Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài tiểu luận phương pháp và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.4 KB, 22 trang )

Đề bài: Trình bày các phương pháp và cơng cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh
tế. Lý luận và thực tiễn các phương pháp và công cụ QLNN về kinh tế mà anh/chị
quan tâm?
Bài làm

Phần 1: Phương pháp Quản lý Nhà nước về
kinh tế
Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác
động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ
phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân (tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế).
Nếu nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là cái phải thi hành và tương đối ổn
định thì phương pháp quản lý của nhà nước về kinh tế lại là cái có thể lựa chọn và
có tính linh hoạt cao.
Q trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những
nguyên tắc đã định. Nhưng các nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện
thơng qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp
quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế. Mục tiêu, nhiệm vụ của quản lý
chỉ được thực hiện thông qua tác động quan trọng đến sự thành công hay thất bại
các mục tiêu và nhiệm vụ của quản lý kinh tế. Vai trò quan trọng của phương pháp
quản lý còn ở chỗ nó nhằm khơi dậy những động lực kích thích tính năng động,
sáng tạo của con người và tiềm năng của hệ thống cũng như các cơ hội có lợi bên
ngoài.
Phương pháp quản lý kinh tế của nhà nước là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua
lại giữa Nhà nước với các đối tượng quản lý kinh tế, tức là mối quan hệ giữa những
con người cụ thể, sinh động với tất cả tính phong phú, phức tạp của đời sống. Vì
vậy, các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là
vấn đề phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế, vì nó chính là bộ phận năng động
nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi
trong từng tình huống cụ thể, tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng cũng như năng
lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước.




Tác động của các phương pháp quản lý kinh tế ln ln là tác động có mục đích
nhằm phối hợp hoạt động, đảm bảo sự thống nhất. Vì vậy, mục tiêu quản lý kinh tế
quyết định việc lựa chọn phương pháp quản lý kinh tế. Trong mọi quá trình quản lý
kinh tế phải luôn luôn điều chỉnh các phương pháp nhằm đạt được mục đích tốt
nhất. Nhà nước có quyền lựa chọn phương pháp quản lý kinh tế nhưng không có
nghĩa là chủ quan, tùy tiện muốn sử dụng phương pháp nào cũng được. Mỗi
phương pháp quản lý kinh tế khi sử dụng lại tạo ra một cơ chế tác động mang tính
khách quan vốn có của nó. Bên cạnh những yếu tố tích cực phù hợp với mục tiêu
dự đốn của Nhà nước cũng có thể xuất hiện một số hiện tượng nằm ngồi dự đốn
ban đầu, thậm chí trái ngược với mục tiêu đặt ra. Điều đó địi hỏi Nhà nước phải tỉnh
táo, sâu sát thực tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu cực
khi chúng xuất hiện.
Như vậy, việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật. Tính khoa học địi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn
có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các
phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt
mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn
và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ quản lý của Nhà
nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm :

1. Các phương pháp hành chính:
Phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng
các quyết định dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách
thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình
huống nhất định.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong QLKT của Nhà nước là tính

bắt buộc, tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp
nhận nghiêm chỉnh các tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích
đáng. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan QLNN chỉ được phép đưa ra các tác động
hành chính đúng với thẩm quyền của mình. Thực chất của phương pháp hành chính
trong QLKT là sử dụng quyền lực nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân
và tổ chức trong hoạt động và quản lý kinh tế.


Vai trị của phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế rất to lớn. Nó xác lập trật
tự kỷ cương làm việc trong hệ thống, kết nối các phương pháp khác lại thành một hệ
thống có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý
rất nhanh chóng.
Phương pháp hành chính tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành
động của đối tượng quản lý kinh tế.
Theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và khơng ngừng hồn
thiện khung pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế yên tâm
hoạt động trong an toàn và trật tự. Những chủ trương chính sách có tầm vóc lớn và
dài hạn của Nhà nước đều phải được thể chế hóa bằng các đạo luật do Quốc hội
thông qua nhằm bảo đảm được chấp hành nhất quán. Ban hành các văn bản quy
định về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác
định những mối quan hệ hoạt động nội bộ theo hướng tác động điều chỉnh hành
động của đối tượng quản lý, quy định những thủ tục hành chính bắt buộc tất cả các
chủ thể cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đến hộ gia đình đều phải tn thủ.
Những cơng cụ này nhằm giúp Nhà nước cụ thể hóa khung luật pháp và các kế
hoạch hướng dẫn thị trường, tác động trực tiếp vào các chủ thể, như thủ tục xét
duyệt cấp giấy phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh,
đăng ký chất lượng, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, thủ tục cấp giấy phép xuất nhập
khẩu.
Phương pháp hành chính địi hỏi chủ thể quản lý phải có quyết định dứt khốt, rõ
ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả năng có sự giải thích khác

