Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại việt nam và các đề xuất cho nội dung của luật đa dạng sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.15 KB, 48 trang )

PB i
Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại lai tại Việt Nam
và các đề xuất cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học
John Pilgrim
(Chương trình BirdLife Đông Dương)
Nguyễn Đức Tú
(Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam)
Tài trợ bởi Chương trình Chính sách Lâm nghiệp Toàn cầu của BirdLife International
Báo cáo này được thực hiện theo yêu cầu của
Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội, 2007
ii iii
ii iii
Điều phối viên dự án:
Phạm Tuấn Anh
Nhóm thực hiện dự án:
John Pilgrim (BirdLife International in Indochina)
Nguyễn Đức Tú (Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam)
Dự án được tài trợ bởi:
Chương trình Chính sách Lâm nghiệp Toàn cầu của BirdLife International
Minh họa bìa: Trĩ sao Rheinardia ocellata, ảnh của Jonathan C. Eames.
Trích dẫn:
Pilgrim, J. D. và Nguyễn Đức Tú (2007) Thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và các loài ngoại
lai tại Việt Nam và các đề xuất cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học. Báo cáo trình Vụ Môi
trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt
Nam.
Tài liệu lưu tại:
Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam
Số 4, Ngõ 209
Phố Đội Cấn
Hà Nội


Việt Nam
ĐT: + (84) 4 722 3864
Email:
Web: www.birdlifeindochina.org
© BirdLife International, tháng bảy 2007

ii iii
ii iii
MỤC LỤC
Lời cám ơn iv
Chú giải thuật ngữ v
Tên và thuật ngữ viết tắt v
1. Tóm tắt 1
2. Giới thiệu 2
3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam 2
3.1. Liệt kê các loài bị đe dọa 2
3.2. Các loài bị đe dọa ở Việt Nam 3
3.3. Các mối đe dọa đối với các loài 4
3.4. Các hành động để bảo tồn các loài bị đe dọa 5
3.5. Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa 5
4. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý và bảo tồn
các loài bị đe dọa 7
5. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe dọa 9
5.1. Các văn bản hiện có về các loài bị đe dọa 9
5.2. Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài bị đe dọa 13
6. Đề xuất những điều khoản về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa
có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học 16
7. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam 17
7.1. Các loài ngoại lai ở Việt Nam 17
7.2. Các hành động để giải quyết vấn đề sinh vật ngoại lai 20

7.3. Các cam kết quốc tế về sinh vật ngoại lai 21
8. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về quản lý các sinh vật ngoại lai 22
9. Các văn bản pháp quy về các loài ngoại lai ở Việt Nam 23
9.1. Các văn bản hiện có về các loài ngoại lai 23
9.2. Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài ngoại lai 25
10. Đề xuất những điều khoản về quản lý các loài ngoại lai
có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học 26
11. Tài liệu tham khảo 27
12. Các phụ chương 31
Phụ chương 1. Ma trận phân tích các loài bị đe dọa toàn cầu, loài bị đe dọa
ở cấp quốc gia, và các loài được bảo vệ ở Việt Nam 31
Phụ chương 2. Các loài của Việt Nam có trong danh lục các loài
của Công ước về loài di cư 73
Phụ chương 3. Ma trận các loài (ngoại lai và bản địa) xâm hại đe dọa
tính đa dạng sinh học thực vật ở Việt Nam 74
Phụ chương 4. Danh lục các loài thực vật thủy sinh lạ xâm nhập thủy vực Việt Nam 75
Phụ chương 5. Phân loại khả năng xâm lấn 76
Phụ chương 6. Danh mục đối tượng kiểm dịch thực vật 77
Phụ chương 7. Các loài bị đe dọa: Các định nghĩa chính 79
iv v
iv v
Lời cám ơn
Báo cáo này là kết quả của một tiểu dự án do Dự án Chính sách Lâm nghiệp Toàn cầu của BirdLife
International và Hiệp hội Bảo vệ Chim Hoàng gia (RSPB; BirdLife tại Vương quốc Anh). Các tác
giả xin được cám ơn RSPB và BirdLife International về sự hỗ trợ quý báu này.
Chúng tôi xin được cám ơn Vụ Môi trường (DoE), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MoNRE) đã cho
phép BirdLife tham gia vào việc xây dựng Luật Đa dạng Sinh học. Đặc biệt xin được cám ơn ông
Nguyễn Văn Tài và bà Huỳnh Thị Mai đã hợp tác và hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện
báo cáo. Hy vọng, Vụ Môi trường sẽ tiếp tục hợp tác với chúng tôi để lồng ghép các kiến nghị
trong báo cáo này vào Luật Đa dạng Sinh học.

Chúng tôi cũng xin cám ơn các ông Jonathan Eames (BirdLife International in Indochina), Lê
Trọng Trải (Chương trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam), TS. Barney Long (WWF Greater Me-
kong – Chương trình Việt Nam), ông Steven Swan (Fauna & Flora International – Chương trình
Việt Nam), ông Andrew W. “Jack” Tordo (BirdLife International Asia Division), và ông Trần
Công Minh (IUCN Việt Nam), về những đóng góp và bình luận quý báu cho các bản dự thảo của
báo cáo này.
Cuối cùng, các tác giả xin được đặc biệt cám ơn tất cả các đại biểu đã tham gia các cuộc họp tư vấn
Xây dựng Luật Đa dạng Sinh học tại Hà Nội, ngày 15/08/2006, và tại Đại Lải, ngày 9 và 10/11/2006
đã có những ý kiến đóng góp quý báu để hoàn thiện báo cáo này.
iv v
iv v
Chú giải thuật ngữ
Loài bị đe dọa. Là loài đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên ở các mức cực kỳ cao,
rất cao hoặc cao. Các loài này được phân hạng vào các cấp Cực kỳ nguy cấp, Nguy cấp hoặc Sắp
nguy cấp. Định nghĩa chi tiết của các thuật ngữ này và các thuật ngữ khác liên quan đến việc đánh
giá mức độ bị đe dọa (Tuyệt chủng, Tuyệt chủng ngoài tự nhiên, Gần bị đe dọa, Không nguy cấp,
Thiếu dẫn liệu, và Chưa đánh giá) được trình bày trong Phụ chương 7.
Loài ngoại lai xâm hại. Một loài, phân loài hay một taxon thấp hơn, được di thực ra ngoài vùng
phân bố tự nhiên trước đây hoặc hiện tại của taxon và sự di thực hoặc phát tán này đe dọa đến
tính đa dạng sinh học; điều này bao gồm cả di thực một phần cơ thể có thể tồn tại và sinh sản,
giao tử, hạt, trứng hay cây chồi của các taxon
1
.
Tên và thuật ngữ viết tắt
CBD Công ước Đa dạng Sinh học
CITES Công ước về buôn bán các loài bị đe dọa
DoE Vụ Môi trường
FIPI Viện Điều tra Quy hoạch rừng
IBA
2

Vùng Chim Quan trọng
ISSG Nhóm Chuyên gia về Loài Xâm hại của IUCN
IUCN Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
KBA
2
Vùng Quan trọng về Đa dạng Sinh học
MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
MoF Bộ Thủy sản
MoNRE Bộ Tài nguyên và Môi trường
MoSTE Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
OEPP Văn phòng Chính sách và Quy hoạch Bảo tồn, Thái Lan
RSPB Hiệp hội Bảo vệ Chim Hoàng gia (BirdLife tại Vương quốc Anh)
UNEP Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc
VEPA Cục Bảo vệ Môi trường
1
Công ước Đa dạng Sinh học <hp://www.biodiv.org/programmes/cross-cuing/alien/resources/terms.shtml>
2
IBA và KBA là các khu vực đạt chuẩn quốc tế là có giá trị đa dạng sinh học cao được xác định dựa trên các tiêu chí
định lượng dựa trên sự có mặt của các loài mà do đó việc bảo tồn ở cấp độ khu là cần thiết: (1) các loài bị đe dọa toàn
cầu; (2) các loài phân bố hẹp; (3) các loài tập trung với số lượng lớn; và (4) tập hợp của các loài giới hạn phân bố trong
các đơn vị địa sinh học.
vi
1. Tóm tắt
Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới với nhiều yếu tố
đặc sắc không thể phát hiện ở bất cứ nơi nào khác. Tuy nhiên, Việt Nam cũng được xếp hạng vào
một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học bị đe dọa nặng nề nhất. Hệ thống văn bản
pháp quy hiện tại của Việt Nam cũng đã được ban hành nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học của
đất nước và giải quyết các mối đe dọa đối với đa dạng sinh học, nhưng vẫn chưa đầy đủ và còn
phân tán. Điều này dẫn đến yêu cầu cần xây dựng mới một bộ Luật Đa dạng Sinh học có tính
thống nhất. Theo yêu cầu của Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, tài liệu

này được thực hiện nhằm phân tích tình trạng hiện tại của các loài bị đe dọa và loài ngoại lai tại
Việt Nam, các văn bản pháp quy liên quan đến các loài này, các khoảng thiếu hụt và không nhất
quán trong các văn bản, và các kinh nghiệm quốc tế có thể áp dụng để giúp Việt Nam xây dựng
bộ Luật Đa dạng Sinh học mới. Cuối cùng, báo cáo sẽ đưa ra các kiến nghị về các loài bị đe dọa
và loài ngoại lai có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học.
Nhìn chung, những yêu cầu chính được xác định (chi tiết trình bày trong phần 6 và 10) gồm:
Loài bị đe dọa
1. Xác định tình trạng pháp lý của Sách Đỏ Việt Nam và thống nhất các danh lục loài được
bảo vệ và danh lục loài bị đe dọa ở Việt Nam;
2. Phạm vi và tiêu chuẩn hóa cho danh lục loài được bảo vệ (“quý hiếm”);
3. Các văn bản pháp quy cần bổ sung để có thể thực hiện được các quy định hiện có về bảo
vệ sinh cảnh của các loài bị đe dọa trên cạn;
4. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về bảo tồn các vùng biển
và nước nội địa, cùng với đó là những quy định mới làm cơ sở cho việc thành lập các hệ
thống khu bảo vệ ở các vùng nước nội địa, ven biển và biển.
5. Đề xuất công nhận và bảo vệ các khu Ramsar;
6. Tăng các khung hình phạt cho các tội danh vi phạm các điều luật liên quan đến đa dạng
sinh học, đặc biệt những điều luật liên quan đến khai thác và kinh doanh các loài được
bảo vệ.
Các loài ngoại lai
1. Ủy quyền cho một cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về vấn đề các loài ngoại lai
xâm hại, bao gồm cả tránh nhiệm xây dựng một chiến lược tổng thể về vấn đề này;
2. Các biện pháp nghiêm khắc và xử phạt hành chính để ngăn chặn việc cố ý nhập các loài
ngoại lai xâm hại;
3. Các quy chế kiểm dịch nghiêm ngặt và hạn ngạch buôn bán động vật cảnh và cây cảnh để
ngăn chặn việc vô tình đưa các loài xâm hại vào Việt Nam;
4. Các quy định về tiêu hủy, hoặc ít nhất là kiểm soát và ngăn ngừa các loài ngoại lai xâm
hại khi chúng đã xuất hiện, đặc biệt chú trọng ưu tiên các vùng rừng đặc dụng và các sinh
cảnh tự nhiên quan trọng của các loài bị đe dọa như các Vùng Chim Quan trọng hay các
Vùng Đa dạng Sinh học Trọng Yếu.

