Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯƠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM TỚI NĂM 2020.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.06 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, sự phát triển của kinh tế một cách
mạnh mẽ đã tạo nên mức sống và thu nhập ngày càng cao cho người dân
Việt Nam, những năm gân đây mức sống của người dân đã được cải thiện
một cách đáng kể, và giờ mặt hàng ô tô không còn quá xa xỉ đối với một bộ
phân dân cư với mức thu nhập cao, ô tô đã dân trở thành phương tiện di
chuyển cá nhân thông dụng cho nhiều người. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao như hiện nay đã tạo ra nhu cầu vận chuyển hàng hóa rất lớn và ô tô
không những chỉ là phương tiên di chuyển cá nhân mà đã trở thành phương
tiện vận chuyển phổ biến và quan trọng nhất trong nên kinh tế. Những nhu
cầu trên ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nên kinh tế cộng với sự
bảo hộ của nhà nước cho ngành công nghiệp non trẻ nay đã tạo ra điều kiện
thuận lợi để phát triển ngàng công nghiệp ô tô trong nước.
Nhưng thực trạng phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nước đang
ở đâu, những phương hướng phát triển trong thơi gian tơi như thế nào, để
làm rõ những vấn đề trên em xin thực hiện đề tài “THỰC TRẠNG VÀ
PHƯƠNG HƯƠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
VIỆT NAM TỚI NĂM 2020”.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực trạng của toàn ngành công nghiệp ô
tô Việt Nam hiện nay cũng như những tác nhân vĩ mô tác động tới sự phát
triển của ngành và phương hướng phát triển của ngành trong thời gian tới cụ
thể là tới năm 2020. Mục đích nghiên cưu của đề tài là làm dõ thực trạng và
nguyên nhân ngây ra những bất cập vẫn còn tồn tại trong ngành công nhiệp
ô tô của Việt Nam hiên nay để từ đấy đưa ra một số giả pháp để phát triển
ngành trong thời gian tới. Với đề tài và phạm vi nghiên cưu này, kết cấu của
đề tài em xin chia lanf 3 chương.
Chương I: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Chương II: Những tồn tại và nguyên nhân.
Chương III: Phương hương và giải pháp phát triển ngành công nghiệp ô tô
tới năm 2020.


1
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
I. Yếu tố kinh tế
1. Thực trạng nền kinh tế va ảnh hưởng tới ngành công nghiệp ô tô.
1.1. thực trang nền kinh tế.
Thưc trạng nền và tốc độ phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng đến bất
kỳ ngành công nghiệp nào trong nước và tới bất kỳ doanh nghiệp nào dù lớn
hay nhỏ. Những nhân tố chủ yếu mà có tác động trực tiếp tới ngành công
nghiệp ô tô là tốc độ tăng trưởng nó có ảnh hưởng tới sự chi tiêu của người
dân, khi tốc độ tăng trưởng cao sẽ có nhiều cơ hội tăng trưởng thị phần cho
các doanh nghiệp từ đó có thể đầu tư sảm xuất mở rộng quy mô, ngược lại
khi nên kinh tế suy thoái, dẫn đến giảm chi tiêu của ngươi dân. Mức lãi xuất,
chính sách tiền tệ và tỷ giá hôi đoái cũng có tát động to lớn đến ngành, đặc
biệt ngành công nghiệp ô tô là ngành nhập khâu nhiều linh phụ kiện lên sự
ảnh hưởng của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái lại càng mạnh mẽ. trong
những năm ngân đây đặc biệt là năm 2007 va 2008 nên kinh tế của ta đã có
những thay đổi và thách thức mạnh mẽ, sự biến động của nền kinh tế thế
giới đã có những tác đông trực tiếp tới nước ta. Sau đây sẽ là một số những
số liệu trong 9 tháng đầu năm của năm 2008.