nhau đối với nhiệm vụ được giao.
Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy phương
pháp hành chính sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào
những tình huống khó khăn, phức tạp.
Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy phương
pháp hành chính hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào
những tình huống khó khăn, phức tạp.
Đối với những quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện,
khơng được lựa chọn, chỉ có cấp thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi
quyết định.
Cần phân biệt phương pháp hành chính với kiểu quản lý hành chính quan lieu do
việc lạm dụng các kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở


khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở
khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh kiểu đố dễ gây ra các
tổn thất cho quản lý, hạn chế sức sáng tạo của người lao động. Đó là nhược điểm
của phương pháp hành chính, cán bộ quản lý và ác cơ quan quản lý nhà nước nếu
thiếu tỉnh táo, say sưa với mệnh lệnh hành chính thì dễ sa vào tình trạng lạm dụng
quyền hành, là môi trường tốt cho bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh hành chính quan
liêu, các tệ nạn tham nhũng, đặc quyền đặc lợi…
Sử dụng phương pháp hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ
khoa học, được luật chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Người ra quyết định phải hiểu rõ
tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên, khi đưa ra quyết định hành
chính phải cố gắng có đủ thơng tin cần thiết cho việc ra quyết định. Chủ thể quản lý
chỉ ra quyết định trên cơ sở đủ đảm bảo về thong tin. Tập hợp đủ thơng tin, tính tốn
đầy đủ đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan, bảo đảm cho quyết định hành
chính có căn cứ khoa học.
Người quản lý giỏi, có nhiều kinh nghiệm khơng chỉ ra quyết định khi có thơng tin mà
cịn dự đốn được những nét phát triển chính, những mặt tích cực cũng như những

khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi quyết định được thi hành, từ đó sẵn sàng bổ
sung các biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực nếu có.
Hai là, khi sử dụng phương pháp hành chính gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm
của cấp ra quyết định, mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử dụng các quyền hạn đó. ở
cấp càng cao, phạm vi ra quyết định càng rộng, nếu càng sai thì tổn thất càng lớn.
Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm hồn tồn về quyết định của mình.
Như vậy, phương pháp hành chính là hồn tồn cần thiết, khơng có phương pháp
hành chính thì Nhà nước khơng thể quản lý kinh tế có hiệu quả. Hồn chỉnh hệ
thống pháp luật với các thể chế quản lý kinh tế phù hợp là nội dung cơ bản của quản
lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay.

2. Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động gián
tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng
quản lý nhà nước về kinh tế nhằm làm cho họ quan tâm tới hiệu quả cuối cùng của
sự hoạt động, từ đó mà tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, khơng
cần phải có sự tác động thường xun của Nhà nước bằng phương pháp hành
chính.


Mọi hoạt động của con người đều tuân theo yêu cầu của các quy luật khách quan.
Sự chi phối của các quy luật đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh của con
người đều được thực hiện thông qua lợi ích kinh tế. Phương pháp kinh tế trong
quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của nhà nước lên đối tượng quản
lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước lên đối tượng quản lý
nhà nước về kinh tế dựa trên cơ sở vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh
tế, các định mức kinh tế kỹ thuật.
Tác động dựa trên lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy con người tích
cực hoạt động. Động lực đó càng to lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn
các lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế

chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý (là cá nhân hoặc
các doanh nghiệp) xuất phát từ đó mà họ lựa chọn phương án hoạt động vừa đảm
bảo lợi ích riêng, vừa đảm bảo lợi ích chung.
Vì vậy, thực chất của các phương pháp kinh tế là đặt mỗi người lao động, mỗi tập
thể lao động dựa vào những điều kiện kinh tế để họ có khả năng kết hợp với lợi ích
của hệ thống chung. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con người có hiệu
quả nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản lý khơng bằng
cưỡng chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu nhiệm vụ phải đặt ra, đưa ra
những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử
dụng để họ tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chính các tập thể lao động (với tư cách
là đối tượng quản lý) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và lựa chọn phương án
giải quyết vấn đề. Phương pháp kinh tế cho phép có thể sử dụng những giải pháp
kinh tế khác nhau cho cùng một vấn đề. Đồng thời, khi sử dụng các phương pháp
kinh tế, Nhà nước phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện lợi ích cá
nhân và của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của nhà nước.
Phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thân của đối tượng quản lý,
chứa đựng nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên tác động rất nhạy bén linh hoạt,
phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động và các tập thể lao động.
Với một biện pháp kinh tế đúng đắn, các lợi ích được thực hiện thỏa đáng thì tập thể
con người trong hệ thống quan tâm hoàn thành nhiệm vụ, người lao động hăng hái
sản xuất và nhiệm vụ chung được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Phương
pháp kinh tế là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao


hiệu quả kinh tế. Thực tế quản lý chỉ rõ khốn là một biện pháp tốt để giảm chi phí,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Phương pháp kinh tế mở rộng quyền hành động cho các cá nhân và các doanh
nghiệp, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp Nhà nước
giảm được nhiều việc điều hành, kiểm tra, đôn đốc những nhiệm vụ vụn vặt mang

tính chất sự vụ hành chính, nâng cao ý thức kỷ luật tự giác của con người và của
mọi doanh nghiệp. Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn luôn được Nhà nước
định hướng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế của từng
thời kỳ của đất nước. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ gò ép mệnh lệnh
chủ quan mà là những mục tiêu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động.
Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo những
hướng sau:
-

Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều
kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian,
từng phân hệ, tiền cá nhân của hệ thống.