1
2 3
2 3
2. Giới thiệu
Việt Nam luôn được xếp vào nhóm hai mươi quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên
thế giới. Đối với một số nhóm sinh vật, ví dụ như linh trưởng, Việt Nam đứng trong năm quốc
gia hàng đầu về sự đa dạng. Chỉ tính riêng trên cạn đã có hơn 13.700 loài thực vật (Bộ TNMT
et al. 2005), khoảng 870 loài cá có phân bố thường xuyên (Bộ TNMT et al. 2005), 310 loài thú (Bộ
TNMT et al. 2005), 822 loài chim (BirdLife International 2006), 286 loài bò sát (Bộ TNMT et al.
2005) và 145 loài lưỡng cư (IUCN et al. 2006) được xác định và mô tả tại Việt Nam. Môi trường
biển cũng chứa đựng tính đa dạng sinh học không kém với hơn 11.000 loài sinh vật biển đã
được ghi nhận (Bộ TNMT et al. 2005). Việt Nam cũng là nơi mà sự đa dạng sinh học vẫn chưa
được khám phá đầy đủ - rất nhiều loài thực vật, bò sát, lưỡng cư, và thậm chí có bốn loài thú
lớn và ba loài chim mới được mô tả cho khoa học trong mười lăm năm qua (Sterling et al. 2006).
Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao nhất của Việt Nam chính là các loài đặc hữu của quốc gia
- những loài không được ghi nhận ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Các loài phân bố hẹp này
cũng chính là các loài bị đe dọa nặng nề nhất. Khoảng 10% các loài thực vật của Việt Nam được
cho là các loài đặc hữu (UNEP 2001), tám loài chim đặc hữu (trong đó sáu loài là loài bị đe dọa ở
cấp độ toàn cầu), năm loài thú và một loài bò sát đặc hữu là loài bị đe dọa toàn cầu, cuối cùng là
39 loài lưỡng cư đặc hữu trong đó có bốn loài bị đe dọa toàn cầu (IUCN et al. 2006).
Xác định rõ tầm quan trọng về đa dạng sinh học của quốc gia và các mối đe dọa mà tính đa dạng
sinh học này đang phải gánh chịu, Chính phủ Việt Nam đã ra Quyết định số 35/2003/QĐ-TTg
ngày 06/03/2003 chỉ định Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TNMT) chịu trách nhiệm chủ trì xây
dựng Luật Đa dạng Sinh học. Luật Đa dạng Sinh học lần đầu tiên sẽ được xây dựng trên tinh
thần tham khảo rộng rãi để mọi công dân và các tổ chức đều có thể đóng góp ý kiến. Luật này
cũng giúp Việt Nam thực hiện các cam kết theo các thỏa thuận quốc tế và thể hiện vai trò của Việt
Nam như một thành viên của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản dự thảo Luật
Đa dạng Sinh học sẽ được đưa ra trình Quốc hội cho ý kiến vào đầu năm 2007 và bản thảo lần
thứ nhất sẽ phải hoàn tất trong tháng Bảy năm 2006. Ghi nhận trình độ chuyên môn của BirdLife
International về lĩnh vực các loài bị đe dọa cả ở quy mô toàn cầu (là cơ quan ủy quyền chính thức

của IUCN trong việc xác định danh lục đỏ các loài chim bị đe dọa) cũng như quy mô vùng (tại
Việt Nam và các quốc gia lân cận), Vụ Môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề nghị
BirdLife International thực hiện một nghiên cứu lấy thông tin cơ sở về các loài bị đe dọa và loài
ngoại lai và các kiến nghị cho nội dung của Luật Đa dạng Sinh học.
3. Tổng quan về tình trạng các loài bị đe dọa ở Việt Nam
3.1 Liệt kê các loài bị đe dọa
Tuy việc đánh giá toàn diện tình trạng bị đe dọa của tất cả các loài đã được ghi nhận ở Việt Nam
là hết sức khó khăn do thông tin còn rất thiếu, nhưng cũng đã có nhiều nỗ lực được thực hiện để
xác định danh lục và xếp hạng các loài. Danh lục đỏ các loài bị đe dọa của IUCN (www.iucnredlist.
2 3
2 3
org) là nguồn thông tin có tính tổng thể nhất về các loài bị đe dọa, và Danh lục Đỏ IUCN ngày
càng được các tổ chức chính phủ và liên chính phủ thừa nhận như “chuẩn toàn cầu về các loài bị
đe dọa” (Rodrigues et al. 2006). Là một thành viên IUCN, Chính phủ Việt Nam cần phải có “một
trong các mục tiêu chính của mình là thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm
chấp thuận Danh lục Đỏ IUCN và lồng ghép vấn đề các loài trong Danh lục Đỏ IUCN vào các quy
chế bảo vệ loài của quốc gia. Các tiêu chí định lượng được sử dụng để đánh giá và xếp các loài
theo thứ bậc trong bộ phân hạng tình trạng bị đe dọa (Hình 1). Trong đó các loài bị đe dọa là các
loài được xếp vào các phân hạng Tối nguy cấp (Critically Endangered - CR), Nguy cấp (Endan-
gered - EN), hoặc Sắp Nguy cấp (Vulnerable - VU).
Hình 1: Các phân hạng trong danh lục đỏ IUCN
a
và sơ bộ về các tiêu chí
b
a
Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ IUCN (2001)
b
Điều chỉnh, với sự chấp thuận, từ Butchart et al. (2005)
c
Nếu thời gian nào dài hơn

Các danh lục đỏ và sách đỏ đã được xây dựng ở cấp quốc gia cho các khu hệ động vật vào năm
1992 (Bộ KHCNMT 1992), cập nhật năm 2000 (Bộ KHCNMT 2000), tiếp theo đó là sách đỏ thực
vật năm 1996 (Bộ KHCNMT 1996). Do đây là giai đoạn đầu của việc liệt kê các loài bị đe dọa, các
tài liệu này được xây dựng theo mô hình của Sách đỏ Ấn Độ. Các lần tái bản Sách Đỏ tiếp theo (Bộ
TNMT và Viện Khoa học Việt Nam in prep. a và b) sẽ đáp ứng theo các chỉ dẫn đã có của IUCN
(IUCN 1994). Hiện đã có một hệ thổng chuẩn hóa toàn cầu nghiêm ngặt hơn (IUCN 2001) và có
thể áp dụng ở cấp quốc gia (IUCN 2003) mà các lần xây dựng Sách Đỏ tiếp theo có thể sử dụng.
3.2 Các loài bị đe dọa ở Việt Nam
Danh lục đỏ IUCN bản mới nhất (IUCN 2006) đã liệt kê 311 loài ở Việt Nam ở các cấp độ đe dọa
toàn cầu, trong khi Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KHCNMT 1996, 2000) đã xếp hạng 522 loài (526 đơn

Tuy� t ch� ng (EX)
Tuy� t ch� ng n goài t�
nhiên (EW )
C� c kỳ N guy c� p (C R)
Nguy c� p (EN)
S� p nguy c� p (VU )
G � n b� đe d� a (NT )
Ít b� đe d� a (LC)
Không đ� d� n li� u (D D )
Không đ� � c đánh giá (N E)
(Đ �
d� n li� u)
(B�
đe d� a)
(Đ ã
đánh giá)
Ch� a rõ
nguy c�
tuy� t ch� ng

Nguy c� tuy�t ch�ng tăng d�n
Khi loài ch� còn t� n t� i trong môi tr� � ng nuôi nhân t� o, nuôi nh� t ho� c các
qu� n th � bán hoang d ã bên ngoài vùng phân b� quá kh� c� a loài
Khi loài x� p vào các phân h� ng n ày theo các tiêu chí và đ� � c cho là đang
đ� i m � t v� i nguy c� tuy� t ch� ng ngoài t� nhiên cao ho� c r� t cao.
Khi m � t loài không phù h� p v� i các tiêu chí x� p h� ng, tuy nhiên g� n đáp � ng
ho� c có v� đáp � ng tiêu chí c� a các phân h� ng b� đe d� a trong t� � ng lai g� n
Khi m � t loài không phù h� p đ� x� p vào các tiêu chí b� đe d� a (các loài ho� c
d� � i loài có s� l� � ng l� n ho� c phân b� r� ng)
Khi không đ� thông tin đ� đánh giá tr� c ti� p ho� c gián ti� p nguy c� b� đe d� a
c� a m � t loài d� a trên vùng phân b� và tình tr� ng qu� n th� c� a chúng
Khi m � t loài ch� a th � đánh giá theo các tiêu chí
T iê u c h í
C � c kỳ n gu y c� p
N g u y c � p
S � p ng u y c � p
C h � s� đáp � n g và tiê u c h í
A1: G i� m kích c�
qu� n th �
≥ 90%
≥ 70%
≥ 50%
Trong 10 năm ho� c 3 th� h�
c
đã qua, khi nguyên nhân c� a s� suy gi� m này rõ
ràng là có th� đ� o ng� � c đ� � c V À đã đ� � c h i� u VÀ đã ng� ng
A 2 -4: G i� m kích c�
qu� n th �
≥ 80%
≥ 50%

≥ 30%
Trong 10 năm ho� c 3 th� h�
c
đã qua
c
, trong t� � ng lai ho� c c� hai
B1: V ùng phân b� h� p
(ph� m vi phân b� )
<100 km ²
< 5.000 km²
< 20.000 km²
C� ng thêm hai ch� s� trong s� (a) b � chia c� t nghiêm tr� ng hay ít đi� m phân b�
(1, ≤ 5, ≤ 10); (b) ti� p t� c suy gi� m; (c) hay bi� n đ� ng nghiêm tr� ng
B2: V ùng phân b� h� p
(di� n tích c� trú)
< 10 km ²
< 500 km ²
< 2.000 km²
C� ng thêm hai ch� s� trong s� (a) b � chia c� t nghiêm tr� ng hay ít đi� m phân b�
(1, ≤ 5, ≤ 10); (b) ti� p t� c suy gi� m; hay (c) bi� n đ� ng nghiêm tr� ng
C: Q u� n th� nh� và
suy gi� m
< 250
< 2.500
< 10.000
Cá th� tr� � ng thánh. Liên t� c suy gi� m th� hi� n (1) v� i m � t t� c đ� ho� c qua
m � t giai đo� n c� th� ; ho� c (2) v� i (a) c� u trúc qu� n th� rõ ràng hay (b) bi� n
đ� ng nghiêm tr� ng
D1: Q u� n th� r� t nh�
< 50