Tốc độ tăng trưởng GDP trong 9 tháng đầu năm 2008 đạt 6,52%. Tuy thấp
hơn con số 8,16% của cùng kỳ năm 2007 nhưng GDP 9 tháng đã nhích lên
so với con số 6,5% của 6 tháng đầu năm nay
Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2008 tăng 16% cung ky năm
2007 la 17,1%. Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng
vẫn tăng 5,43%. Hoạt động thương mại, dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng. Dự
kiến tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội 9
tháng tăng 30,1% so với cùng kỳ năm 2007.
Giá tiêu dùng tháng 9 tăng 0,18% so với tháng trước đó. Đây là mức tăng
thấp nhất kể từ tháng 4/2007. Tuy nhiên, do CPI đã tăng cao trong 8 tháng

trước đó nên nếu so với tháng 12/2007, CPI tháng 9 đã tăng 21,87%. Chỉ số
giá bình quân 9 tháng đầu năm so với cùng kỳ 2007 đã tăng 22,76%.
Tổng số vốn FDI cấp mới đạt 57,1 tỷ USD, tăng 398,5% so với cùng kỳ
năm 2007. Giải ngân vốn FDI 9 tháng đạt 8,1 tỷ USD, tăng 37,3% so với
2
cùng kỳ. Thu hút vốn ODA đạt tổng giá trị trên 1,8 tỷ USD, giải ngân nguồn
vốn này đạt trên 1,4 tỷ USD, bằng 74,5% kế hoạch giải ngân năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đã đạt 48,6 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ
năm 2007. Kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu khi đạt 64,4 tỷ
USD, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm 2007. Nhập siêu 9 tháng đầu năm hiện
ở mức 15,8 tỷ USD, bằng 32,6% tổng kim ngạch.
Tỷ lệ lam phát, giá tiêu dùng chỉ tăng 0,18% trong tháng 9 là một tín hiệu
tích cực và thể hiện ổn định kinh tế vĩ mô của Nhà nước, Chỉ số giá tiêu
dùng CPI đang có xu hướng chững lại là một tín hiệu đáng mừng.
1.2. Sự ảnh hưởng của nền kinh tế tới công nghiệp ô tô trong nước.
Nền kinh tế trong nước là yêu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của
công nghiệp ô tô, bât kỳ ngành nào cũng cần có một môi trường kinh tế ổn
định để phát triển, với thực trạng kinh tế của việt nam hiện nay tuy chưa phải
là một thị trường hấp dẫn về quy mô để phát triển ngành công nghiệp ô tô
nhưng là một thị trương tiềm ẩn với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mức
sống của người dân ngày càng được cải thiện, tuy nhiên hiện tại mức thu
nhập còn thấp, chưa đủ để có một thị trường tiêu thụ đủ rộng cho ngành do
đó nó kém sức hấp dẫn, và chưa thu hút được sự đầu tư lớn từ nước ngoài
cũng như trong nước. Tuy nhiên với một nền kinh tế đang phát triển mạnh
mẽ, lực lương lao động lơn, giá nhân công rẻ cộng với sự ổn định tương đối
với sự biến động của nền kinh tế thế giới nhiều diễn biến phức tạp như hiên
nay thi chúng ta vẫn có được lợi thế trong thu hút đầu tư. Nhưng với thực
trang hiện nay sự suy thoái của nền kinh tế toàng cầu việt nam cũng ngây ra
những sũy thoái nhất định cho nền kinh tế ví dụ như việc lạm phát tăng cao
