Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

ảnh hưởng của xây dựng khu công nghiệp đến sinh kế của người dân ven khu công nghiệp nam sách - hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.38 KB, 105 trang )

Trờng đại học nông nghiệp hà nội
Khoa kinh tế và phát triển nông thôn

Luận văn tốt nghiệp đại học
NH HNG CA XY DNG KHU CễNG NGHIP N
SINH K CA NGI DN VEN KHU CễNG NGHIP
NAM SCH - HI DNG
Tên sinh viên : Đỗ Thị Dung
Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : Kinh tế 49B
Niên khoá : 2004 - 2008
Giáo viên hớng dẫn : PGS.TS. Quyền Đình Hà
Hµ néi, n¨m 2008
ii
LờI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, mọi số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và cha hề đợc sử dụng.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đợc cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đợc chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin cam đoan, thời gian thực tập đợc thực hiện đúng với quy định của
nhà trờng.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Dung
iii
LờI CảM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự cám ơn trân trọng tới giáo viên hớng dẫn PGS.TS. Quyền
Đình Hà - Giảng viên Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn - Ngời thầy đã dành nhiều
thời gian tâm huyết, tận tình hớng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài này.
Tôi xin đợc bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Ban giám hiệu Nhà trờng, các thầy cô


giáo đặc biệt là các thầy trong Bộ môn Phát triền nông thôn Khoa Kinh tế va Phát
triển nông thôn, những ngời đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong quá
trình học tập và rèn luyện tại trờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Phòng nông nghiệp; phòng địa chính;
phòng công nghiệp thơng mại, khoa học và công nghệ - Huyện Nam Sách; Ban lãnh
đạo xã ái Quốc - Huyện Nam Sách, đã tạo mọi điều kiện về thuận lợi và giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài này. Và những ngời dân ở KCN Nam Sách đã tham gia
các cuộc phỏng vấn, cung cấp những số liệu cần thiết và giúp đỡ tôi trong quá trình
tìm hiểu nghiên cứu tại địa phơng.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã nhận đợc rất nhiều sự giúp
đỡ, động viên của các bạn và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi
nhận những tình cảm quý báu đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Dung
iv
MỤC LỤC
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất của xã Ái Quốc giai đoạn 2001-2007 29
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Ái Quốc giai đoạn 2001-2007 30
Bảng 3.3: Tình hình trang bị cơ sở hạ tầng của xã năm 2007 33
Bảng 3.4: Kết quả phát triển kinh tế - xã hội của xã Ái Quốc giai đoạn 2001-2007 37
Bảng 3.5: Phân bổ mẫu điều tra hộ tại xã Ái Quốc năm 2007 44
Bảng 3.6: Các dự án đầu tư vào trong KCN Nam Sách 51
Bảng 4.1: Tình hình thu hồi đất của xã 53
Bảng 4.2: Khung giá đền bù đất của một số loại đất 55
Bảng 4.3: Tình hình bồi thường sau thu hồi đất của xã Ái Quốc năm 2003 56
Bảng 4.4: Tình hình cơ bản về nhóm hộ điều tra ở xã Ái Quốc năm 2007 59

Bảng 4.5: Tình hình đất đai của hộ điều tra năm 2006 64
Bảng 4.6: Tình hình lao động việc làm của nhóm hộ điều tra 72
Bảng 4.7: Biến động trong thu nhập và cơ cấu thu nhập của nhóm hộ điều tra 75
Bảng 4.8: Phân bổ sử dụng tiền đền bù của nhóm hộ điều tra 78
Bảng 4.9: Nhận định của hộ về sự thay đổi cơ sở hạ tầng tại địa phương 80
Bảng 4.10: Thay đổi tư liệu sản xuất và tài sản của hộ 82
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Nghĩa
CC Cơ cấu
CN Công nghiệp
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
BQ Bình quân
DN Doanh nghiệp
DT Diện tích
DV Dịch vụ
ĐVT Đơn vị tính
GD - ĐT Giáo dục - đào tạo
HCSN Hành chính sự nghiệp
HĐND Hội đồng nhân dân
KCN Khu công nghiệp
KD Kinh doanh
KHKT Khoa học kỹ thuật
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
LĐ Lao động
NN Nông nghiệp
XD Xây dựng
SL Số lượng
SX Sản xuất
SXNN Sản xuất nông nghiệp