< 250
< 1.000
Cá th� tr� � ng thánh.
D2: Q u� n th� phân b�
r� t h� p
Không rõ
Không rõ
Di� n tích c� trú ≤
20 km ², hay ≤ đ�a
đi� m
Có th� tr� thành loài C � c k ỳ n g u y c � p trong th� i gian r� t ng� n
E: P hân tích đ�nh
l� � ng
≥ 50% trong 10 năm
ho� c 3 th� h�
c

≥ 20% trong 10 năm
ho� c 5 th� h�
c

≥ 20% trong 100
năm
� � c tính nguy c� tuy� t ch� ng b� ng các m ô hình toán đ�nh l� � ng (vd� , phân
tích qu� n th � )

Khi rõ ràng là cá th� cu� i cùng đã ch� t
4 5
4 5
Loài bị đe dọa toàn cầu Loài bị đe dọa ở quốc gia

CR EN VU Tổng E V R Tổng
Thực vật 25 38 85 148 25 61 156 242
Thú 11 11 23 45 31 25 21 77
Chim 5
3
13 23
4
41 15 6 28 49
Bò sát 7 14
5
8 29 9 16 7 32
Lưỡng cư 0 5 13 18 1 2 3 6
Cá 4 6 20 30 6 21 28 55
Các loài khác 0 0 0 0 11 22 28 61
Tổng số 52 87 172 311 98 153 271 522
3.3 Các mối đe dọa đối với các loài
Ở cấp độ toàn cầu, sức ép chính lên các loài bị đe dọa được xác định ở khắp nơi là mất và chia
cắt sinh cảnh. Các mối đe dọa chính khác đến từ khai thác quá mức, các loài xâm lấn, ô nhiễm và
bệnh dịch (Baillie et al. 2004). Điều này cũng phản ánh mối đe dọa đối với các loài của Việt Nam
- ví dụ, tất cả các loài lưỡng cư bị đe dọa toàn cầu ở Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị
mất và bị chia cắt, 47% bị đe dọa bởi ô nhiễm, và 20% do khai thác quá mức (IUCN et al. 2006).
Tương tự, 57% số loài chim bị đe dọa ở Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi sinh cảnh bị mất và bị
chia cắt, 44% bị đe dọa bởi khai thác quá mức, và 25% do ô nhiễm (BirdLife International 2006).
3
Thêm loài Fregata andrewsi (ghi nhận ở dạng vãng lai tại Việt Nam).
4
Thêm loài Larus relictus và Mycteria cinerea (ghi nhận ở dạng vãng lai tại Vietnam), nhưng bỏ đi loài
5
Haliaeetus leucoryphus, do không có ghi nhận nào đủ độ tin cậy.
Các loài Carea carea và Lepidochelys olivacea theo danh lục IUCN không liệt kê là loài của Việt Nam,

nhưng thực tế đã được ghi nhận tại Việt Nam.
Bảng 1: Các loài bị đe dọa được ghi nhận ở Việt Nam
vị phân loại) ở các cấp độ đe dọa của quốc gia (i.e., Nguy cấp, Sắp nguy cấp, hay Hiếm: Bảng 1,
Phụ lục 1). Tuy nhiên, Sách Đỏ Việt Nam - một phần nào đó sử dụng các tiêu chí cũ - bỏ qua rất
nhiều các loài bị đe dọa toàn cầu; chỉ 117 (38%) số loài có ở Việt Nam được liệt kê trong Danh lục
Đỏ IUCN đã không được liệt kê trong các bản Sách Đỏ Việt Nam gần đây. Ngược lại, Sách Đỏ
Việt Nam đã đánh giá nhiều nhóm sinh vật không được đánh giá ở mức độ toàn cầu theo IUCN,
và do đó Sách Đỏ Việt Nam đã liệt kê thêm 328 loài (trong đó có một số nhóm thực vật, nhuyễn
thể và cá) có thể đang bị đe dọa ở mức toàn cầu. Hai hệ thống danh lục này phục vụ cho những
mục tiêu khác nhau do vậy cũng có phương pháp đánh giá hơi khác nhau (IUCN 2003), nhưng
rõ ràng có lý do để đồng bộ hóa giữa chúng tốt hơn. Một trong những hành động cần thiết ở Việt
Nam là cần đảm bảo các đánh giá trong Sách Đỏ tiếp cận gần hơn với các chỉ dẫn và đánh giá của
IUCN, tối thiểu thì cũng phải liệt kê đầy đủ tất cả các loài của Việt Nam được tất cả các loài bị đe
dọa hoặc gần bị đe dọa theo IUCN.
Số lượng lớn các loài bị đe dọa toàn cầu đã đặt Việt Nam vào quốc gia đứng thứ 19 thế giới về
số loài bị đe dọa, cao nhất tại Đông Dương. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 nước hàng đầu về
số loài thú bị đe dọa, nhóm 20 nước hàng đầu về số loài chim, nhóm 30 nước hàng đầu về số loài
thực vật và lưỡng cư (IUCN 2006). Tất nhiên, các loài được liệt kê là bị đe dọa mới là các loài đã
có đủ thông tin và được đánh giá - rất nhiều loài khác ở Việt Nam rất có thể cũng đang bị đe dọa
tuyệt chủng.
4 5
4 5
Do hầu hết sinh cảnh của Việt nam là rừng, ảnh hưởng lớn nhất do mất sinh cảnh được cho là do
rừng bị mất và chia cắt. Tuy thống kê chính thức cho thấy độ phủ rừng đã tăng lên trong mười
năm vừa qua đến mức 37% vào năm 2004, nhưng chưa đến một phần ba trong tổng diện tích
rừng là rừng tự nhiên và chỉ một phần rất nhỏ (<5%) trong tổng diện tích rừng được cho là “rừng
giàu/đóng tán” (Bộ TNMT et al. 2005). Do vậy con số tăng chủ yếu là rừng trồng có rất ít giá trị đa
dạng sinh học. Nhìn chung, rừng tự nhiên Việt Nam vẫn đang tiếp tục bị xuống cấp và chia cắt
(Bộ TNMT et al. 2005). Khai thác quá mức ở Việt Nam chủ yếu là săn bắn làm thức ăn, tuy nhiên
bẫy bắt làm động vật cảnh cũng là một nhân tố đáng kể (đơn cử đến 25% số loài chim của Việt

Nam bị đe dọa bởi khai thác quá mức; BirdLife International 2006).
3.4 Các hành động để bảo tồn các loài bị đe dọa
Rất nhiều biện pháp đã được tiến hành để đảm bảo duy trì các loài bị đe dọa ở Việt Nam, tuy
nhiên vẫn cần thêm rất nhiều nỗ lực nữa. Các nỗ lực bảo tồn này có thể xếp vào các nhóm như (i)
chính sách và thể chế, (ii) các khu bảo vệ, (iii) bảo tồn cảnh quan, (iv) các giải pháp tài chính, và (v)
sự tham gia của cộng đồng (Bộ TNMT et al. 2005). Các phân tích sớm đã chỉ ra rất nhiều thiếu hụt
đặc biệt nghiêm trọng (Bộ TNMT et al. 2005). Phân tích về hệ thống rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng
các sinh cảnh đất ngập nước, nhất là các sông ở vùng thấp và đất ngập nước ven biển chưa được
đại diện đầy đủ trong hệ thống hiện tại, rừng thường xanh đất thấp cũng như vậy (Bộ TNMT et
al. 2005). Thêm vào đó, quy mô các khu bảo vệ cũng không đủ đáp ứng đối với một số loài sinh
vật (Bộ TNMT et al. 2005). Cải thiện hệ thống các khu bảo vệ hoặc các hành động bảo tồn cảnh
quan rất cần ưu tiên để bù đắp thiếu hụt này.
IUCN hiện đã thu thập một số thông tin cần thiết về các biện pháp bảo tồn đã có đối với các loài
bị đe dọa toàn cầu. Ví dụ, BirdLife International - cơ quan ủy quyền chính thức chịu trách nhiệm
xây dựng Danh lục Đỏ các loài chim, đã liệt kê hơn 200 biện pháp bảo tồn cụ thể cần thiết đối với
các loài chim của Việt Nam; trong đó 37% là các hành động liên quan đến sinh cảnh, 34% là hành
động nghiên cứu, và 13% là hành động chính sách (BirdLife International 2006). Cũng như vậy,
các hành động bảo tồn cần thiết do IUCN liệt kê cho các loài lưỡng cư Việt Nam có 39% là hành
động nghiên cứu, 38% hành động liên quan đến sinh cảnh, và 6% là các hành động chính sách
(IUCN et al. 2006). Phần lớn các biệt pháp bảo tồn hiện có ở Việt Nam là các hành động liên quan
đến sinh cảnh (ví dụ, 79% hành động bảo tồn lưỡng cư được đề xuất liên quan đến sinh cảnh),
đầu tiên là qua hệ thống rừng đặc dụng hiện có của quốc gia gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn
và các khu bảo vệ cảnh quan. Nhìn chung, các hành động chính sách, ví dụ như hệ thống văn bản
pháp quy, rất ít, trong khi đây rõ ràng là phần cốt lõi trong các yêu cầu của bảo tồn tổng thể.
3.5 Các cam kết chính sách quốc tế liên quan đến các loài bị đe dọa
Việt Nam đã tham gia ký kết rất nhiều thỏa thuận quốc tế liên quan đến bảo tồn các loài bị đe
dọa:
Công ước Đa dạng Sinh học (www.biodiv.org)
Công ước này có mục tiêu là bảo tồn tính đa dạng sinh học thông qua phát triển bền vững. Việt
Nam tham gia Công ước từ năm 1994 và cơ quan đầu mối quốc gia hiện nay là Cục Bảo vệ Môi