đã khiến người dân thắt chặt chi tiêu đã ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng

của các doanh nghiệp lăp ráp ô tô như đâu năm 2008 và cuối năm 2007 các
doanh nghiệp ô tô việt nam đã không kịp lăp ráp ô tô để bán ra thị trường
nhưng cho tới nay thì các doanh nghiệp đã phải kêu trời vì lượng xe bán ra
qua ít, sự thay đổi đột ngộ này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chiến lược phát
triển của các doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ cũng có những tác động không nhỏ
đến nganh, vì công nghiệp ô tô trong nước chủ yêu là công nghiệp lắp ráp
mà các linh kiện chủ yếu là nhập khẩu bằng ngoại tệ do đó có tác động nhất
định đến giá bán xe trong nước. Từ đầu năm tới nay với tình hình kinh tế
nhiều biến đông lạm phát tăng cao đã khiến nhiêu doanh nghiệp ngặp phải
nhưng khó khăn trong tiêu thụ sảm phẩm. Ta có thể thấy dõ điều này qua
lượng tiêu thụ của một số hãng như hang ford tại việt nam cho biết lương xe
bán ra của họ giảm mạnh trong tháng 9 họ chỉ bán được 278 xe, và trong
tháng 10 tơi họ còn ban được lương xe ít hơn, khi sảm lương tiêu thụ giảm
3
họ đã phải cho sa thai 20% nhân viên văn phong của minh. Toyota cũng gặp
phải những khó khăn tương tự trong tiêu thụ những tháng ngân đây Toyota
chỉ lắp ráp có 78xe/ngay trong khi đó năm 2007 va hai tháng đầu năm 2008
số lượng xe đã lên tới 105xe/ngay.
2. Xu hương hội nhập.
Hội nhập là tính tất yếu của các quốc gia trên thế giới, khi mỗi quốc gia
hội nhập đều có những thách thức và cơ hội, trong bôi cảnh hiên nay sau khi
Việt Nam ra nhập WTO chung ta có những cam kết phải thưc hiện như việc
giảm thuế nhập khẩu, chính sách rõ rang, xó bỏ bảo hộ tạo ra sân chơi bình
đẳng…. Ngành công nghiêp ô tô là ngành công nghiệp phải chịu ảnh hưởng
nhiều trong khi ở Việt Nam đây là lĩnh vực mới phát triển chưa có khả năng
cạnh tranh. Thì ở các nước phát triển, công nghiệp ô tô đã hoàn thiện họ có
khả năng cạnh tranh cao cả về giá thành và chất lượng do vậy bài toán hộ
nhập cho ngành công nghiệp ô tô quả thật vẫn chưa có lời giải cụ thể.
Khi hội nhập ngành công nghiệp ô tô của ta sẽ phải chiu nhiều áp lực vì

khả năng cạnh tranh con rất kém do công nghiệp ô tô trong nước thực chất là
công nghiệp lắp ráp đơn giản, linh kiên đa phần là nhập khẩu chủ yếu là tư
Thai Lan, Han Quốc, Trung Quốc. Hội nhập cũng đem lại cho chung ta
những cơ hội phát triển cho ngánh công nghiệp ô tô trong nước như thu hút
vốn đầu tư vào sảm xuất linh kiện tăng tỷ lệ nội địa hóa, tạo ra môi trường
cạnh tranh bình đẳng để từ đây thúc đẩy nganh công nghiệp ô tô trong nước
phát triển, tăng tỷ lệ nội địa hóa giamr chi phí, hạ giá thành sảm phẩm, có
nhiêu cơ hội học hỏi và cải tiến về công nghệ.
II. Công nghệ.
1. công nghệ sảm xuất và lăp ráp.