-

Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng…), các
biện pháp địn bẩy, kích thích kinh tế để lơi cuốn, thu hút, khuyến khích các
cá nhân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà,
vừa ích nước.

-

Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước
và thu hút được tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân
người nước ngoài.

Ngày nay, xu hướng chung của các nước là mở rộng việc áp dụng phương pháp
kinh tế. Để làm việc đó cần chú ý một số vấn đề quan trọng sau đây:
Phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường.

Để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các
cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các cấp dưới.
Sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải có trình độ và năng lực về
nhiều mặt bời vì sử dụng phương pháp kinh tế địi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết
về thơng thạo nhiều kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có tác phong
quản lý dân chủ.


Phương pháp kinh tế có độ bão hịa nhanh, do đó phải thường xun hồn thiện
nhất là hệ thống định mức, tiêu chuẩn…

3. Phương pháp tâm lý giáo dục:
Phương pháp tâm lý giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác
động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối
tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt
tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Phương pháp tâm lý giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng
của quản lý là con người - một thực thể năng động và là tổng hòa của nhiều mối
quan hệ xã hội. Do đó, để tác động lên con người khơng chỉ dùng các phương pháp
hành chính, kinh tế, mà cịn có tác động tinh thần, tâm lý - xã hội…
Phương pháp tâm lý giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc
trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân
biệt phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự
giác làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp.
Phương pháp tâm lý giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp
khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, và sâu sát đến từng người
lao động, có tác động giáo dục rộng rãi trong xã hội. Đây là một trong những bí
quyết thành công của nhiều công ty ở Nhật Bản, ở các nước Đơng Nam Á và Bắc
Âu. Khuyến khích về tinh thần phải đi liền với khuyến khích về vật chất.
Nội dung giáo dục:

-

Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để mọi người dân
đều hiểu, đều ủng hộ và đều quyết tâm xây dựng đất nước, có ý chí làm giàu

-

Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức

-

Xóa bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ
nghĩa cá nhân thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đinh đầu óc thiển cận, hẹp
hỏi, tư tưởng địa phương, cục bộ, phường hội, bình qn chủ nghĩa, khơng
chịu để ai hơn mình, ghen ghét đố kỵ nhau, tác phong làm việc luộm thuộm,
tùy tiện, cửa quyền, không biết tiết kiệm thời giờ, thích hội họp

-

Xóa bỏ tàn dư tưởng phong kiến, thói đạo đức già, nói một đằng làm một
nẻo, thích đặc quyền, đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi
thường phụ nữ


-

Xóa bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực
dụng vô đạo đức, cái gì cũng chỉ cốt có lợi, bất kể đạo đức, tình người, chủ
nghĩa tự do vơ Chính Phủ “ cá lớn nuốt cá bé”


-

Xây dựng tác phong hiện đại cơng nghiệp, tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ
chức, tính kỷ luật, đảm nhận trách nhiệm khẩn trương, tiết kiệm.

Các hình thức giáo dục: Sử dụng các phương tiện thơng tin đại chúng (sách bảo, đài
phát thanh, truyền hình…) sử dụng các đồn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến
hành giáo dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển
lãm… sử dụng các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả.

Phần 2: Công cụ Quản lý Nhà nước về kinh tế
1. Khái niệm công cụ quản lý nhà nước về kinh tế:
Thực chất của Quản lý kinh tế vĩ mơ là q trình thiết kế mục tiêu quản lý và
căn cứ vào đó mà sử dụng cơng cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích
hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo mục tiêu đã
định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu
khơng có cơng cụ quản lý tương ứng thì cũng khơng thể thực hiện, vẫn chỉ là mục
tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải là mục tiêu quản lý trong thực hiện.
Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra.
Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vơ
hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm
thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Nói một cách khác, có thể hiểu hệ
thống cơng cụ quản lý nhà nước về kinh tế là toàn bộ những phương tiện cần thiết
mà nhờ đó các cơ quan và các cán bộ quản lý kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu
chung. Chính nhờ có cơng cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động của
quản lý Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ
chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn lãnh thổ quốc gia và các khu vực
phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngồi.
Trong hệ thống cơng cụ đó, việc sử dụng chúng như thế nào lại tùy thuộc vào

trình độ phát triển của bản thân nền kinh tế, hoàn cảnh trong nước hay quốc gia, tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước và năng lực đội ngũ cán bộ,..v.v.v.