trường. Theo Điều 8, Việt Nam cam kết “xây dựng và duy trì hệ thống pháp chế và các điều
khoản pháp chế khác để bảo vệ các loài và các quần thể loài bị đe dọa”. Trong Nghị quyết VI/26,
6 7
6 7
kỳ họp thứ 6 của các bên tham gia Công ước, Việt Nam, là một bên ký kết, cam kết thêm “đến năm
2010 sẽ thực hiện được việc giảm đáng kể tốc độ mất sinh cảnh ở cấp độ toàn cầu, vùng và quốc
gia”. Một trong những chỉ số chính thức được đề xuất để đánh giá mục tiêu này là Danh mục Đỏ,
dựa trên tình trạng của các loài bị đe dọa toàn cầu (Butchart et al. 2005). Tuân thủ theo cam kết
này,Việt Nam cần đảm bảo tất cả các loài được liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt
nam được liệt kê là các loài được bảo vệ theo luật pháp quốc gia.
Công ước về buôn bán các loài bị đe dọa (www.cites.org)
Công ước này có mục tiêu là đảm bảo việc buôn bán, trao đổi các mẫu vật của các loài động thực
vật hoang dã sẽ không đe dọa đến sự tồn vong của chúng. Việt Nam ký Công ước này từ năm
1994, theo đó Cục Kiểm lâm được ủy quyền là Cơ quan Thẩm quyền Quản lý và Viện Sinh thái và
Tài nguyên Sinh vật và Trung tâm Tài nguyên và Môi trường là các Cơ quan Thẩm quyền Khoa
học của Công ước. Theo Công ước này, Việt Nam cam kết quy định và giám sát việc buôn bán
quốc tế đối với các loài trong các phụ lục CITES, nghĩa là các loài được xác định là đang bị đe dọa
do buôn bán quốc tế. Do tất cả các loài này cần được liệt kê là các loài bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu,
và phần lớn các loài là bị đe dọa ở cấp độ khu vực, việc đưa tất cả các loài bị đe dọa trong Danh
lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ Việt Nam vào luật như các loài được bảo vệ sẽ là một đóng góp đáng kể
cho Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết với CITES.
Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (www.iucn.org)
IUCN được thành lập nhằm mục tiêu gây ảnh hưởng, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức trên
toàn thế giới bảo tồn tính toàn vẹn và đa dạng của thiên nhiên, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên công bằng và bền vững về mặt sinh thái. Việt Nam là một quốc gia thành viên của
IUCN từ năm 1993. Là một thành viên, Chính phủ Việt Nam cần có “một trong các mục tiêu trọng
tâm là thực hiện sứ mạng của IUCN” và, do vậy, có trách nhiệm chấp thuận Danh lục Đỏ IUCN
và lồng ghép các loài liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN vào hệ thống quy chế bảo vệ loài.
Công ước Ramsar về các vùng Đất ngập nước (www.ramsar.org)
Công ước Ramsar cung cấp một khuôn khổ cho các hành động quốc gia và việc hợp tác quốc tế

để bảo tồn và sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước và tài nguyên đất ngập nước. Việt Nam
tham gia Ramsar từ năm 1989 và Cục Bảo vệ Môi trường được chỉ định là Cơ quan Thẩm quyền
quốc gia của Công ước Ramsar. Theo Điều 2 của Công ước, Việt Nam cam kết “đề xuất các vùng
đất ngập nước phù hợp trong lãnh thổ của mình vào Danh sách các Vùng Đất ngập nước có Tầm
Quan trọng Quốc tế đầu tiên là tất cả các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng đối với các
loài chim nước vào bất cứ mùa nào cần được đưa vào danh sách”. Và, theo Điều 3, “thúc đẩy việc
bảo tồn các vùng đất ngập nước và các loài chim nước qua việc thiết lập các khu bảo tồn đất ngập
nước”. Tuân thủ cam kết này, Việt Nam cần đảm bảo tối thiểu là tất cả các khu đáp ứng tiêu chí
Ramsar sẽ được đề cử thành Khu Ramsar và được đưa vào hệ thống các khu bảo vệ ở cấp quốc
gia. Có 27 khu ở Việt Nam đã được BirdLife International xác định là đáp ứng các tiêu chí Ramsar
(BirdLife International 2005) nhưng đến nay mới chỉ có hai khu được công nhận.
Công ước về các loài di cư (www.cms.int)
Công ước về các Loài Di cư có mục tiêu là bảo tồn các loài di cư trên cạn, trên biển và trên không
ở tất cả các vùng phân bố của chúng. Ngoài ra, Việt Nam đang cân nhắc tham gia Công ước này.
6 7
6 7
Nếu là một thành viên, Việt Nam sẽ cam kết “có các biện pháp bảo vệ ngay lập tức đối với các
loài di cư trong Phụ lục I” và “hoàn tất các thỏa thuận đảm bảo bảo tồn và quản lý các loài di cư
trong Phụ lục II”. Các bên tham gia cam kết cấm đánh bắt các loài trong Phụ lục I, đồng thời thực
hiện các biện pháp khác để bảo vệ sinh cảnh và giảm các mối đe dọa. Các loài liên quan đến Việt
Nam được liệt kê trong Phụ chương 2 của báo cáo này. Tuân thủ theo cam kết này, Việt Nam sẽ
phải đảm bảo là ít nhất là toàn bộ các loài được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về các loài di
cư cũng được liệt kê là các loài được bảo vệ theo luật pháp quốc gia.
4. Tổng quan các kinh nghiệm quốc tế về các điều luật quản lý và bảo
tồn các loài bị đe dọa
Ở rất nhiều quốc gia, các văn bản pháp quy về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa hầu như chỉ
giới hạn trong việc cấm hay hạn chế sử dụng các loài cụ thể được liệt kê trong “danh lục bảo vệ”.
Như vậy, hệ thống pháp lý này hầu như chỉ đáp ứng việc ngăn chặn khai thác hay buôn bán các
loài động thực vật cụ thể, và thường là chỉ đối với một số rất ít các loài được xác định. Tuy nhiên,
điều rõ ràng là việc bảo vệ một loài đòi hỏi việc duy trì hoặc phục hồi toàn bộ các điều kiện cần

cho sự tồn tại của loài đó, đặc biệt là sinh cảnh của loài.
Trong một số trường hợp, việc khai thác hoặc buôn bán một loài cụ thể lại không hoặc rất ít quan
trọng đối với việc bảo tồn nó. Do đó, tính hiệu quả của việc liệt kê một danh sách dài các loài dự
định sẽ cấm hoàn toàn việc khai thác hoặc buôn bán còn phải cân nhắc. Tuy nhiên, mọi mối đe
dọa ví dụ như khai thác, dù là nhỏ, đối với các loài bị đe dọa vốn đã phải chịu sức ép nặng nề
cũng cần được giải quyết. Nhất là, ở một thời điểm cụ thể, việc khai thác hoặc buôn bán một loài
tuy chưa nghiêm trọng, các đạo luật cấm như vậy có tác dụng như các biện pháp cảnh báo sớm
đề phòng trường hợp nhu cầu đối với những loài cần quan tâm tăng đột biến. Tất nhiên, các biện
pháp pháp lý nhằm giải quyết các mối đe dọa đối với loài sẽ đạt kết quả tốt nhất với những phân
tích cụ thể, nhưng cho đến lúc đủ năng lực để phân tích, ra quy định, và thực thi hệ thống pháp lý
phức tạp như vậy, thì cấm triệt để việc chiếm hữu và buôn bán các loài bị đe dọa có lẽ vẫn là biện
pháp pháp lý tốt nhất. Về lâu dài, các kế hoạch phục hồi hoặc quản lý loài cần được xây dựng và
sử dụng để xác định các mối đe dọa cụ thể và các sinh cảnh quan trọng đối với các loài bị đe dọa
(de Klemm and Shine 1993). Những nguyên tắc này cũng đã được thừa nhận, ví dụ, trong yêu
cầu của một số nhà tài trợ cho Việt Nam như Ngân hàng Thế giới, theo đó “không hỗ trợ các dự
án mà theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, có những hoạt động chuyển đổi hoặc làm xuống
cấp những diện tích đáng kể các sinh cảnh tự nhiên quan trọng” (WorldBank 2004).
Do mất và xuống cấp sinh cảnh tự nhiên luôn là mối đe dọa đến loài, bảo tồn sinh cảnh cho các
loài bị đe dọa - cho dù chúng có là loài bị cấm khai thác hay không - đang trở thành một biện pháp
pháp lý phổ biến trên toàn cầu thông qua hệ thống các khu bảo vệ tương tự như hệ thống rừng
đặc dụng của Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức bảo vệ sinh cảnh này không chỉ tốn kém mà còn
khó hoặc không khả thi do xung đột về nhu cầu sử dụng đất. Trong các trường hợp này, kiểm soát
sử dụng đất hay áp đặt một một yêu cầu quản lý nào đó có thể là một giải pháp. Tuy nhiên, kinh
nghiệm cho thấy rằng những biện pháp hạn chế như vậy thường không được chấp nhận một cách
tự nguyện do mục tiêu vì một loài bị đe dọa chẳng liên quan nhiều đến người quản lý đất, nhất
là trên đất tư. Do đó, việc hạn chế này cần phải đi cùng với những bồi thường thỏa đáng cho các
bên liên quan (de Klemm and Shine 1993).
8 9
8 9
Một cách tiếp cận tốt hơn là xây dựng các thỏa thuận quản lý mà trong đó, nếu có thể, ràng buộc