Công nghệ là nhân tố có tác động rất lớn, nó có thể quyết định tới chi phí
sảm xuất, năng suất lao động nó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng phát triển
của một ngành, một doanh nghiệp. Đặc biệt ngành công nghiệp ô tô là ngành
4
đòi hỏi công nghệ cao, phát triển phải có chiều sâu kết hợp của nhiều ngành
công nghiệp phụ trợ khác nhau như công nghệ cơ khí, điện tử…
Ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam phát triển từ những năm 1991 cho
tơi nay đã trải qua 17 năm phát triển nhưng những thành quả đạt được vẫn
chưa sưng đáng với quãng thời gian và những chính sách bảo hộ của chính
phủ, cho tới nay chúng ta đã có 11 liên doanh sảm xuất lắp ráp ô tô nhưng
quy mô vân còn nhỏ lẻ và vẫn dưng lại ở việc lăp ráp đơn giản, các doanh
nghiệp lăp ráp ô tô tại việt nam chủ yếu được hình thành từ những xưởng cơ
khí lớn trước đây được nâng cấp và trang bị thêm để trở thành doanh nghiệp
lắp ráp, du vậy công nghệ lăp ráp của các doanh nghiệp này vẫn hết sức đơn
gian. Với 11 liên doanh ôtô, trừ Công ty Hino sản xuất xe tải nặng thì các
doanh nghiệp này đại diện cho những nhà sản xuất lớn, họ đêu có khả năng
lăp ráp nhiều chủng loại xe, các liên doanh đều đại diên cho nhưng tập đoàn
lơn trên thế giới với công nghệ khác nhau nên hầu như ít phối hợp. Hầu hêt
các liên doanh chỉ mới thực hiện phương thức lắp ráp dạng CKD2 với dây
chuyền công nghệ gần giống nhau, hoặc ở dạng IKD với dây chuyền công

nghệ gần giống nhau như hàn lắp khung xe, tẩy rửa sơn, trong đó chỉ có 1 số
doanh nghiệp có dây chuyền sơn tĩnh điện như Toyota, Ford, Mitsubshi...
còn lại các doanh nghiệp khác phải thuê hoặc không sử dụng công nghệ sơn
tĩnh điện, lắp ráp kèm thiết bị kiểm tra. Với công nghệ lắp ráp còn lạc hậu
thì công nghệ sảm xuất linh kiên ô tô trong nước còn khan hiếm hơn do đố
tỷ lệ nội địa hoá của các liên doanh cao nhất không quá 13%, thấp nhất là
2%. Từ đầu năm 2008 chinh phủ đã có dự thảo về việc các doanh ngiệp lắp
ráp mới muốn thành lặp phải có công suất tối thiểu 10000xe/năm đối với xe
con, các doanh nghiệp tham gia sản xuất, lắp ráp ôtô phải đảm bảo công suất
lắp ráp tối thiểu 3.000 xe/năm đối với xe khách; 5.000 xe/năm đối với xe có
trọng tải đến 5 tấn; 3.000 xe/năm đối với xe tải 5-10 tấn và 1.000 xe/năm có
trọng tải trên 10 tấn. Về kiểu dáng xe, doanh nghiệp tham gia phải có đủ hồ
sơ thiết kế cho từng chủng loại xe ôtô, không vi phạm bản quyền về sở hữu
công nghiệp và có hợp đồng chuyển giao công nghệ từ các nhà sản xuất có
5
uy tín của nước ngoài theo quy định hiện hành. về công nghệ cung có nhiều
yêu cầu khắt khe hơn, nhu cong nghệ sơn, doanh nghiệp phải tuân thủ theo
từng loại ôtô, ôtô con phải được sơn nhúng điện ly lớp bên trong, lớp ngoài
có thể phun sơn tĩnh điện hoặc phun sơn áp lực. Quy định mới cũng yêu cầu
toàn bộ xe xuất xưởn phải được kiểm tra. Với quy đinh nay các doanh
nghiệp phải trang bị công nghệ ưng dung khoa học vào để đạt được năng