Trong cơ chế kinh tế kế hoạch trước đây, chúng ta cũng có hệ thống cơng cụ
quản lý nhưng được tạo ra để điều hành nền kinh tế tập trung. Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, hệ thống công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng cần phải đổi mới,
gạt bỏ những yếu tố lạc hậu cho phù hợp với điều kiện mới. Đặc điểm chung của
các phương tiện sử dụng để quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là mang tính
chất can thiệp trực tiếp áp đặt ý đồ của ng quản lý lên đối tượng quản lý. Trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng phát triển XHCN, các cơ quan quản lý nhà nước
chỉ có thể can thiệp vào q trình phát triển của nền kinh tế một cách gián tiếp thông
qua cơ chế hoạt động của thị trường. Như vậy, các chiến lược các kế hoạch dài
hạn, các dự án phát triển… được vạch ra chỉ mang tính chất định hướng. Trên cơ
sở đó, Nhà nước sử dụng cơng cụ pháp luật kinh tế và các hệ thống chính sách
khuyến khích tác động vào quan hệ lợi ích của chủ thể kinh tế, khuyến khích họ vì
theo đuổi lợi ích riêng mà hoạt động cho sự nghiệp chung.

2.Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế:
2.1. Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội:
Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội là khởi đầu của quá trình xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, được xem là công cụ hàng đầu của Nhà
nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Về đường lối phát triển đất nước
Đường lối phát triển đất nước là định hướng lâu dài cần đạt được do chính Đảng
cầm quyền một quốc gia đặt ra nhằm hướng toàn bộ các quá trình xã hội, các hành
vi hoạt động của cơng dân, các quan hệ đối ngoại bên ngồi để từng bước đạt mục
đích đó. Nó mang tính định tính, phản ánh bản chất của hệ thống chính trị - xã hội.
Ở Việt Nam, đường lối phát triển kinh tế đất nước do Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra và thực hiện. Đó là việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN.
+ Đường lối phát triển kinh tế phải giải đáp các nội dung cơ bản sau:
- Đường lối đó phải dựa trên học thuyết chính trị nào? Giai cấp nào lãnh đạo
và quản lý xã hội?
- Chế độ sở hữu trong xã hội ra sao?


- Động lực phát triển kinh tế
- Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế
- Thái độ với con người, khoa học công nghệ, các truyền thống của dân tộc,
quan hệ đối ngoại …
- Đường lối phát triển có ý nghĩa rất quan trọng bởi đường lối đúng đem lại
sự phát triển ổn định và thịnh vượng cho quốc gia, đường lối sai sẽ dẫn đến đổ vỡ
thất bại.
+ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản,
các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách có căn cứu khoa
học trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực và các lợi thế phát triển
của đất nước, các mối quan hệ phức tạp trong khu vực và trên thế giới nhằm đạt
được một bước phát triển kinh tế của quốc gia trong một thời gian đủ dài (thường là
10 -:- 20 năm)
Thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là sự cụ thể hóa đường lối
phát triển đất nước trong mỗi chặng đường và do Đảng cầm quyền xây dựng. Chiến
lược có ý nghĩa rất quan trọng bởi là nó biến đường lối thực hiện thực từng bước.
Nó có độ dài đủ lớn để chuyển biến đất nước qua một ngưỡng nhất định, tạo ra tiền
đề thực tế để hình dung rõ thêm đường lối.

2.2. Hệ thống pháp luật:
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của
các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận.

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý của mình đối với xã hội nói
chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.
Pháp luật thường được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt
buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước
đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc
trưng đã định.


Đây là loại cơng cụ tác động mang tính chất bắt buộc. Pháp luật xác định
hành lang vận động cho đối tượng quản lý, dựa trên cơ sở chức năng quản lý và ủy
quyền của Nhà nước.
+ Vai trò của pháp luật kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế
Pháp luật kinh tế bao gồm tổng thể những văn bản pháp luật liên quan trực
tiếp đến sự tồn tại, vận hành của nền kinh tế. Trong những văn bản pháp luật đó quy
định cụ thể các quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận mà mỗi
cá nhân hay tổ chức kinh tế buộc phải tuân theo để hành vi ứng xử của họ phù hợp
với những quan hệ kinh tế khách quan và lợi ích chung của xã hội. Đối tượng điều
chỉnh của pháp luật kinh tế là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sản xuất, phân
phối, lưu thông, tiêu dùng và trong quá trình vận hành quản lý kinh tế. Quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia những quan hệ đó được Nhà nước quy định và được
đảm bảo thực hiện bằng pháp luật và việc xác định quyền và nghĩa vụ cũng như
việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy của các bên tham gia vào các hoạt
động kinh tế. Bằng cách đo, pháp luật tác động chi phối hành vi kinh tế của đối
tượng quản lý cũng như của chủ thể quản lý. Do vậy, pháp luật tồn tại với tính cách
là một cơng cụ quản lý đối với kinh tế và vai trò quan trọng thể hiện trên các khía
cạnh sau:
- Xác lập cơ sở pháp lý, bảo vệ và hỗ trợ cho việc hình thành, phát triển đồng
bộ cơ chế thị trường. Dựa trên nhận thức đúng đắn, khách quan và khoa học các
quy luật vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Nhà nước ban hành các
văn bản pháp quy nhằm tổ chức có tính chất nhà nước các quan hệ kinh tế khách