những người thừa kế đất. Các thỏa thuận như vậy có thể được bổ trợ bởi khả năng cưỡng chế hay
thu hồi các vùng đất có vấn đề là phương thức cuối cùng nếu người quản lý đất từ chối ký thỏa
thuận hay không tuân thủ các cam kết bảo tồn đưa ra trong thỏa thuận. Tuy nhiên, các điều kiện
trong thỏa thuận cũng cần xác đáng để đảm bảo người quản lý đất coi sự có mặt của một loài bị
đe dọa như một tài sản chứ không phải là một gánh nặng pháp lý (de Klemm and Shine 1993).
Sự thất bại trong việc đáp ứng yêu cầu quản lý sinh cảnh được coi là thiếu sót lớn nhất trong Đạo
luật về Các loài bị đe dọa của Mỹ. Mặc dù đã đưa ra yêu cầu bảo tồn các “sinh cảnh trọng yếu”
cho các loài nguy cấp, nhưng cũng mới đề cập được các sinh cảnh cho một phần ba số loài. Lý do
chính là kinh phí ngân sách nhà nước hạn hẹp dẫn đến không đủ kinh phí phân bổ thêm các loài
mới và cơ quan thực hiện, Cục Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ, không được tin tưởng tuyệt đối
trong việc đánh giá các Sinh cảnh Trọng yếu. Hướng dẫn về Các Sinh cảnh của Cộng đồng châu
Âu, mang ý nghĩa hiệp ước giữa các chính phủ chứ không hẳn là một tiến trình có sự vận động
của cộng đồng, có lẽ thành công hơn thể hiện trong việc liệt kê các loài mà hệ thống các Vùng Bảo
tồn Đặc biệt cần phải thiết lập để bảo vệ các sinh cảnh của chúng (European Community 1992).
Hộp 1: Hướng dẫn về Các Sinh cảnh của Cộng đồng châu Âu, Hướng dẫn số 92/43/EEC về bảo
tồn các sinh cảnh tự nhiên và các hệ động thực vật hoang dã
Mục tiêu chính của Hướng dẫn về Sinh cảnh của EC là thúc đẩy việc duy trì tính đa dạng
sinh học qua việc yêu cầu các quốc gia thành viên phải có các biện pháp để duy trì hoặc khôi
phục các sinh cảnh tự nhiên và các loài hoang dã trong điều kiện bảo tồn thích hợp, đưa ra
những biện pháp bảo vệ mạnh mẽ đối với các sinh cảnh và các loài quan trọng của châu Âu.
Hướng dẫn này yêu cầu các quốc gia thành viên cần đưa ra một loạt các biện pháp bảo vệ
đối với các loài có tên trong các Phụ lục của Hướng dẫn và có các chương trình giám sát đối
với các loài và sinh cảnh. Có 189 sinh cảnh được liệt kê trong Phụ lục I và 788 loài được liệt
kê trong Phụ lục II của Hướng dẫn sẽ được bảo vệ bằng một mạng lưới các khu bảo vệ. Mỗi
quốc gia thành viên được yêu cầu xây dựng và đề xuất một danh sách các khu để đánh giá
nhằm thiết lập một mạng lưới các Khu Quan trọng (SCI) của Cộng đồng châu Âu. Nếu được
chấp thuận, các khu này sẽ được các quốc gia thành viên công nhận là Các Vùng Bảo tồn Đặc
biệt (SAC) và cùng với các Vùng Bảo vệ Đặc biệt (SPA) được xác đinh theo Hướng dẫn về
Bảo tồn Chim của EC hình thành một mạng lưới các khu bảo vệ được gọi tên là Natura 2000.
Quan trọng hơn, Hướng dẫn về Sinh cảnh lần đầu tiên đã giới thiệu nguyên tắc cảnh báo sớm

đối với các khu bảo vệ ở châu Âu; đó là các công trình dự án sẽ chỉ được cấp phép nếu nó được
khẳng định là không gây ra các tác động tiêu cực lên tính toàn vẹn của một Khu Quan trọng.
Các chương trình dự án có thể vẫn được cho phép nếu không thể có một giải pháp thay thế nào
khác, và có những lý do cấp thiết quan trọng hơn mối quan tâm của công chúng. Trong những
trường hợp như vậy, cần có các biện pháp đền bù để đảm bảo tính toàn vẹn của toàn bộ mạng
lưới các Vùng. Và dĩ nhiên theo điều chỉnh trong Hướng dẫn về Bảo tồn Chim của EC, các biện
pháp này cũng được áp dụng với các SPA.
Nguồn: Hội đồng Bảo tồn Thiên nhiên
8 9
8 9
5. Các văn bản pháp quy ở Việt Nam liên quan đến các loài bị đe
dọa
5.1 Các văn bản hiện có về các loài bị đe dọa
Văn bản pháp lý đầu tiên về các loài bị đe dọa ở Việt Nam có thể kể đến là Chỉ thị 134-TTg ngày
21/06/1960 của Thủ tướng chính phủ về cấm săn bắn Voi. Sau đó không lâu là Nghị định 39-CP
ngày 05/04/1963 ban hành điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng. Nghị định này không chỉ
đưa ra một danh sách các loài cần bảo vệ mà còn quy định về phương pháp và mùa săn bắn. Danh
lục các loài “quý hiếm” được bảo vệ dần được hoàn thiện thêm nhất là trong thời gian gần đây
qua Nghị định 18-HDBT năm 1992, được điều chỉnh sau đó mười năm bằng Nghị định 48/2002/
NĐ-CP. Mới đây nhất, danh lục các loài cần bảo vệ đã được điều chỉnh theo Nghị định 32/2006/
NĐ-CP ngày 30/03/2006. Tất cả các Nghị định nói trên đều chia các loài vào hai phân hạng chính,
theo đó nghiêm cấm khai thác, sử dụng các loài trong Phụ lục I và hạn chế khai thác, sử dụng các
loài trong Phụ lục II. Danh sách đầy đủ được đưa vào Phụ chương 1 của báo cáo này. Tuy tính
thực thi của Phụ lục I còn tương đối hạn chế, các vi phạm liên quan đến các loài trong các Phụ lục
cũng đã được đề cập tương ứng trong Bộ Luật Hình sự.
Yêu cầu về bảo tồn sinh cảnh cho các loài bị đe dọa cũng được đề cập trong các Nghị định:
Nghị định 32/2006/NĐ-CP quy định:
Chương I. Những quy định chung
Điều 3: Chính sách của Nhà nước về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm.

1. “Nhà nước đầu tư để quản lý, bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
tại các khu rừng đặc dụng, các hoạt động cứu hộ đối với thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm bị xử lý tịch thu.”
Chương II. Quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
Điều 5: Bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
1. “Những khu rừng có thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phân bố tập
trung thì được đưa vào xem xét thành lập khu rừng đặc dụng theo quy định của pháp
luật”.
2. “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, xây dựng công trình, điều
tra, thăm dò, nghiên cứu, tham quan, du lịch và các hoạt động khác trong khu rừng có
thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải thực hiện các quy định tại Nghị
định này và pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, pháp luật về bảo vệ môi trường”.
Điều 12: Quyền, nghĩa vụ của chủ rừng:
Chủ rừng có các quyền và nghĩa vụ đối với thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm như sau:
3”. Xây dựng và thực hiện phương án quản lý, bảo vệ và phát triển thực vật rừng, động
vật rừng nguy cấp, quý, hiếm trên diện tích rừng, đất rừng được giao”.
4. “Theo dõi và báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tình trạng thực vật rừng,
động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm trên diện tích rừng, đất rừng được Nhà nước giao,
cho thuê”.
10 11
10 11
5. “Xây dựng nội quy, lập bảng niêm yết bảo vệ đối với từng khu rừng có các loài thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm”.
Nhìn chung, việc bảo tồn các loài bị đe dọa đã được đề cập đến trong hàng loạt các luật và các văn
bản pháp quy quan trọng như:
Nghị định 18-HĐBT ngày 17/01/1992 ban hành danh sách là loài động thực vật rừng quý hiếm
và quy chế quản lý và bảo vệ chúng
(đã được thay thế bằng Nghị định 48/2002/NĐ-CP vào năm 2002)
Chỉ thị 359/TTg ngày 29/05/1996 về các biện pháp cấp bánh để bảo vệ và phát triển các loài động

vật hoang dã.
Chỉ thị này đã đề xuất các biện pháp như kiểm soát săn băn, vận chuyển và kinh doanh
các loài động vật hoang dã quý hiếm, cấm các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng kinh doanh
các món ăn hay sản phẩm từ động vật hoang dã, kiểm soát sử dụng súng và các phương
tiện săn bắn khác, và cổ vũ các hoạt động thử nghiệm nhân giống, gây nuôi, phát triển
các loài động vật hoang dã bao gồm cả động vật quý hiếm, rà soát và cải thiện hệ thống
pháp lý về quản lý và bảo vệ động vật hoang dã, và nâng cao nhận thức cho nhân dân về
bảo vệ các loài quý hiểm.
Luật hình sự (2000)
Chương XVII. Các tội phạm về môi trường
Điều 188: Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản
1) “Người nào vi phạm các quy định về bảo vệ nguồn lợi thủy sản thuộc một trong các
trường hợp sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
c) Khai thác các loài thuỷ sản quý hiếm bị cấm theo quy định của Chính phủ;
d) Phá hoại nơi cư ngụ của các loài thuỷ sản quý hiếm được bảo vệ theo quy định của
Chính phủ;”
Điều 189: Tội huỷ hoại rừng
1) “Người nào đốt, phá rừng trái phép rừng hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm:
d) Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ;”
Điều 190: Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm
1) “Người nào săn bắt, giết, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm
bị cấm theo quy định của Chính phủ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép sản phẩm của

loại động vật đó, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
2) “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
10 11
10 11
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Chỉ thị 12/2003/CT-TTg ngày 16/05/2003 về việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và
phát triển rừng)
1)“Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo hiệp đồng các đơn vị thuộc lực lượng Quân đội,
Công an, Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm tiến hành ngay các công việc sau:
e) Kiểm tra, xử lý, tho hồi giấy phép kinh doanh của các cửa hàng kinh doanh, chế biến
gỗ trái phép và các cửa hàng ăn uống đặc sản chế biến từ thịt cacs loại động vật hoang
dã, quý hiếm.”
Nghị định 48/2002/NĐ-CP ngày 22/04/2002 về sửa đổi bổ sung danh lục thực vật, động vật hoang
dã quý hiếm ban hành theo Nghị định số 18-HĐBT
(đã được thay thế bằng Nghị định 32/2006/NĐ-CP vào năm 2006)
Luật Thủy sản (2003)
Chương II. Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
Ðiều 7. Bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản
3) “Tổ chức, cá nhân khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các công trình có liên quan
đến môi trường sống, di cư, sinh sản của các loài thủy sản phải thực hiện việc đánh giá
tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.”
4) “Tổ chức, cá nhân khai thác thủy sản bằng đặt đăng, đáy hoặc bằng phương pháp
ngăn, chắn khác ở các sông, hồ, đầm, phá phải dành hành lang cho các loài thủy sản di
chuyển theo quy định của Ủy ban nhân dân địa phương.”
Ðiều 8. Bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản
1) “Nhà nước có chính sách bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là các loài thủy

sản đang có nguy cơ tuyệt chủng, các loài quý hiếm, các loài có giá trị kinh tế cao và các
loài có ý nghĩa khoa học ”
3) “Bộ Thủy sản định kỳ công bố:
a) Danh mục các loài thủy sản đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam và các loài thủy sản
khác bị cấm khai thác; danh mục các loài thủy sản bị cấm khai thác có thời hạn và thời
gian cấm khai thác;”
Ðiều 9. Quy hoạch và quản lý khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển
1) “Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học điển hình theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, các
khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển được phân loại thành vườn quốc gia;
khu bảo tồn loài, sinh cảnh; khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh.”
2) “Chính phủ ban hành tiêu chuẩn để phân loại và công bố các khu bảo tồn; quy hoạch,
xây dựng và phân cấp quản lý các khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển; ban
hành quy chế quản lý khu bảo tồn có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy chế quản lý khu bảo tồn được phân cấp cho địa
phương quản lý theo hướng dẫn của Bộ Thủy sản.”
3) “Nhà nước đầu tư để bảo tồn quỹ gen và đa dạng sinh học thủy sản; có chính sách
12 13
12 13
khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng
và tham gia quản lý các khu bảo tồn; có chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tái
định cư, bảo đảm lợi ích cho dân cư trong khu bảo tồn.”
Nghị định 109/2003/NĐ-CP ngày 23/09/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
Điều 11. Trách nhiệm lập quy hoạch và thẩm quyền phê duyệt
1) “Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì lập quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững
các vùng đất ngập nước ” (và)
Điều 13. Thẩm quyền quyết định thành lập khu bảo tồn đất ngập nước
1) trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước ”
Luật bảo vệ và phát triển rừng (2004)
Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm
2) “Săn, bắn, bắt, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép.”