suất lao đông cao hơn, và cải thiện dần tình trạng công nghệ trong nước ngày
càng lạc hậu so với thế giới
2. Công nghệ phụ trợ
Công nghiệp ô tô đúng nghĩa la ngành công nghiệp phải bao gồm công
nghiệp phụ trợ và công nghiệp lăp ráp ô tô, tại việt nam hiện giờ ngành công
nghiệp phụ trợ phát triển chưa đúng mức và còn thâp kém đăc biệt là công
nghệ sảm xuất linh kiện. hiện tại việt nam đang có khoảng 60 doanh nghiệp
sảm xuất linh kiện tuy nhiên con số này còn quá ít vì một chiếc ô tô cân
khoảng 20000-30000 chi tiết để lăp ráp hoàn thiện, các linh kiện lăp ráp của

ta hiện nay chủ yếu nhập khẩu của một số nước trong khu vực. Tỷ lệ nội địa
hóa của chung ta chi đạt trung binh 12% có nhưng doanh nghiệp tỷ lệ nội đĩa
hóa chỉ có 2%, tuy tỷ lệ nội địa hóa của ta thâp nhưng ngành công nghiệp
sảm xuất linh kiên vân chưa thể phát triển được bởi vì ngành sảm xuất linh
kiện đòi hỏi phải trinh độ công nghệ nhất định, mặt khác khi kêu gọi đầu đâu
tư rất khó khăn do nganh đòi hỏi lượng vốn lớn trong khi đó thời gian thu
hồi lại lâu, mặt khac do thị trương trong nước lại nhỏ bé lên chưa tao ra sức
hấp dẫn, tuy nhiên nếu trung ta có chinh sách hợp lí để thu hut kêu gọi đâu
tư không những chỉ đấp ứng nhu cầu của cac doanh nghiệp ô tô trong nước
ma con xuất khẩu thì vẫn có thể kêu gọi đâu tư để phát triển ngành công
nghiệp này, tai thai lan tỷ lệ nội địa hóa của họ rất cao đạt trên 80% số lương
các doanh nghiệp phụ trợ của họ lên tới khoang 1500 nhà cung ứng.
Mặt khác muốn ngành công nghiệp sảm xuất linh kiệm phát triển thì một số
ngành công nghiệp phụ trợ khác trong nước cũng phải phát triển theo như
công nghiêp luyện thép, công nghiệp ngò hàn….. tuy nhiên cho tới nay
6
chung ta cung mới có một số lương rất ít các doanh sảm xuât linh kiên, mà
số ít các doanh nghiệp này thi đều đa phân sảm xuất những linh kiện đơn
giảm có giá trị thấp như gương, xăm, lốp, nghế… còn những linh kiện có giá
trị gia tăng cao thì chưa thể sảm xuất được.

III. Chinh trị, pháp luật và chinh sách của nhà nước với công nghiệp ô
tô.
1. Chinh trị.
Chinh trị la nhân tố tầm vĩ mô nó có tác đông tới bấy kỳ ngành công
nghiệp nao trong cả nước, khi một quôc gia có tình hình chinh trị ổn định thì
sẽ tạo nhiều thuận lợi cho nên kinh tế của quốc gia đó triển, và ngược lại sẽ
ngây ra những trì trệ. Công nghiệp ô tô cũng không ngoại lệ chịu nhiêu ảnh
hưởng của tình hình kinh tế và chinh tri. Việt Nam là một quốc gia có tinh
hinh chinh trị ổn định nhất trên thế giới hiện giờ, đây là một một môi trương

thuân lợi và là một lợi thế lơn trong tình hình chính trị bất ổn định trên thế
giới hiên giờ, với lợi thế này chung ta đã có rất nhiêu nhưng dự án đầu tư lơn
tư nước ngoài nhờ đó có thể phát triển các ngánh công nghiệp. trong năm
2007 va 2008 chung ta thu hut được không it dự án đâu tư trong đó có cả
những dự án đầu tư sảm xuât linh kiên ô tô.
2. Pháp luật và chính sách.
2.1. pháp luât.
