cũng không phải là lần đầu tiên Hồ Anh Thái vận tới kĩ thuật này. Điều
đáng chú ý là Hồ Anh Thái không có ý lạm dụng yếu tố kỳ ảo để tạo ra một thế giới huyền


hoặc, hoang đường với ý định làm tăng lên sự bí hiểm về cái xứ sở vốn vẫn luôn là một dấu
hỏi lớn với thế giới!
3. Trong các sáng tác về ấn Độ, Hồ Anh Thái đã vận dụng linh hoạt và đan xen nhuần
nhuyễn nhiều giọng điệu trần thuật khác nhau. Sự đa giọng điệu như vậy giúp nhà văn phản
ánh nhiều mặt khác nhau của cuộc sống và con người ấn Độ. Tuy phong phú, đa dạng nhưng
không phải là riêng rẽ, tách biệt. Các giọng điệu tồn tại đan cài và bổ trợ cho nhau để làm
tăng hiệu quả phản ánh. Đó chính là sự thống nhất trong đa dạng – một đặc trưng trong phong
cách nghệ thuật của Hồ Anh Thái. Sự thống nhất này bắt nguồn từ một nền tảng văn hoá
vững chắc và tầm nhìn nhân sinh sắc sảo và rất nhân bản của Hồ Anh Thái. Đây là thành tựu
về nghệ thuật tổ chức giọng điệu mà Hồ Anh Thái đã theo đuổi và đạt được.
4. Yếu tố huyền ảo cùng sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật đã trợ giúp đắc lực
cho Hồ Anh Thái trong việc phản ánh, lí giải tính cách con người ấn cũng như bức tranh văn
hoá - xã hội ấn Độ. Đằng sau dáng điệu có vẻ cam chịu, nhẫn nhịn, trầm lặng mộ đạo là
những bộ óc thông minh, linh hoạt; là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và rất sâu sắc.
Những trang viết của Hồ Anh Thái tuy chỉ là những lát cắt ngang nhưng rất sắc bén,
đã “điểm trúng huyệt tính cách con người ấn Độ” (P.Kandey), đã phản ánh khá trung thực
bức tranh đời sống văn hoá - xã hội ấn Độ trong cái nhìn nối tiếp từ quá khứ – hiện tại. Đó là
một đất nước ấn Độ đan xen đời sống hiện đại với những tăm tối của một đất nước đang sống
một cuộc sống ngàn năm của mình. Đó là một ấn Độ đầy kịch tính trong cuộc đấu tranh giữa
văn minh và lạc hậu, giữa cái Thiện với cái ác, giữa thần quyền - vương quyền và tư tưởng
dân chủ, giữa sự bình yên muôn đời với những cuộc biểu tình và bạo loạn chính trị. Đó là
một xứ sở với sự phân biệt và kì thị đẳng cấp, sắc tộc đan xen trong tư tưởng tự do và tinh
thần bứt phá.
5. Trong những nhân tố tạo lập nên tư tưởng văn chương của Hồ Anh Thái có lẽ nhân
sinh quan Phật giáo đóng vai trò quan trọng. Phải nói rằng dấu ấn của tôn giáo lớn này in đậm
trong văn xuôi của Hồ Anh Thái, tạo thành một nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào trong anh.

Và chính nguồn cảm hứng Phật giáo này đã ảnh hưởng và chi phối khá nhiều tới phong cách
văn chương của Hồ Anh Thái, mang lại cho ngòi bút của anh một chất giọng đặc trưng: chất
triết lý và thiền định sâu lắng, mang lại cho anh cái nhìn thấm vị nhân sinh và bao dung.
6. Tập tiểu luận và biên khảo Namaska! Xin chào ấn Độ là một cuốn sách nhập môn
độc đáo dành cho những ai muốn khám phá đất nước – văn hóa - con người ấn Độ. Những
khái niệm về ấn Độ đã được tóm lược và đơn giản hóa ở mức dễ tiếp nhận nhất, được trình
bày theo quan niệm của Hindu: tư tưởng, sản phẩm văn hóa, biểu tượng ký hiệu, phong tục
tập quán….
Viết về đề tài Ấn Độ, Hồ Anh Thái đã có những bước đi riêng, mạnh dạn và khá ấn
tượng. Sau ba thành công với Tiếng thở dài qua rừng kim tước; Đức Phật, nàng Savitri và
tụi; tập tiểu luận và biên khảo Namaskar! Xin chào Ấn Độ, hi vọng trong thời gian tới độc giả
Việt Nam sẽ tiếp tục được đón đọc những trang viết tâm huyết và sâu sắc của nhà văn Hồ
Anh Thái về mảng đề tài thú vị nhưng không dễ viết này!