9) “Vận chuyển, chế biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng trữ, xuất khẩu,
nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng trái với quy định của pháp luật.”
Điều 41. Bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng
3) “Những loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nguồn gen thực vật
rừng, động vật rừng quý, hiếm phải được quản lý, bảo vệ theo chế độ đặc biệt.
Chính phủ quy định Chế độ quản lý, bảo vệ những loài thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm và Danh mục những loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc khai thác thực vật rừng, săn bắt
động vật rừng ”
(Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 1991 còn có một điều khoản trong Điều 3 là “
trong trường hợp bảo vệ, phát triển được loài quý hiếm, chủ rừng được hưởng chính
sách ưu đãi”)
Nghị định 139/2004/NĐ-CP ngày 25/06/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản
lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
Điều 34. Xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
1) “Đối với tang vật là vật phẩm tươi sống, động vật hoang dã bị yếu, bị thương không
thuộc nhóm IB, hoặc lâm sản khác còn tươi không thuộc nhóm IA lập biên bản và tổ
chức bán Tiền thu được gửi vào tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước ”
2. “Đối với lâm sản, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, cơ quan kiểm lâm có
trách nhiệm bảo quản, không để mất mát, hư hỏng và xử lý như sau:
a. Đối với động vật hoang dã bị thương, yếu có khả năng phục hồi thì giao trung tâm cứu
hộ để chăm sóc phục hồi trước khi thả về môi trường thiên nhiên; đối với động vật hoang
dã khoẻ mạnh thì tổ chức thả về môi trường thiên nhiên phù hợp sinh thái của loài.”
(Nghị định này cần tham chiếu đến Nghị định 32/2006/NĐ-CP)
Luật bảo vệ môi trường (2005)
Điều 7. Những hành vi bị nghiêm cấm
3) “Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động vật hoang dã quý
hiếm thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.”
12 13

12 13
Điều 30. Bảo vệ đa dạng sinh học
3) “Các loài động vật, thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng phải được bảo vệ theo
các quy định sau đây:
a) Lập danh sách và phân nhóm để quản lý theo mức độ quý hiếm, bị đe doạ tuyệt
chủng;
b) Xây dựng kế hoạch bảo vệ và áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc săn bắt, khai thác,
kinh doanh, sử dụng;
c) Thực hiện chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ theo chế độ đặc biệt phù hợp
với từng loài; phát triển các trung tâm cứu hộ động vật hoang dã.”
Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/03/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm
Nghị định này là tài liệu pháp lý mới nhất về bảo vệ động thực vật rừng thay thế cho
các Nghị định 18-HĐBT and 48/NĐ-CP. Nghị định này ban hành Danh mục thực vật
rừng, động vật rừng “nguy cấp, quý, hiếm” cần bảo vệ (xem danh mục đầy đủ trong Phụ
chương 1) như sau:
Nhóm I: Nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài thực
vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về
kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Nhóm I A, gồm các loài thực vật rừng: 15 loài và dưới loài
Nhóm I B, gồm các loài động vật rừng: 62 loài và dưới loài
Nhóm II: Hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài thực vật
rừng, động vật rừng có giá trị về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số
lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.
Nhóm II A, gồm các loài thực vật rừng: 37 loài và dưới loài
Nhóm II B, gồm các loài động vật rừng: 89 loài và dưới loài
Nghị định này cũng quy định hàng loạt các hoạt động để quản lý và bảo vệ các loài thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm bao gồm giám sát, bảo vệ, khai thác, vận
chuyển, gây nuôi, chế biến và kinh doanh các sản phẩm từ động vật hoang dã. Nghị định
cũng phác thảo các chế độ phạt đối với việc vi phạm các quy chế này.

5.2 Những thiếu hụt và bất hợp lý trong hệ thống pháp lý hiện tại về các loài bị
đe dọa
Về lĩnh vực này, các thiếu sót chính trong các văn bản pháp quy hiện tại của Việt Nam là:
Các loài được liệt kê là cần bảo vệ
Các nghị định 18-HĐBT năm 1992, 48/2002/NĐ-CP năm 2002, và 32/2006/NĐ-CP năm 2006, là
một bước quan trọng trong việc bảo vệ các loài bị đe dọa tuy nhiên chúng vẫn chưa đủ cả về số
lượng loài cũng như nhóm loài. Nghị định gần đây nhất mới liệt kê hơn 200 loài còn ít hơn nhiều
so với số loài bị đe dọa và do đó cần được bảo vệ, sự không cân bằng còn thể hiện rõ giữa các
nhóm sinh vật (Bảng 2, Phụ chương 2). Theo quy chế gần đây nhất, có 58% số loài thú bị đe dọa
ở Việt Nam được xác định là các loài cần bảo vệ ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên con số này
ở các nhóm thực vật, bò sát, lưỡng cư và cá là nhỏ hơn 10%. Hiện tại, Danh lục Đỏ IUCN cũng
14 15
14 15
như sách Đỏ Việt Nam mới chỉ được coi là các tài liệu có tính khoa học chứ chưa có tính pháp lý.
Việc không có những liên hệ có tính nền tảng giữa các danh lục đỏ và các danh lục các loài được
bảo vệ (loài động thực vật quý hiếm và bị đe dọa) là vấn đề lớn nhất mà Việt Nam cần phải điều
chỉnh để cung cấp đủ tính pháp lý cho việc bảo vệ các loài bị đe dọa của quốc gia. Tuy có một số
ít khác biệt trong mục tiêu xây dựng danh lục các loài bị đe dọa và danh lục các loài được bảo vệ,
nhưng mức độ trùng lặp giữa các danh lục này là rất lớn và không nên xây dựng chúng một cách
tách biệt như tại Việt Nam. Do vậy cần phải có các biện pháp để các danh lục loài được bảo vệ
phù hợp với danh sách loài bị đe dọa (như Việt Nam đã cam kết với vai trò là một bên tham gia
Công ước Đa dạng Sinh học).
Bảng 2: Số các loài bị đe dọa toàn cầu* được bảo vệ ở Việt Nam
Nghị định 18-HĐBT
1992
48/2002/
NĐ-CP
32/2006/
NĐ-CP
Phụ lục I II I II I II Tổng số

Thực vật 4 9 2 10 3 11 14 (9%)
Thú 12 7 10 3 20 6 26 (58%)
Chim 2 0 3 3

6 6 12 (32%)
Bò sát 0 1 0 4 0 5 5 (17%)
Lưỡng cư 1 0 1 0 0 1 1 (7%)
Cá 0 0 1 0 0 0 0
Tổng số 19 17 17 20 29 29 58 (19%)
*dựa trên số lượng Danh lục Đỏ IUCN 2006

trong đó các loài Garrulax konkakinhensis và G. ngoclinhensis được liệt vào nhóm ‘Garrulax spp.’
Một vấn đề khác liên quan đến danh lục các loài bị đe dọa hiện có (Bộ KHCNMT 1996, 2000) và
danh lục các loài cần được bảo trong các tài liệu pháp quy của Việt Nam không thống nhất về chính
tả, phân loại và danh pháp. Điều này không chỉ gây ra sự thiếu nhất quán, làm khó khăn trong việc
sử dụng các danh lục này mà còn làm chúng khó có thể so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế khác.
Hình phạt cho tội danh vi phạm các điều luật liên quan đến đa dạng sinh học
Hiện tại, các tội danh về vi phạm các điều luật liên quan đến đa dạng sinh học bị xử phạt từ 5 đến
10 triệu đồng Việt Nam. Việc xử phạt như vậy sẽ là biện pháp ngăn cản tốt, ví dụ, nếu áp dụng
cho tội danh khai thác một cá thể của một loài được bảo vệ. Tuy nhiên, không tính đến thực tế là
hầu hết các tội danh liên quan đến đa dạng sinh học không được xử lý triệt để, thì hệ thống hình
phạt này lại quá nhẹ nếu áp dụng với những vi phạm nghiêm trọng ví dụ như khai thác, vận
chuyển, kinh doanh cả kiện lớn hay cả xe tải chất đầy các loài được bảo vệ. Thậm chí là nếu hình
phạt nặng, nhưng không được áp dụng thường xuyên, thì giá trị của tiền phạt cũng thấp hơn
nhiều so với giá trị của số động thực vật được đem ra buôn bán và do vậy nó chẳng khác gì một
khoản thuế nhỏ đánh vào việc khai thác trái phép chứ chưa phải là một biện pháp ngăn chặn tốt.
Để chữa khiếm khuyết này, hình phạt cần phải áp dụng lên từng cá thể động vật hay thực vật, hay
mức phạt tối đa cần tăng đáng kể và được áp dụng thường xuyên trong xử lý vi phạm.
Bảo vệ sinh cảnh
Luật hình sự của Việt Nam đã xác định tội danh hủy hoại sinh cảnh của các loài được liệt kê trong