Có những tác động theo những chiễu hướng khác nhau, luật pháp có thể
dúp cho doanh nghiệp phát triển cũng có thể là trở ngại lớn, ô tô là mặt hàng
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt do vậy ngành công nghiệp ô tô chịu ảnh hưởng
nhiều của luật, như thuế tiêu thụ đặc biệp, thuế nhập khẩu linh kiện, ô tô
nguyên chiếc, thuế nhập khẩu xe cũ. Hiện nay thuế suất nhập khẩu ô tô của
việt nam rất cao tuy từ đâu năm đax có những thay đổi nhưng vẫn con rât
cao. Việc nhà nước đánh thuế cao nhằm bảo hộ ngành công nghiệp còn non
7
trẻ để phát triển hơn nhưng cũng vì chính sách này mà các doanh nghiệp
trong nước đã ỷ lại không chịu đổi mới.
2.2. Chinh sách
Chính sách thuế nhập khẩu: đây là loại thuế có tác động trực tiếp đến cán
cân thương mại và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng của nền kinh tế. Sau
khi chung ta ra nhập WTO chung ta đã cam kết thưc hiên những chính sách
về thuế nhập khẩu như sau. Đối với xe ôtô nguyên chiếc theo cam kết trong
WTO, tất cả các loại xe ôtô phải cắt giảm mức thuế xuống 70% sau 7 năm
kể từ khi gia nhập. Riêng loại xe chở người có dung tích xi lanh từ 2.5 trở
lên, đến năm 2019 sẽ phải giảm thuế suất từ 90% xuống 52%, xe hai cầu sẽ
phải giảm nhanh hơn và nhiều hơn đến 2017 giảm xuống 47%. Tuy nhiên để
tạo thuận lợi trong công tác quản lý thì chính phủ đã dự kiến cho tất cả các
loại xe chở người sẽ đưa về cùng một mức thuế suất 47% vào năm 2017. Đối
với các mặt hàng ô tô nhập khẩu trong khối ASEAN thì tới năm 2018 mức
thuế nhập khẩu là 0%

Đối với linh kiện, phụ tùng ôtô: theo cam kết trong khu vực mậu dịch
ASEAN, ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, mức thuế suất đối
với linh kiện, phụ tùng ôtô đều ở mức thấp 5% trong ASEAN và cắt giảm
xuống 0% vào 2018 đối với ASEAN – Trung Quốc, Trong khi đó, mức thuế
theo cam kết WTO ở trong khoảng 12% - 25% tuỳ theo từng chủng loại linh
kiện, phụ tùng. Căn cứ vào mức cam kết này, mức thuế suất cụ thể đối với
từng loại linh kiện phụ tùng sẽ tiếp tục được quy định cho phù hợp với cam
kết quốc tế và khu vực. Riêng đối với những chủng loại linh kiện, phụ tùng
quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô và được quy
định rõ trong quy hoạch cần khuyến khích sản xuất như động cơ, hộp số, cầu
truyền động thì cần phải duy trì một mức thuế cao hợp lý trong thời gian bảo
hộ ít nhất 5 đến 10 năm để thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
sản xuất những mặt hàng này.
Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt: chức năng chủ yếu của thuế tiêu thụ
đặc biệt là điều tiết và giảm tiêu dùng, do đó loại thuế này có ảnh hưởng
8
không nhỏ đến giá bán xe. Việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt không bị ràng
buộc bởi cam kết quốc tế trừ khi có sự khác biệt giữa hàng nhập khẩu và
hàng cùng loại được sản xuất trong nước. Trong thời gian tới, việc xem xét
điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô nguyên chiếc cần tính đến
yêu cầu mở rộng thị trường xe ôtô trong nước, phù hợp với thông lệ của các
nước trong khu vực và cân đối với chiến lược phát triển giao thông trong
nước. Theo đó thuế suất cần được thiết kế thuế theo dung tích xi lanh hoặc
kết hợp cả dung tích xi lanh với số chỗ ngồi để khuyến khích sản xuất theo
chủng loại xe, khuyến khích tăng dung lượng thị trường, phù hợp với chính
sách về môi trường. Về các loại phí và lệ phí: chúng ta hiện nay đang có lệ
phí trước bạ, lệ phí cấp biển số xe điều chỉnh việc đăng ký, lưu hành xe.