References
A. Tác phẩm
1. Võ Đình Cường, Ánh Đạo Vàng, vnthuquan.net
2. Thích Nhất Hạnh, Đường xưa mây trắng, vnthuquan.net
3. Hồ Anh Thái (1998), Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Hồ Anh Thái (2001), Tự sự 265 ngày, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Hồ Anh Thái (2002), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
6. Hồ Anh Thái (2003), Người đàn bà trên đảo, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
7. Hồ Anh Thái (2003), Trong sương hồng hiện ra, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.


8. Hồ Anh Thái (2005), Bốn lối vào nhà cười, Nxb Đà Nẵng.
9. Hồ Anh Thái (2005), Sắp đặt và diễn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
10. Hồ Anh Thái (2006), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng.
11. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Đà Nẵng.
12. Hồ Anh Thái (2008), Namasaka! Xin chào Ấn Độ, Nxb Văn Nghệ.

B. Sách nghiên cứu
13. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzắc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Lê Doãn Chính (1999), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb CTQG, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hoá tâm linh, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
16. Nguyễn Đức Đàn (1998), Tư tưởng triết học và đời sống văn hoá văn học Ấn Độ, Nxb
Văn hoá, Hà Nội.
17. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb
ĐHQGHN, Hà Nội.
18. Nguyễn Tấn Đắc (2000), Văn hoá Ấn Độ, Nxb TP.HCM.
19. Cao Huy Đỉnh (1993), Văn hoá Ấn Độ, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
20. Hà minh Đức (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên, 1999), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
22. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý văn hoá phương Đông, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
23. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vẤn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.
24. Đỗ Thu Hương, Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện đời sống tâm linh trong
văn xuôi Việt Nam sau 1975, Luận văn thạc sĩ.
25. Nguyễn Thừa Hỷ (1986), Tìm hiểu văn hoá Ấn Độ, Nxb văn hoá, Hà Nội.
25. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội.
26. Ngô Tự Lập, Những đường bay của mê lộ, Nxb Hà Nội,
27. Phương Lựu (chủ biên, 2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Phan Ngọc (2002) Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Cao Xuân Phổ (1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb KHXH, Hà Nội.
30. Các Pốp (1961), Bản chất của văn hoá, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.
31. Trần Đình Sử (chủ biên, 2003), Tự sự học, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Minh Tâm – Thanh Nghi – Xuân Lắm (1999), Từ điển tiếng việt, Nxb Ngôn ngữ học Việt
Nam, Hà Nội.
34. Trần Ngọc Thêm (1995), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trường ĐHTH, Tp.HCM.

35. Lương Duy Thứ (chủ biên, 1997), Đại cương văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
36. Lưu Đức Trung (1998), Văn học Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 2003), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Will Durant (1971), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Sài Gòn.
39. Nhiều tác giả (1994), Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Báo và tạp chí
40. Tạp chí thông tin Unesco, số 2/1988.
41. Tạp chí nghiên cứu khoa học (1999), Giới khoa học phương Tây bàn về khái niệm văn
hoá.
42. Báo Sài Gòn giải phóng (29/9/2007), Một cách khám phá mới qua Đức Phật, nàng Savitri
và tôi, Nguyễn Quốc Trung.
43. Báo Văn nghệ (8/2007), Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi – phật sử và hư cấu văn
chương, Hoài Nam.


44. Tạp chí Văn hoá thế giới (2/2008), Hồ Anh Thái lấy sự ôn hoà mà đáp lại , Nguyễn Minh,
số 51.
45. Talawas (12/2002), Hồ Anh Thái – người mê chơi cấu trúc, Nguyễn Đăng Điệp.
46. Báo Văn Nghệ (2008), Hồ Anh Thái – người lúc nào cũng đang viết.
47. Trang web: www.evan.com.vn
48. Trang web: www.vnthuquan.net
49. Trang web: www.vietnamnet.vn
50. Trang web: www.nld.com.vn



×