danh sách bảo vệ của Nhà nước (trong đó, như đã phân tích ở trên, chính là các loài bị đe dọa).
Việc quản lý và bảo vệ các sinh cảnh của các loài bị đe dọa cũng được đề cập trong Nghị định
14 15
14 15
32/2006/NĐ-CP, và phần nào trong quy chế rừng đặc dụng theo Quyết định 08/2001/QĐ-TTg. Tuy
nhiên, một phần lớn các quần thể của rất nhiều loài bị đe dọa ở Việt Nam phân bố bên ngoài hệ
thống rừng đặc dụng (Bộ TNMT et al. 2005) trong khi Chỉ thị 38/2005/CT-TTg ngày 05/12/05 của
Thủ tướng Chính phủ lại khuyến cáo không mở rộng thêm diện tích các khu rừng đặc dụng. Các
điều khoản pháp lý hiện tại vể bảo vệ sinh cảnh bên ngoài hệ thống rừng đặc dụng chủ yếu là
đưa ra quy chế chứ không có biện pháp khuyến khích cho các chủ sử dụng đất, cho dù điều này
đã được nêu trong luật Bảo vệ và Phát triển Rừng 1991 đã hết hiệu lực ở Điều 3: “trong trường
hợp bảo vệ, phát triển được loài quý, hiếm, chủ rừng được hưởng chính sách ưu đãi”. Việc đưa
lại những điều khoản như vậy vào các văn bản pháp quy hiện hành và thực hiện chúng sẽ là một
bước tiến để bảo tồn các loài bị đe dọa bên ngoài hệ thống rừng đặc dụng.
Các sinh cảnh thủy sinh
Hầu hết các văn bản pháp quy hiện hành mới chỉ đề cập dến các loài động vật và thực vật “rừng”.
Mặc dù các sinh cảnh đất ngập nước ở Việt Nam đang bị đe dọa nặng nề (Cục BVMT 2005), chỉ có
rất ít loài động vật thủy sinh (hầu hết các loài động vật biển) được liệt kê trong các danh lục loài
bảo vệ hiện có. Quan trọng hơn, việc phân công trách nhiệm quản lý đất ngập nước ở Việt Nam
hiện chưa rõ ràng và đôi khi còn chồng chéo. Một vài bộ ngành hiện đang chia xẻ trách nhiệm
đối với các vùng đất ngập nước trong đó có Bộ NNPTNT, Bộ TNMT và Bộ Thủy sản. Ví dụ, các
khu bảo vệ đất ngập nước chính thức thì được coi là rừng đặc dụng và trực thuộc sự quản lý của
Bộ NNPTNT, trong khi một số tài nguyên đất ngập nước, ví dụ như nguồn lợi về cá, thì thuộc sự
quản lý của Bộ Thủy sản. Như Cục BVMT (2005) đã nêu “việc quản lý đất ngập nước ở Việt Nam
vẫn còn mang tính đơn ngành, chồng chéo, thiếu phối hợp, thiếu tập trung, chức năng quản lý đất
ngập nước chưa được phân định rõ ràng”. Do vậy không thể giải quyết các vấn đề mà việc bảo
tồn đất ngập nước của Việt Nam đang phải đối mặt một cách hiệu quả. Đã có những đề xuất danh
sách 79 khu bảo vệ đất ngập nước (Bộ KHCNMT và Cục MT 2000) và 15 khu bảo tồn biển (Bộ
Thủy sản 2004). Một số trong số này đã được đưa vào hệ thống rừng đặc dụng của quốc gia (như
các Vườn Quốc gia Cát Tiên, Mũi Cà Mau, Tràm Chim, U Minh Thượng và Xuân Thủy [đất ngập

nước nội địa và ven biển], và Côn Đảo, Cát Bà và Phú Quốc [các vùng đảo biển]). Đáng chú ý là
Luật Thủy sản yêu cầu bảo vệ sinh cảnh của các loài thủy sinh tại các khu bảo tồn vùng nước nội
địa, khu bảo tồn biển theo ‘quy chế quản lý khu bảo tồn’. Tuy nhiên, các quy chế quản lý cho hệ
thống khu bảo tồn này chưa được xây dựng. Đến này, các đề xuất thiết lập các hệ thống khu bảo
tồn đất ngập nước và khu bảo tồn biển cấp quốc gia chưa thực hiện được do thiếu các cơ sở pháp
lý đủ mạnh để thực hiện. Tuy nhiên, cũng đã có một số khu bảo tồn biển thí điểm đã được thiết
lập, như Hòn Mun và Cù Lao Chàm, và một số khu khác đang được lên kế hoạch thành lập.
Quyền sở hữu tài nguyên thiên nhiên
Điều 5 của Luật Đất đai (2003) quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu.” Điều luật này cũng đồng thời xác định các quyền và trách nhiệm về cấp phép sử
dụng đất, thuế v.v Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam (1960, sửa đổi các năm 1980 và 1992)
cũng đã tuyên bố quyền sở hữu toàn dân đối với tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tuy
nhiên không liệt kê đến chi tiết các loại tài nguyên thiên nhiên. Văn bản pháp lý có đề cập đến
sở hữu tài nguyên loại thiên nhiên cụ thể như Luật Thủy sản (2003), Điều 3 quy định “Nguồn lợi
thủy sản là tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”. Tuy nhiên, rõ
ràng cần có những quy định pháp lý rõ ràng hơn để chi tiết hóa quyền sở hữu này.
16 17
16 17
6. Đề xuất những điều khoản về quản lý và bảo tồn các loài bị đe dọa
có thể đưa vào Luật Đa dạng Sinh học
Liên quan đến các loài bị đe dọa, Luật Đa dạng Sinh học nên đưa vào các điều khoản quan trọng
sau đây nhằm giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế và giải quyết được những thiếu hụt
và sự không đồng bộ trong hệ thống pháp quy hiện hành:
(i) Tuân thủ nghiêm ngặt và nhất quán một chuẩn về phân loại học và danh pháp khoa
học;
(ii) Tất cả các loài của Việt Nam hiện được liệt kê trong Danh lục Đỏ IUCN và Sách Đỏ
Việt Nam cần được đưa vào danh sách các loài được bảo vệ (loài quý hiếm) bởi luật
pháp quốc gia
6
. Các loài của Việt Nam được IUCN xếp vào phân hạng gần bị đe dọa

cũng cần được cân nhắc để đưa vào danh sách bảo vệ.
(iii) Đưa ra điều khoản để lên kế hoạch phát triển và phục hồi các loài bị đe dọa nặng nề
nhất ở Việt Nam (có lẽ đầu tiên là các loài ở hạng Cực kỳ Nguy cấp), với mục tiêu là
trong tương lai, văn bản pháp lý này có thể giúp giải quyết các yêu cầu quản lý cụ thể
đối với các loài.
(iv) Sách Đỏ Việt Nam cần được thừa nhận về mặt pháp lý và chỉnh sửa để tuân thủ chặt
chẽ hơn các hướng dẫn của IUCN. Ít nhất là phải đánh giá được tất cả các loài của Việt
Nam được liệt kế là bị đe dọa hoặc gần bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu
7
;
(v) Các điều luật trong các văn bản pháp lý hiện tại quy định việc bảo vệ các sinh cảnh
trên cạn trọng yếu đối với các loài quý hiếm bên ngoài các khu rừng đặc dụng cần
được khởi động bằng các biện pháp khuyến khích như chính sách ưu đãi như đã đề
cập trong Điều 3 của Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng 1991;
(vi) Công nhận một hoặc một vài cơ quan đầu mối quốc gia chịu trách nhiệm về bảo tồn
các vùng biển và nước nội địa. Có thể là chỉ cần làm rõ các phân công trách nhiệm hiện
tại và tháo gỡ các điểm chồng chéo. Cơ quan này cũng cần có một những văn bản pháp
quy mới làm cơ sở cho các khu bảo tồn biển và bảo tồn nước nội địa.
(vii) Tất cả các khu đáp ứng các tiêu chí Ramsar (các tiêu chí 2, 5, 6 và 9) cần được đề xuất
để công nhận là khu Ramsar và cần được đưa vào hệ thống các khu bảo vệ của quốc
gia;
(viii) Làm rõ hơn nữa về mặt pháp lý về quyền sở hữu nhà nước đối với tài nguyên thiên
nhiên do nó liên quan đến đa dạng sinh học.
(ix) Củng cố việc thực hiện và khung hình phạt. Hình phạt hiện thời cần được áp dụng cho
từng cá thể động thực vật, hoặc hình phạt tối đa cần tăng đáng kể và áp dụng thường
xuyên hơn.
6
Chi tiết từng loài cần được đưa vào danh sách các loài được bảo vệ được trình bày ở Phụ chương 1.
7
So sánh giữa các loài được trình bày trong Phụ chương 1.

16 17
16 17
7. Tổng quan về tình trạng các loài ngoại lai ở Việt Nam
7.1 Các loài ngoại lai ở Việt Nam
Loài ngoại lai trong tài liệu này sẽ chỉ đề cập đến các loài có nguồn gốc bên ngoài Việt Nam đã
xâm hại hoặc có tiềm năng xâm hại. Nhiều loài ngoại lai nhập nội rất phổ biến trong nông nghiệp
và làm vườn, nhưng chưa chắc đã tạo ra mối đe dọa đáng kể nào đối với môi trường của Việt
Nam. Ngoài các tác động đến môi trường Việt Nam, các loài ngoại lai còn gây ra những tác động
nghiêm trọng về mặt kinh tế. Trên toàn cầu, tổng thiệt hại cho nông nghiệp do các loài ngoại lai
xâm hại gây ra ước tính từ 55 đến 248 tỷ USD hàng năm (Bright 1999). Ở Việt Nam, các loài ngoại
lai xâm hại cũng ảnh hưởng mạnh đến các hệ thống nước ngọt và nông nghiệp gây ra những thiệt
hại nặng nề về kinh tế. Đơn cử, Ốc bươu vàng, một loài gốc Nam Mỹ được du nhập vào Việt Nam
cuối những năm 1980 đã trở thành một trong những loài gây hại nguy hiểm nhất đối với canh
tác lúa và làm thất thoát sản lượng lúa đến hàng triệu USD hàng năm (Bộ TNMT, Ngân hàng Thế
giới và Sida 2005).
Các loài sinh vật ngoại lai xâm hại hoàn toàn không được để ý đến tại Việt Nam cho đến tận nửa
đầu của thập kỷ 1990, khi dịch Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata bùng phát ở Đồng bằng sông
Cửu Long và sau đó là Đồng bằng Bắc Bộ. Sau đó, các loài ngoại lai xâm hại mới từng bước được
nhìn nhận như một vấn đề thực sự đối với Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh vật sinh
vật ngoại lai xâm hại đến nay rất rải rác và chưa đầy đủ. Những nghiên cứu đáng kể nhất có thể
liệt kê là về Mai dương Mimosa pigra và một số thực vật ngoại lai xâm hại khác ở Đồng bằng sông
Cửu Long (Trần Triết et al. 2001, 2004, Trần Triết 2005), về Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata (Cục
Bảo vệ Thực vật 2000), và một số công trình về động vật thủy sinh nhập nội chủ yếu là về các loài
cá (Phạm Anh Tuấn 2002, Lê Khiết Bình 2005).
Về rà soát tình trạng của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại ở Việt Nam có thể kể đến hai nghiên
cứu. Đầu tiên là một hoạt động nhỏ của IUCN (Nguyễn Công Minh 2005) về các loài trên cạn.
Nghiên cứu này đã sử dụng tiếp cận ma trận để phân tích 23 loài ngoại lai gây ra các đe dọa đối
với tính đa dạng thực vật (Phụ chương 3). Đa số trong số này là các loài thực vật, điều đó phản
ảnh các nghiên cứu tại Việt Nam đã tập trung vào thực vật nhiều hơn so với các nhóm sinh vật
khác. Công trình thứ hai là một đề tài cấp Nhà nước do Bộ Thủy sản chủ trì (Lê Khiết Bình 2005)