quan phù hợp với cơ chế mới. Mặt khác, sự hỗ trợ và bảo vệ của pháp luật mà ý
thực tôn trọng, tuân thủ các quan hệ kinh tế khách quan của các bên tham gia sẽ
điều chỉnh hành vi kinh tế của họ, tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ đã
được pháp luật xác định, Như vậy, pháp luật giữ vai trò là yếu tố tạo dựng, hỗ trợ và
bảo vệ cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế theo mục tiêu định
hướng của Nhà nước.
- Xác lập trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh tế.
Bằng việc tổ chức có tính chất nhà nước của các quan hệ kinh tế khách quan dưới
hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, về thực chất pháp luật đã xác định trật tự và
môi trường kinh doanh lành mạnh cho mọi hoạt động kinh tế. Bởi vì những quyền và


nghĩa vụ thể hiện ở sự phân cấp và thẩm quyền, điều kiện thực hiện, phạm vi và
trình tự thực hiện, những điều được làm và không được làm… mà pháp luật xác
định luôn hàm chứa những yếu tố của một trật tự.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế.
Việc bảo vệ lợi ích nói trên của các chủ thể kinh tế chỉ có thể thực hiện bằng cách
ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, ghi nhận hình thức và các thủ tục
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và pháp luật. Nhờ vậy lợi ích của các chủ thể
kinh tế được tôn trọng và được giải quyết thỏa đáng. Nếu thiếu pháp luật thì việc
giải quyết, xử lý các quan hệ lợi ích sẽ thiếu trật tự, gây lộn xộn khơng cần thiết có
thể ảnh hưởng tiêu cực tới các hoạt động kinh tế.
+ Đặc điểm của pháp luật kinh tế trong quản lý nhà nước đối với kinh tế
Công cụ pháp luật kinh tế có sức mạnh uy quyền. Sức mạnh quyền uy của
công cụ pháp luật kinh tế là sự kế hợp giữa sức mạnh quyền uy khách quan và
quyền uy nhà nước. Nội dung của pháp luật kinh tế chính là những mối quan hệ,
những lợi ích kinh tế khách quan được xã hội thừa nhận và bảo vệ dưới dạng ý chí
của Nhà nước. Sự thừa nhận và bảo vệ được cụ thể hóa thành những chuẩn mực
về quyền lợi và nghĩa vụ để điều chỉnh hành vi của cá nhân và tập thể phù hợp với
những yêu cầu khách quan. Do vậy, sức mạnh quyền uy của pháp luật kinh tế nằm

ngay trong nội dung của pháp luật và phụ thuộc vào tính chính xác của nội dung đị.
Việc tuân thủ pháp luật, hành động theo yêu cầu của pháp luật là yêu cầu đương
nhiên của bản thân pháp luật chứ khơng phải vì sự cưỡng chế của Nhà nước. Sự
cưỡng chế của Nhà nước mang tính quyền uy chỉ xuất phát từ yêu cầu bảo vệ pháp
luật dưới dạng răn đe, do vậy có tác dụng nâng cao hiệu lực của công cụ pháp luật
kinh tế.
Quản lý bằng pháp luật đảm bảo tính phổ biến và cơng bằng. Pháp luật kinh
tế điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế nhưng không phải tất cả mà chỉ những quan
hệ kinh tế cơ bản nhất, quan trọng nhất và khái quát nhất. Hơn nữa, pháp luật kinh
tế cũng chỉ liên quan đến tất cả các đối tượng riêng lẻ. Trước pháp luật, mọi chủ thể
và mọi người đều bình đẳng và có cơ hội ngang nhau để phát triển kinh tế.
Quản lý bằng pháp luật kinh tế là sự tác động điều chỉnh mang tính chất gián
tiếp. Tính chất gián tiếp nói trên thể hiện ở chỗ luật chỉ đưa ra các điều kiện giả định
để quy định quyền và nghĩa vụ cho các hoạt động kinh tế; đưa ra các quy phạm


được phép hay không được phép trong các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực kinh tế,
còn các chủ thể kinh tế lựa chọn, tự quyết định hành động trong khuôn khổ của
những điều kiện và phạm vi đã xác định của luật.
Công cụ pháp luật về quản lý nhà nước chủ yếu là quản lý hành chính kinh
tế. Do vậy pháp luật là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước điều hành nền kinh tế.