TB Trung bình
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TM Thương mại
TMDV Thương mại dịch vụ
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
vii
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Để tiến lên một nền kinh tế - xã hội hiện đại và phát triển thì con đường
tất yếu và phổ biến của tất cả các nước đó là công nghiệp hoá - hiện đại hoá
(CNH – HĐH). Trong gần 20 năm thực hiện cải cách kinh tế trong nước và hội
nhập kinh tế thế giới, nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng như: tỷ
lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi
theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh, Trong bức
tranh kinh tế chung đó của đất nước, khu công nghiệp là điểm sáng, có những
đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế và việc phát triển các khu công nghiệp là
một mô hình quản lý kinh tế hiện đại, mang ý nghĩa chiến lược như một
phương kế chủ lực để đưa đất nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, khu công
nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở Việt Nam ra đời cùng với việc thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây vừa là mục
tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của đất nước.
Mục tiêu phát triển các KCN là tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo
nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo
quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư

phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Phát triển
các KCN cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở
cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Trong 15 năm qua, việc xây dựng và phát triển KCN đã được Nhà nước
đặc biệt quan tâm. Tính đến hết năm 2005, cả nước đã có 131 KCN và KCX
đã được quy hoạch phát triển, trong đó có 91 KCN và 3 KCX đã được chính
1
thức thành lập, với tổng diện tích 18.240 ha. Ngoài ra còn có 124 cụm công
nghiệp hoặc KCN vừa và nhỏ do các địa phương thành lập, tại 19 tỉnh, thành
phố với tổng diện tích hơn 6.500 ha. Hiện vẫn còn có gần 350 khu vực ở 54
tỉnh, thành phố kiến nghị đưa vào quy hoạch xây dựng thành KCN với tổng
diện tích khoảng 35.000 ha. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2010, cả nước
sẽ thành lập và xây dựng mới gần 100 KCN, đồng thời mở rộng thêm gần 30
KCN khác, đưa tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN từ 26,4%
hiện nay lên 35% và tỷ lệ xuất khẩu tăng 18,7% lên 32% vào 2010. Việc hình
thành và phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các tỉnh đã góp phần
làm cho giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên, cải thiện kinh tế địa phương,
tạo lợi thế phát triển của từng địa bàn và khu vực: thể hiện vai trò quan trọng
trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập và đóng góp cho sự phát triển kinh tế
xã hội của ngành nghề nông thôn.
Nước ta có 3/4 dân số sống ở nông thôn, số hộ đói nghèo cũng tập
trung chủ yếu ở đây. Qua thực tiễn cho thấy để giải quyết vấn đề “xoá đói
giảm nghèo” một cách vững chắc thì việc quan trọng là phải hướng dẫn và tạo
điều kiện thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn nhằm nâng
cao đời sống dân cư, phát triển nông thôn bền vững.
Việc chuyển đổi đất nông nghịêp sang mục đích sử dụng khác phục vụ
cho việc xây dựng các KCN là điều tất yếu sẽ diễn ra. Xu hướng này đang
diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nhiều vùng ven đô và nông thôn. Diện tích đất nông
nghiệp thì giảm xuống còn diện tích đất chuyên dùng, đất ở có xu hướng tăng
lên trong khi quỹ đất đai có hạn. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải

phù hợp với nhu cầu phát triển KCN nhưng vẫn phải đảm bảo đời sống của
nông dân. Bởi mất đất sản xuất nông nghiệp đồng nghĩa với việc mất đi việc
làm và nguồn thu nhập chủ yếu. Họ là những người trực tiếp chịu ảnh hưởng
của việc chuyển đất nông nghiệp xây dựng các KCN. Quá trình phát triển đó
đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội, nó đã tạo ra nhiều cơ hội
việc làm mới, cũng như thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ, bên cạnh đó
2
nó cũng tạo ra những khó khăn khi người lao động bị thu hồi đất không có
khả năng chuyển đổi việc làm. Nhà nước và chính quyền các cấp đã làm gì để
đảm bảo sinh kế của người dân?
Nam Sách cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung của đất
nước. Quá trình xây dựng KCN diễn ra mạnh mẽ. Khu công nghiệp Nam Sách
thuộc địa bàn của xã Ái Quốc nằm gần sát đường quốc lộ 5A, rất thuận lợi cho
việc giao lưu buôn bán và phát triển kinh tế xã hội. Trước kia nông dân trong
xã sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng hiện nay thay vào những khu đất
làm nông nghiệp là các công ty, nhà máy, KCN mọc lên san sát. Đời sống của
người dân được nâng lên đáng kể nhưng liệu họ có được cuộc sống ổn định và
được quan tâm thoả đáng trong chính sách của chính phủ, cũng như của tỉnh,
của huyện hay không? Những cơ hội tìm kiếm việc làm của người dân sẽ như
thế nào? Đó là vấn đề mà các nhà lãnh đạo các cấp cần phải quan tâm.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan trên, được sự phân công của
khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn – Trường Đại học nông nghiệp – Hà Nội
và sự hướng dẫn của PGS.TS. Quyền Đình Hà - Bộ môn Phát triển nông thôn tôi
chọn và nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của xây dựng khu công nghiệp đến
sinh kế của người dân ven khu công nghiệp Nam Sách - Hải Dương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc xây dựng KCN đến sinh kế của người
dân trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp xây dựng sinh kế phù hợp giải
quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho những hộ nông dân bị thu hồi

đất ven khu công nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng khu công
nghiệp ảnh hưởng đến sinh kế của người dân.
Nghiên cứu thực trạng vấn đề xây dựng KCN, sinh kế của người dân
sau khhi bị thu hồi đất trên địa bàn nghiên cứu.
3
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc xây dựng KCN đến sinh kế của người
dân ven KCN.
Từ những nghiên cứu trên đưa ra những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực
đến sinh kế của người dân. Từ đó đề xuất một số giải pháp giúp chính quyền
địa phương có những chính sách giải quyết lao động, việc làm, nâng cao thu
nhập giúp ổn định và nâng cao đời sống của hộ nông dân.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân ven khu công nghiệp bị thu hồi đất và không bị mất
đất nhưng chịu ảnh hưởng của việc xây dựng khu công nghiệp.
Lao động, việc làm, thu nhập, đời sống kinh tế - văn hoá – chính trị của
các hộ nông dân sau khi xây dựng KCN
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi nội dung
Nghiên cứu thực trạng xây dựng KCN và những ảnh hưởng của nó đến
sinh kế của người dân ven KCN.
1.4.2 Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu tại xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
1.4.3 Phạm vi thời gian
Đề tài tiến hành điều tra thu thập số liệu thời gian từ năm 2001 đến
2007. Thời gian thu thập số liệu sơ cấp từ tháng 2 đến tháng 5/2008.
4
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1 Khái niệm về KCN và vai trò của KCN
*Khái niệm:
KCN: là khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp và cả xí nghiệp công
nghiệp, doanh nghiệp phục vụ sản xuất và doanh nghiệp phục vụ khác. Có
ranh giới địa lý xác định. Các doanh nghiệp trong KCN cùng xây dựng một
hệ thống kỹ thuật hạ tầng và hạ tầng xã hội.
KCN tập trung là một khu vực được xây dựng cho các xí nghiệp công
nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có sẵn các khu nhà máy cũng như các dịch vụ và
tiện nghi cho những người làm việc trong KCN sinh sống.
Chức năng chủ yếu của KCN là sản xuất và cung cấp dịch vụ trực tiếp
phục vụ sản xuất. Trong những trường hợp cụ thể KCN có thể có khu dịch vụ
công cộng, khu nhà ở…trong KCN có thể có khu chế xuất, khu kỹ thuật cao.
* Mục tiêu vai trò của việc xây dựng KCN là:
+ Thu hút vốn đầu tư trên quy mô lớn và phát triển kinh tế.
+ Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
+ Tạo nhiều việc làm cho lao động. Trong khi các nước đang phát triển
dư thừa sức lao động thì tình trạng khan hiếm nguồn lao động và giá nhân
công cao ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn sử
dụng lao động dồi dào ở các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, KCN
là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lược lâu dài về tạo việc làm và chuyển
đổi cơ cấu lao động cũng như sử dụng lao động một cách hiệu quả nhất ở các
nước đang phát triển.
+ Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
+ Chuyển giao công nghệ mới. Nhờ đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
sẽ nâng cao trình độ cũng như tay nghề cho công nhân, cán bộ kỹ thuật, và
như vậy sẽ có một lực lượng lao động có tay nghề cao trong sản xuất.
5
+ Phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo sự phát triển
kinh tế xã hội trong vùng
+ Kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường. Do tập trung các cơ sở sản

xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát xử lý chất thải và bảo vệ
môi trường. KCN là địa điểm tốt nhất để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
từ các đô thị, thành phố lớn, phục vụ mục tiêu phát triển công nghiệp bền vững.
+ Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc
độ đô thị hoá. Xây dựng KCN là nhân tố thúc đẩy tốc độ đô thị hoá và tác
động lan toả tích cực trong việc CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ KCN còn có vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của các
quốc gia. KCN là nơi thử nghiệm chính sách kinh tế mới đặc biệt là chính
sách kinh tế đối ngoại. KCN luôn đi đầu trong việc phát triển chính sách kinh
tế đối ngoại và của toàn bộ nền kinh tế.
+ KCN đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển kinh tế quốc dân.
KCN sẽ là đầu tầu tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự phát triển ở những vùng
lân cận và những vùng khác của đất nước.
Các KCN là do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và quản lý
theo một quy chế riêng.
Theo quy chế KCN, ban hành theo quyết định 36/CP ngày 24/4/1997
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới, địa lý xác định,
không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.
=> KCN là một khu vực lãnh thổ hữu hạn được phân cách trong đường
bao hữu hình hoặc vô hình. Được phân bổ tập trung với hạt nhân là doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp (hay tiêu dùng, công nghệ chế biến, tư liệu sản
xuất) và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với doanh nghiệp dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp.
6
Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp sử dụng hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo cơ chế tổ chức quản lý thống
nhất của Ban quản lý KCN. Trong KCN có doanh nghiệp xây dựng KCN, có
trách nhiệm đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong thời gian tồn