Trong khi đó, phí đường bộ mới chỉ thu vào phương tiện giao thông trên các
tuyến quốc lộ mà chưa áp dụng trong khu vực đô thị.
IV. Văn hóa xã hội.

1. Dân cư.
1.1. Thu nhập dân cư:
Đây là yếu tố rât quan trong vì mặt hàng ô tô đối với người dân việt nam
vẫn là mặt hàng xa xỉ, một ngành bât kỳ nào muốn phát triển được thì đều
phải có thị trường tiêu thụ, mặt hàng ô tô là hàng hóa đòi hổi người dân phải
có mức thu nhập cao thì mới đủ khả năng tiêu dùng, tuy mưc song của ngươi
dân Việt Nam ngân đây đã được cải thiện đáng kêw nhưng đại đa số người
dân vẫn chưa có khả năng mua ô tô, do vậy dân số của nước ta bay giờ
khoảng 85 triệu dân, nhưng vẫn được coi là một thị trương nhỏ lẻ do mưc
sống của ngươi dân con thấp ( thu nhập bình quân của trung ta chỉ đạt
khoảng 600 USD ) thị trường nhỏ lẻ rất khó thu được đầu tư đặc biệt la đâu
tư vào nhưng ngành sảm xuất linh kiện với lương vôn đâu tư lớn thời gian
thu hôi lâu. Chinh bởi vậy muốn ngành công nghiệp ô tô trong nước phát
triển thánh ngành công nghiệp ô tô đúng nghĩa bao gồm ngành sảm xuất linh
kiện và lăp ráp ô tô thì chúng ta phải có nhưng chính sách cụ thể để keo gọi
đầu tư không những chỉ đấp ứng nhu câu trong nước ma còn phục vụ cho
xuât khẩu những mặt hàng như linh kiện ô tô.
1.2. Thị hiếu của khách hàng :
9
Thị hiếu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến lượng xe bán ra của mỗi
doanh nghiệp. Bởi vì thị hiếu sẽ khiến cho khach hàng hương sự tiêu dung
của minh vào mặt hàng ma đang có chao lưu tiêu dung nhiêu. Thị hiếu được
hình thành do các yếu tố xã hội ,tâm lý , sở thích...Cũng như do xem quảng
cáo, do người quen chỉ bảo, do kiểu dáng mẫu mã, giá loại sản phẩm đó.
Yếu tố tâm lý và xã hội cũng rất quan trọng đến xu hương tiêu dùng
của khác hàng, như những người thuộc tang lớp sang trong họ muôn thể hiện
đăng câp bằng việc đi xe ford…. Yêu tố tâm lý còn ảnh hưởng đến xu hướng
chọn phương tiện di chuyển, nêu người dân có xu hương muốn chọn nhưng
phương tiên di chuyển khác như xe máy xe dạp, tàu…. Thị điều tất nhiên là
lượng xe bán ra trên thị trương sẽ giản va ngươc lại nếu mọi người đều

muốn ô tô là phương tiện di chuyển cá nhân của mình tì lượng câu về ô tô tât
nhiên sẽ tăng mạnh.
2.Cơ sở hạ tầng.
2.1. Tốc độ đô thị hóa :
Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng tới ngành ô tô, khi tốc độ đô thị cao thì
cũng đồng nghĩa vơi viêc mức sống của người dân cũng tăng đồng thời cũng
ảnh hưởng tới yếu tố tâm lý và xu hương tiêu dùng của người dân những
điều đó làm thị trường tiêu thụ ô tô tăng nhanh, mặt khác tốc độ đô thị hóa
cũng đông thời tạo ra các điều kiên thuân lợi hơn về giao thông vân tải khiên
cho ngươi dân thây đổi xu hướng xủ dung phương tiện di chuyển.