2.3. Kế hoạch hóa:
Kế hoạch hóa là cơng cụ mà Nhà nước sử dụng nhằm định hướng cho sự phát triển
của các lĩnh vực, các vùng, các phân ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế phát triển phải được hướng theo những mục tiêu đã được lựa chọn,
hướng theo các chương trình có mục tiêu nhất định. Kinh tế trong ngắn hạn, đầu
vào khó biến đổi lớn thì hiệu quả đầu ra có giới hạn. Nền kinh tế trong dài hạn có sự
biến đổi lớn ở đầu vào, đó là sự thay đổi lớn về các yếu tố lao động, tay nghề, trình
độ học vấn, trình độ khoa học cơng nghệ… và kéo theo đó là trình độ quản lý cũng

khơng ngừng được hiện đại hóa và nâng cao.
Kế hoạch hóa sự phát triển kinh tế bao gồm: Kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch
dài hạn, kế hoạch từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương lãnh thổ, kế hoạch
các yếu tố đầu vào, đầu ra…
Kế hoạch mang định hướng gián tiếp là chủ yếu. Song kế hoạch phản ánh
những quy luật, những tất yếu khách quan. Nó được thơng qua bộ óc tinh vi- thơng
minh và nhạy cảm của Nhà nước đề chính kế hoạch phát hiện được các tồn tại…
Cũng chính kế hoạch mà phát hiện các tiềm năng mới, nội lực mới, thủ đoạn, kỹ
năng mới để giải quyết những vấn đề thực tiễn bị che lấp trong kinh tế mà chưa
được phát hiện để đẩy nhanh sự phát triển.
Kế hoạch là hành động một cách tự giác, khơng tự phát, Hành động của nó
được tổ chức, phối hợp, có mục tiêu sát thực…. chống những kế hoạch chủ quan,
duy ý chí, phơ trương, kém hiệu quả, khơng hợp lịng dân.
Vai trị của cơng cụ kế hoạch trong quản lý nhà nước đối với kinh tế thể hiện
ở các mặt sau:
- Kế hoạch cho phép chủ thể quản lý cũng như mọi bộ phận trong hệ thống
quản lý nhận thức thống nhất về đường đi, cách đi thích hợp nhanh chóng đạt tới


mục tiêu. Trên cơ sở thống nhất nhận thức mà hoạt động của mọi cấp, mọi bộ phận,
mọi tổ chức tự giác, chủ động và thống nhất trong hành động thực tiễn.
- Kế hoạch còn giúp cho các nhà quản lý chủ động thích ứng với những thay
đổi trong quá trình phát triển của thực tiễn do có những dự đốn trước; chủ động tạo
ra những biến đổi có lợi ích cho quá trình phát triển; hướng các nhà quản lý tập
trung vào những nhiệm vụ trọng yếu….
- Kế hoạch còn là một căn cứ để tổ chức bộ máy quản lý, kiểm tra và đánh
giá hiệu quả của các hoạt động quản lý ở các cấp, địa phương và tồn ngành.
Những u cầu cơ bản đối với cơng cụ kế hoạch phát triển kinh tế, trong cơ
chế thị trường:
- Các kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học. Hiệu quả tâm lý của công cụ kế

hoạch phụ thuộc rất lớn tính sát thực, tính hợp lý và khoa học của nó. Do vậy, khi
xây dựng kế hoạch phải chú trọng việc nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý về kế
hoạch vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế, phân tích rõ thực trạng cũng như tiềm
năng về tài nguyên đất đai cũng như lao động, tiền vồn…Nghĩa là phải gắn lý luận
với thực tiễn trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch.
- Gắn kế hoạch với thị trường. Yêu cầu này đòi hỏi phải được đáp ứng cả
trong xây dựng và thực hiện kế hoạch.
- Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch hướng dẫn và gián tiếp là chủ yếu.
- Tăng cường chất lượng các hoạt động tiền kế hoạch. Để đảm bảo tính sát
thực của kế hoạch, chủ thể quản lý phải coi trọng và tăng cường chất lượng các
hoạt động tiền kế hoạch cũng như điều tra khảo sát, nghiên cứu…
- Ngoài ra, trong q trình xây dựng kế hoạch cịn phân định rõ chức năng kế
hoạch của Nhà nước các cấp và kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp kinh tế.

2.4. Chính sách kinh tế:
Chính sách kinh tế có vai trò quan trọng, giúp Nhà nước điều khiển hoạt động
của các chủ thể kinh tế. Nhờ các chính sách kinh tế dẫn dắt hoạt động mà các chủ
thể kinh tế đã hành động phù hợp với lợi ích chung của xã hội, các nguồn lực tài


nguyên được huy động một cách có hiệu quả để đạt đến mục tiêu và các kế hoạch
định hướng.
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, người ta phân loại các chính sách kinh tế
như sau:
- Chính sách tài khóa
- Chính sách tiền tệ
- Chính sách xóa đói giảm nghèo, cơng bằng xã hội
- Chính sách kinh tế đối ngoại
- Chính sách tạo việc làm

- Chính sách phân phối thu nhập
- Chính sách tích lũy, tích tụ và tiết kiệm
- Chính sách khuyến khích đầu tư
Nền kinh tế thị trường tư bản phát triển theo chu kỳ kinh doanh, theo khủng
hoảng chu kỳ. Các nhà nước tư bản đã sử dụng nhiều chính sách kinh tế phối hợp
như chính sách chống chu kỳ bằng sự phối hợp giữa các chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ để chống lại chu kỳ kinh doanh. Nhà nước tư sản có thể dung
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lại khủng hoảng.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, bằng các cơng cụ và chính sách
đúng đắn về tài khóa, tiền tệ, giá cả và đầu tư, Nhà nước ta đã từng bước kiềm chế
được lạm phát, ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.