đã đưa ra danh lục 41 loài thủy sinh nhập nội ở Việt Nam (Phụ chương 4). Trong số này chỉ có
chín loài được xác định là hoàn toàn không có hại theo hệ thống phân loại khả năng xâm hại (Phụ
chương 5). Ở Việt Nam hiện chỉ có thông tin về một số loài sinh vật ngoại lai xâm hại gây ra hậu
quả nặng nề nhất, hay được nghiên cứu kỹ nhất. Tất cả các loài này đề được liệt kê trong danh
sách “100 loài sinh vật ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất trên thế giới” (ISSG 2001). Hiện tại, các
loài sinh vật ngoại lai xâm hại chưa có vẻ xuất hiện với số lượng lớn, bùng phát trên diện rộng và
gây hại nghiêm trọng như chúng đã gây ra ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc đảo. Tuy nhiên, thực
tế là hầu hết các loài xâm hại, hoặc có tiềm năng xâm hại còn chưa được xác định hoặc nghiên cứu
ở Việt Nam. Nếu không có những nghiên cứu đầy đủ và các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn,
những ảnh hưởng nghiêm trọng có thể sẽ đến trong tương lai.
18 19
18 19
Mai dương Mimosa pigra
Hầu hết các nghiên cứu đến nay đều thống nhất là Mai dương Mimosa pigra là sinh vật ngoại
lai gây hại lớn nhất ở Việt Nam (Dương Minh Tú và Phạm Đinh Việt Hồng 2003, Nguyễn Công
Minh 2005). Loài này đã được nghiên cứu khá kỹ ở Việt Nam (Storrs et al. 2001, Trần Triết et al.
2004, Trần Triết 2000, 2005). Chúng phân bố ở hầu hết các sinh cảnh tự nhiên và sinh cảnh nông
nghiệp trên nội địa, các vùng nước ngọt và vùng ven biển, và chủ yếu là ở các khu vực gần nước
ngọt. Đây là loài gốc Nhiệt đới châu Mỹ và được du nhập vào châu Á vào cuối thế kỷ XIX. Đầu
tiên chúng phát tán chậm và lần đầu được ghi nhận ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam
vào năm 1979 (tại huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An; Trần Triết et al. 2004), nhưng đến nay đã xuất
hiện khắp trong cả nước. Loài này được xác định là cỏ dại nguy hiểm tại Thái Lan vào đầu những
năm 1980 (Napompeth 1983; in Trần Triết 2005) và mới trở nên một loài gây hại nguy hiểm ở vùng
hạ Mê Kông trong thời gian gần đây. Loài này rất phổ biến ở các vùng đất sở hữu chung, như
các khu bảo vệ, dọc đường, ven kênh rạch, sông suối, nhưng không phát triển mạnh được ở các
vùng đất do tư nhân sở hữu, có thể là do chủ sử dụng đất kiểm soát chặt (Trần Triết 2005). Loài
này đã trở thành một loài gây hại nghiêm trọng (xem Hộp 2) ở các vùng đất ngập nước như các
Vườn Quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên và Yôk Đôn, ở hồ Biển Lạc, và các hồ chứa Trị An và Đồng
Mô-Ngải Sơn v.v
Hộp 2: Nghiên cứu về tác động của Mimosa pigra lên tính đa dạng sinh học của VQG Tràm

Chim, tỉnh Đồng Tháp
Tràm Chim, một Vườn Quốc gia Đất ngập nước có diện tích 7.600 ha ở phía đông bắc của Đồng
bằng sông Cửu Long cách sông tiền, nhánh chính của sông Mê Kông khoảng 20 km, và là nơi có
hàng loạt các sinh cảnh đồng cỏ ngập nước theo mùa, đầm lầy có rừng Tràm Melaleuca, các đầm
lầy ngập nước thường xuyên và các nền phù sa cổ. Các vùng đất ngập nước của Tràm Chim
là nơi chứa đựng tính đa dạng sinh học nước ngọt rất cao đặc trưng cho Đồng bằng sông Cửu
Long và rất nổi tiếng là nơi phân bố trong mùa khô của một quần thể lớn của phân loài Sếu cổ
trụi phương đông (Grus antigone sharpii). Tuy nhiên, Tràm Chim hiện đang bị nhiễm Mai dương
M. pigra rất nặng gây ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với tính đa dạng sinh học đất ngập
nước của vườn.
M. pigra lần đầu được ghi nhận ở Tràm Chim trong những năm 1984-1985. Đến tháng Năm năm
2000, diện tích bị xâm lấn đã lên đến 490 ha, và tăng đến 1.846 ha vào tháng Năm năm 2002
(Trần Triết et al. 2004). Tiếp theo đó, từ 2000 đến 2002, diện tích bị xâm lấn tăng gấp đôi mỗi
năm. Các vùng đồng cỏ ngập nước theo mùa của Tràm Chim bị xâm lấn nặng nề nhất khi mai
dương phát tán theo các bờ kênh rạch và sau đó xâm lấn vào đồng cỏ. M. pigra còn được phát
hiện cả dưới tán rừng Tràm trong đầm lầy, tuy nhiên ở mật độ thưa hơn. Các diện tích M. pigra
dày đặc hiện chiếm lĩnh hầu hết các vùng đồng cỏ ngập nông ở vùng lõi của Tràm Chim. Diện
tích đồng cỏ còn lại ở Tiểu khu A1 - diện tích đất ngập nước rộng nhất ở vùng lõi của Tràm
Chim - hiện đang bị đe dọa nặng nề bởi sự xâm lấn, nhất là từ khi các khi một dòng kênh mới
được xây dựng xuyên qua vùng lõi với mục đích phòng chống cháy rừng vào năm 2003.
18 19
18 19
M. pigra ở Tràm Chim có sức chịu lũ rất mạnh; chúng thậm chí ra hoa kết quả cả khu hầu hết
thân cây đã ngập trong nước lũ. Quỹ hạt ở các bờ đất ở Tràm Chim có khoảng 300 hạt/m² với
khoảng 75% số hạt có khả năng mọc mầm (Trần Triết et al. 2004).
Mối đe dọa lớn nhất mà M. pigra gây ra cho các vùng đất ngập nước ở Vườn Quốc gia Tràm
Chim là do khả năng xâm lấn nhanh và chiếm lĩnh thay thế dần các thảm thực vật tự nhiên. Tiếp
đó, việc mất thảm thực vật tự nhiên gây ra các tác động tiêu cực đến các quần thể động vật tại
chỗ, đáng chú ý nhất là đối với khu hệ chim. Điều này càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng do
các vùng đồng cỏ ở Tràm Chim là nơi sống của những loài chim bị đe dọa toàn cầu trong đó có

Sếu cổ trụ và Ô tác Houbaropsis bengalensis. Nhiều vùng trảng cỏ năng Eleocharis ở Tràm Chim là
vùng kiếm ăn chính của Sếu cổ trụi nay đã bị xâm lấn bởi M. pigra với mật độ dày đặc và không
còn thấy Sếu nữa. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra hậu quả là số lượng
Sếu ở Tràm Chim giảm mạnh từ 600-800 cá thể vào giữa những năm 1990 đến ít hơn 100 cá thể
vào năm 2003 (Trần Triết và Nguyễn Phúc Bảo Hòa 2002, 2003).
Nguồn: Trần Triết (2005)
Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata
Ốc bươu vàng P. canaliculata cũng được nhiều nghiên cứu xác định là một trong những loài gây
hại mạnh nhất ở Việt Nam (Dương Minh Tú và Phạm Đinh Việt Hồng 2003, Nguyễn Công Minh
2005). Loài này đã được nhập vào Việt Nam từ trước năm 1975 với mục đích làm cảnh. Đến năm
1989, hai trang trại nuôi Ốc bươu vàng được thành lập (tại Củ Chi, Tp Hồ Chí Minh) để nhân nuôi
và xuất khẩu Ốc bươu vàng và đến năm 1990, việc nuôi thử nghiệm Ốc bươu vàng được bắt đầu ở
miền bắc Việt Nam. Do có vòng đời ngắn, dưới các điều kiện phù hợp, Ốc bươu vàng có thể phát
tán nhanh chóng dọc theo các thủy vực và hiện đã được ghi nhận ở hầu hết các vùng tại Việt Nam
(Cục Bảo vệ Thực vật 2000). Do có thể ăn được hầu hết các loài thực vật, Ốc bươu vàng gây ra mối
đe dọa nghiêm trọng đối với cả tính đa dạng sinh học cũng như đối với sản xuất nông nghiệp.
Lục bình (bèo nhật bản, bèo tây) Eichhornia crassipes
E. crassipes được nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản vào năm 1902 với mục đích làm cảnh. Trong
điều kiện thuận lợi loài này có thể phát triển gấp đôi diện tích trong khoảng mười ngày và hiện
đã phát triển phân bố rộng khắp các thủy vực nước ngọt ở Việt Nam. Lục bình che phủ mặt nước,
thối mục làm giảm ô-xy hòa tan trong nước, dẫn đến làm chết cá và các loài thủy sinh khác. Cũng
như các loài sinh vật ngoại lai xâm hại khác, nó còn gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh
tế. Chúng không chỉ cản trở hoạt động giao thông đường thủy mà còn làm chậm dòng chảy làm
giảm khả năng phát điện, sức tưới tiêu và làm tăng kinh phí bảo trì các hồ chứa.
Cây bông ổi (cây ngũ sắc, cây cứt lợn) Lantana camara
Bông ổi L. camara được đưa vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX với mục đích làm cảnh và hiện đang
được trồng khắp nơi trong cả nước. IUCN (2003) đã cảnh báo đây cũng là một loài có khả năng
xâm lấn mạnh.
Chuột hải ly Myocastor coypus
Chuột hải ly M. coypus được nhập vào Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX với mục đích

làm loài vật nuôi tạo thu nhập thay thế do nó cung cấp thịt để ăn, da và lông để xuất khẩu và ruột

×