2.2. Cở sở hạ tầng :
Đây là yếu tố quan trong tác động tới tân lý sủ dụng ô tô của người dân
nêu cơ sở hạ tang thấp kem sẽ không cho phép phát triển ngánh công nghiệp
ôt ô được, ví dụ cơ sở về hệ thống giao thông sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu
dung xe của người dân, cơ sở hạ tầng sẽ ảnh hưởng tới khả năng sảm của các
doanh nghiệp cũng như năng suất. Cơ sở hạ tầng của trung ta hiện nay vẫn
còn nhiêu bất cập, như nhà xưởng hệ thống giao thông vẫn còn yếu kếm, đặc
biêt hệ thống giao thông vẫn con đang trên đương phát triển và hoàn thiện,
ngành công nghiệp ô tô không thể phát triển được nếu hệ thống giao thông
quá yếu kém, ví dụ như hệ thông giao thông trong hai thành phố lơn nhât la
Hà Nội va TP HCM nêu ra đương vào giờ cao điểm băng ô tô liệu ta có thể
di chuyển đươc hay không, những điều đó cũng phân nao ảnh tới nganh
công nghiệp ô tô trong nước do ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng ô tô của
người dân.
10
V. Nhân tố tư nhiên.
1. Tai nguyên thiên nhiên.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú vơi nhiều loại
khoáng sản phong phú, đây là điều kiện thuận lợi cho nhiêu nganh công
nghiệp phụ trợ đực biệt là ngành công nghiêp sảm xuất linh kiện chủ động

được nguồn cung nhiên liệu, tuy nhiên muốn tạo đươc lợi thế này chung ta
lại phải phát triển những ngành công nghiệp khai khac khác, và ngành công
nghiêp chế biến nguyên liệu vừa khai thác, tuy nhiên trong thực tế hiên nay
với trình độ sản xuất linh phụ kiện như bây giờ thì tài nguyên thiên nhiên
chưa có ảnh hưởng nhiều vì đâị bộ phân các chi tiêt ô tô chúng ta vẫn nhập
khẩu từ nước ngoài, tuy nhiên trong một tương lai ngần ( tới năm 2020 )
công nghiệp ô tô còn sơ khai như bây giơ sẽ cơ bản về đúng nghĩa là một
ngành công nghiệp khi đây vơi nguôn tai nguyên phong phú sẽ là lợi thế lơn
cho ngành công nghiệp ô tô nói chung va công nghiệp phụ trợ ô tô nói riêng
của chúng ta.
2. Vị trí địa lý.
Vị trí địa lý là nhân tố quan trọng nó có thể ảnh hưởng tới cả nên kinh tế,
khi một quốc gia có vị trí địa lý thuân lợi cho giao thương với các quốc gia,
khu vực khác nó sẽ có nhiêu lợi thế cạnh tranh đầu tư hơn, ngành công
nghiêp ô tô cũng vạy chịu sự ảnh hương của nên kinh tê và vị trí địa lý đối
với ngành. Việt Nam là một quốc gia có điêu kiện về vị trí địa lý rất thuận
lợi, chung ta lăm trên trục đương giao thông quan trong của thế giới va năm
trên ngã ba kinh tế, mặt khác chung ta lại rap biển với đương bơ biển dài do
vậy chung có lợi thế lơn trong việc kêu gọi đâu tư. Mặt khac tài nguyên về
đất cũng rât quan trọng, vị trí địa lý đặt các doanh nghiêp cũng ngây ra
những thuân lợi và khó khăn trong giao thông vận tải. các doanh nghiệp lăp
ráp ô tô luôn cần một diện tich lớn ngoài việc phuc vụ cho công việc sảm
xuất còn cần một diên tich đang kể để chạy thử xe, do vạy cac doanh nghiêp
lăp ráp ô tô chiếm một diên tich tương đối lớn.

11

×