Phần 3: Giải pháp khắc phục nhằm nâng cao
chất lượng xây dựng pháp luật và quản lý nhà
nước về kinh tế ở nước ta hiện nay
- Xác định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan nhà nước, loại bỏ sự chồng chéo, bảo đảm thực hiện cơ chế phân
công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng pháp luật
Đây là giải pháp rất căn bản để góp phần khắc phục những hạn chế, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các văn bản pháp luật. Mặc


dù quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật là điều kiện quan trọng, song nếu
chỉ dừng lại ở quy trình, thủ tục thì vẫn chưa có thể khắc phục hồn tồn
được những hạn chế trong đó có sự chồng chéo, xung đột giữa các văn
bản pháp luật như lâu nay. Hiện tại, cơ chế phân công, phối hợp về xây
dựng pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đang còn nhiều
vấn đề bất hợp lý, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan có
thẩm quyền xây dựng pháp luật.
Cách thức xây dựng - làm luật ở nước ta không do cơ quan chuyên

trách, độc lập, đại biểu dân cử hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn
thảo mà thường được giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực
tiếp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trực tiếp xây dựng. Một khi các
cá nhân, cơ quan công quyền đã có thẩm quyền xây dựng pháp luật, có
điều kiện, lại kèm theo chế độ trách nhiệm phải hoàn thành nhiệm vụ xây
dựng pháp luật theo tháng, quý, năm, nhiệm kỳ... và theo cả chỉ tiêu thi
đua... nên rất dễ dàng cài cắm lợi ích bộ, ngành, nhóm..., và hiện tượng
“đẽo cày giữa đường” khi làm luật, thực ra ở đây chủ yếu là liên quan đến
lợi ích(7).
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gắn với việc rà
soát, đánh giá, xem xét, dự kiến bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm kịp thời loại bỏ
những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, khơng đúng thẩm quyền,
khơng minh bạch, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, thực hiện nghiêm
túc việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quy định chế độ trách nhiệm, chế tài xử
lý vi phạm đối với cá cá nhân, tổ chức trong xây dựng pháp luật


Cần quy định chặt chẽ hơn về chế độ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm
người đứng đầu, trách nhiệm giải trình về cơng tác xây dựng pháp luật.
Quy định các chế tài pháp luật hợp lý, nghiêm khắc hơn đối với các chủ
thể ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Đối tượng để xem xét trách nhiệm
bao gồm tập thể cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản; cá nhân
người đứng đầu cơ quan; cán bộ, cơng chức trong q trình tham mưu
soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thơng qua văn bản có nội dung trái pháp
luật(8).
Cần tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý kịp thời các sai phạm

theo hướng: Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị chủ trì soạn thảo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn
vị, cá nhân trong việc tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp
luật; nâng cao trách nhiệm, chất lượng văn bản, phân công hợp lý hơn,
phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp
thu, chỉnh lý dự thảo luật, tránh tình trạng “giữa đường đổi vai”.
- Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng việc lấy ý kiến góp ý, tham vấn,
phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật
Để bảo đảm chất lượng, hiệu lực pháp lý và hiệu quả xã hội của các
chính sách, văn bản pháp luật cần làm nghiêm túc công đoạn tổ chức lấy
ý kiến, sự tham vấn của các chuyên gia, các tổ chức pháp lý, xã hội, người
dân và doanh nghiệp. Nhiệm vụ của các cơ quan chủ trì soạn thảo dự án,
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải chủ động lấy ý kiến của đối
tượng chịu sự tác động; rà soát, kịp thời phát hiện các quy định pháp luật
mâu thuẫn, chồng chéo, bất hợp lý, khơng phù hợp với tình hình thực tiễn
và đề xuất hướng giải quyết.


Cần đổi mới cách tổ chức, xử lý, sử dụng thơng tin của việc lấy ý kiến
góp ý, phản biện chính sách và pháp luật đảm bảo khách quan, thực chất
hơn. Để góp phần bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật, cần thu
hút sự tham gia ý kiến của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân
ngay từ khâu xây dựng chính sách chứ khơng chỉ góp ý vào các dự án, dự
thảo văn bản pháp luật. Các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác tham
vấn ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của văn bản.
- Tăng cường năng lực và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức tham gia xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của dự án, dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng chính sách, pháp luật là cơng việc rất khó khăn, phức tạp, địi
hỏi những người trực tiếp thực hiện phải có trình độ chun mơn sâu, có

năng lực phân tích chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật, có ý thức
trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật. Để bảo đảm tính chuyên
nghiệp, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia xây dựng chính sách, pháp luật
được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về xây dựng chính sách và pháp luật.
Đề xuất đưa dự án luật vào Chương trình xây dựng pháp luật phải có đầy
đủ căn cứ khoa học và thực tiễn; dự liệu được hết các yếu tố ảnh hưởng
đến tiến độ và chất lượng thực hiện. Trong văn bản pháp luật cần được
thể hiện rõ ràng những vấn đề cơ bản như: Đối tượng có trách nhiệm thực
hiện, cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện, cơ quan áp dụng chế tài;
cơ quan giải quyết tranh chấp; cơ quan cấp vốn; cơ quan giám sát và
đánh giá; cơ quan ban hành các văn bản dưới luật; cơ quan duy trì
trật tự văn bản.
- Thực hiện kiểm sốt pháp luật - điều kiện quan trọng bảo đảm chất
lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật


Kiểm sốt quyền lực nhà nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả
nhất khi bao quát cả việc kiểm soát hành vi và quyết định pháp luật quyết định dưới dạng các văn bản pháp luật và các văn bản áp dụng pháp
luật. Nếu xét riêng về phạm vi, tần suất tác động, số lượng các chủ thể
chịu sự tác động thì có thể nói, sự tác động của các văn bản pháp luật
rộng lớn hơn so với những hành vi pháp luật của các cá nhân, tổ chức.
Về cơ sở pháp lý, chúng ta đã có khá nhiều quy định liên quan đến kiểm
soát pháp luật, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã đặt
nguyên tắc cơ bản để xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, Điều 119, các
điều khác về thẩm quyền của Quốc hội - giám sát tối cao, thẩm quyền bãi
bỏ các văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc
hội (Điều 70). Thẩm quyền về giám sát, áp dụng chế tài đình chỉ, bãi bỏ
đối với các văn bản pháp luật có sai trái cũng đã được quy định đối với các
cơ quan nhà nước khác như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ. Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015 cũng đã quy định về chế

độ giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, tất cả mọi văn bản quy phạm
pháp luật đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo
quy định của pháp luật.
Tuy vậy, tính hiện thực của các quy định Hiến pháp, pháp luật về kiểm
sốt văn bản pháp luật cịn rất hạn chế. Cần nhận thức đầy đủ mục đích,
yêu cầu của kiểm sốt pháp luật. Kiểm sốt pháp luật khơng chỉ để phát
hiện vi phạm về quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành, công bố các văn
bản pháp luật. Kiểm sốt pháp luật cịn có mục đích, nhiệm vụ đảm bảo
tính thống nhất, đồng bộ, hài hồ, hạn chế đến mức thấp nhất sự chồng


chéo, mâu thuẫn, khắc phục các lỗ hổng pháp luật của hệ thống pháp luật
quốc gia nói chung và trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội nói riêng.
Kiểm sốt pháp luật có lợi ích to lớn, một trong những điều kiện bảo
đảm tạo lập, vận hành một hệ thống pháp luật đơn giản, gọn nhẹ, khắc
phục nhanh chóng sự phức tạp, rườm rà, số lượng quá lớn, khó tiếp cận,
khó áp dụng, gây ảnh hưởng đến ý thức tơn trọng, tuân thủ pháp luật.
Kiểm soát pháp luật sẽ giúp giảm thiểu rất nhiều khiếm khuyết hiện nay
trong xây dựng pháp luật như sự mâu thuẫn, chồng chéo, vi hiến, bất hợp
lý, luật ở trên trời, cuộc đời dưới đất; sự chậm trễ, nóng vội hoặc nợ đọng
văn bản pháp luật, v.v…
Cần phân biệt giữa hai khái niệm: Kiểm soát pháp luật và kiểm tra văn
bản pháp luật. Đây là hai khái niệm khơng hồn tồn đồng nhất. Kiểm
sốt pháp luật bao gồm kiểm tra văn bản pháp luật nhưng rộng lớn hơn cả
về phạm vi, mức độ, cách thức thực hiện. Hiện nay, ở Việt nam, kiểm tra
văn bản pháp luật được xác định là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền
thực hiện việc xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp,
tính thống nhất của văn bản sau khi ban hành (hậu kiểm văn bản) nhằm

phát hiện, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
trái pháp luật. Đối tượng của kiểm tra văn bản pháp luật theo quy định
hiện hành rất hẹp, chỉ bao gồm các văn bản pháp luật từ cấp Bộ trưởng
trở xuống sau khi văn bản đã được ban hành.
Trong nội dung của kiểm soát pháp luật một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng là kiểm sốt Hiến pháp: Kiểm sốt tính hợp hiến của tất cả các văn
bản pháp luật, đặc biệt là đối với các văn bản pháp luật của các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp ở trung ương. Kiểm soát hiệu lực kép của
Hiến pháp: Hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp
luật và hiệu lực trực tiếp. Kiểm sốt tồn bộ quy trình xây dựng chính



×