tại KCN.
Nguồn nhân lực chủ yếu là lao động trong nước và tại chỗ
Được quản lý trực tiếp của Chính Phủ (từ quyết định thành lập, quy
hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát…).
*Một số mô hình công nghiệp khác: KCN địa phương, khu TTCN,
KCN (nông – lâm – ngư nghiệp) là các khu sản xuất gắn với địa phương có
các nghề TTCN, nghề truyền thống, sản xuất sản phẩm nông – lâm – ngư
nghiệp kết hợp với dịch vụ kinh doanh du lịch…
Đặc điểm cơ cấu sản xuất của các KCN này chủ yếu dành cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ gắn với vùng dân cư có các nghề nghiệp truyền
thống, TTCN và các lợi thế về nông – lâm – ngư nghiệp (cây trồng, chăn
nuôi, chế biến).
* Qua các vai trò của KCN nêu trên cho ta thấy vai trò khác biệt và nổi
trội cả về chất và lượng của hình thức KCN so với cụm công nghiệp và doanh
nghiệp công nghiệp độc lập phân tán được thể hiện qua các tiêu chí tác động
của nó như sau:
+ Đối với nhà đầu tư vào KCN: Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội có
sẵn, nhà đầu tư vào KCN có thể xây dựng được ngay nhà máy, xí nghiệp của
mình. Trong khi đó nếu đầu tư ở ngoài KCN, nhà đầu tư sẽ mất nhiều thời
gian và tiền bạc trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, mất thời gian tốn
kém trong việc chờ đợi các đầu mối kỹ thuật cho sản xuất như: Điện, cấp
nước, thoát nước, viễn thông, giao thông…
Đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khi đầu tư các dự án có
công nghệ cao, đòi hỏi chất lượng cơ sở hạ tầng ở mức độ cao, khi đầu tư ở
ngoài KCN khó có thể đáp ứng được trong điều kiện hiện tại của Việt Nam
7
(điện, nước không ổn định…). Điều này lý giải, hầu hết các dự án sản xuất
công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều nằm trong KCN.
Cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” trong KCN tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục

xuất, nhập khẩu vật tư, hàng hoá cho sản xuất, thủ tục hải quan, thuế, tuyển
dụng lao động…trong khi các doanh nghiệp công nghiệp ở ngoài khu công
nghiệp rất vất vả khi phải giải quyết các vấn đề nêu trên.
+ Đối với phát triển kinh tế xã hội vùng: Trên cơ sở lợi thế của vùng,
xây dựng KCN vừa khai thác lợi thế của vùng vừa tránh được đầu tư phân
tán, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển
KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch, bảo vệ môi trường, tiết kiệm
và phát huy hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực khác, hình thành các đô thị
mới, thực hiện văn minh, tiến bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng
nông thôn và thành thị. Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng.
+ Đối với CNH - HĐH đất nước: Với tính chất “vùng lãnh thổ” như đã
nêu ở trên, KCN là công cụ hữu hiệu thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu
tư nước ngoài, mặt khác KCN cũng là nơi du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản nước ngoài. Qua
hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, đã
hình thành một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật
có trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cũng như trình độ quản lý phù
hợp với cơ chế mới và phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là những điều kiện cần thiết để thực hiện CNH - HĐH đất nước.
+ Đối với hội nhập kinh tế quốc tế: như đã phân tích ở trên, hàng hoá
trong KCN một mặt cung cấp thị trường nội địa để đảm bảo đủ sức cạnh tranh
và ngăn chặn hàng nhập lậu từ các nước khác, mặt khác KCN là khu sản xuất
hàng hoá xuất khẩu hướng ra thị trường thế giới được coi như là một cửa ngõ
khai thông nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
8
Tóm lại : KCN là một hình thức tổ chức kinh tế công nghiệp tiên tiến,
hữu hiệu, phù hợp và khả thi cho các nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng, là một xu thế phát triển tất yếu của quá trình CNH - HĐH và
hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt giai đoạn đổi mới và xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.1.2 Khái niệm và nội dung của sinh kế
* Khái niệm:
Sinh kế hay còn gọi là kế sinh nhai hay đơn giản là cái cách mà con người
sử dụng những nguồn lực sẵn có của mình để đạt được mục tiêu của mình.
Sinh kế bao gồm tất cả các khả năng, các nguồn lực và các hoạt động
cần thiết cho một phương thức sống.
Sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khả
năng của con người kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực
thi để kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ.
Sinh kế theo như khái niệm của DFID đưa ra thì một sinh kế có thể
được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khả năng mà con người có
được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để
kiếm sống cũng như đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ.
Theo như khái niệm trên thì chúng ta thấy sinh kế bao gồm toàn bộ
những hoạt động của con người để đạt được mục tiêu dựa trên những nguồn
lực sẵn có của con người như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn
vốn, lao động, trình độ phát triển của khoa học công nghệ…
Như vậy, sinh kế là những hoạt động cần thiết mà cá nhân hay hộ gia
đình phải thực hiện dựa trên các khả năng và tài sản sinh kế để kiếm sống. Một
số sinh kế được coi là bền vững nếu sinh kế đó có thể duy trì được và phát triển
ở cả hiện tại và tương lai trước những bối cảnh dễ gây tổn thương tới nó nhưng
không gây ảnh hưởng xấu tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Tiếp cận sinh kế là cách tư duy về mục tiêu, phạm vi và những ưu tiên
cho phát triển nhằm đẩy nhanh tiến độ xoá đói giảm nghèo. Đây là phương
9
pháp tiếp cận sâu rộng với mục đích nắm giữ và cung cấp một phương tiện để
tìm hiểu nguyên nhân và các mặt quan trọng của đói nghèo với trọng tâm tập
trung vào một số yếu tố (ví dụ như các vấn đề kinh tế, an ninh lương thực…).
Nó cũng cố gắng phác hoạ những mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau

của nghèo đói, giúp xác lập ưu tiên tốt hơn cho những hành động xoá nghèo.
*Nội dung:
Nội dung của sinh kế được thể hiện trong khung sinh kế do Bộ phát
triển quốc tế của Chính phủ Anh (DFID) xây dựng. Trong khung này thể hiện
những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới sinh kế của người dân và sự liên quan
giữa các nhân tố đó. Con người được lấy làm trung tâm trong khung sinh kế
bền vững. Khung sinh kế giải thích mối quan hệ giữa con người, sinh kế, môi
trường, chính sách và các thiết chế. Có 5 nhóm tác nhân chính trong khung
sinh kế bền vững: Nguồn lực sinh kế, Bối cảnh dễ tổn thương, Chính sách,
tiến trình và cơ cấu, Chiến lược sinh kế, Kết quả sinh kế.
Mục đích của sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những cách thức
mà con người đã kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm
sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện. Những mục tiệu và
ước nguyện mà con người đạt được nhờ sử dụng và kết hợp các nguồn lực
khác nhau có thể gọi là kết quả của sinh kế. Đây là những thứ mà con người
muốn đạt được trong cuộc sống kể cả trước mắt cũng như lâu dài.
- Nghiên cứu kết quả sinh kế sẽ cho chúng ta hiểu được động lực nào
dẫn tới các hoạt động mà họ đang thực hiện và những ưu tiên của họ là gì.
Đồng thời nghiên cứu kết quả sinh kế cũng cho thấy phản ứng của người dân
trước những cơ hội mới. Kết quả sinh kế thể hiện trên chỉ số như cuộc sống
hưng thịnh hơn, đời sống được nâng cao hơn, khả năng tổn thương được
giảm, an ninh lương thực được củng cố và sử dụng bền vững hơn các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Để có những mong ước và mục tiêu của mình, con
người cần phải kết hợp và sử dụng các nguồn lực khác nhau như đất đai, vốn,
khoa học kỹ thuật… Và bên cạnh đó khả năng sử dụng và tiếp cận của con
10
người với các nguồn lực này là khác nhau do đó có thể nói rằng sinh kế của
con người phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng của những nguồn vốn mà
họ có hoặc có thể tiếp cận.
- Nguồn lực sinh kế hay còn gọi là tài sản sinh kế, vốn sinh kế. Nguồn

lực sinh kế là những nguồn lực cụ thể cũng như những khả năng của con
người trong khai thác, sử dụng, tái tạo, bồi dưỡng và bảo vệ các nguồn lực đó.
Theo mô tả trong khung sinh kế thì tài sản sinh kế theo cách tiếp cận của
DFID được chia thành 5 nhóm chính bao gồm:
Nguồn lực con người (Human Capital viết tắt là H): Bao gồm kỹ năng,
kiến thức, tiềm năng lao động, sức khoẻ tốt, của từng cá nhân và các thành
viên trong gia đình để đạt được kết quả sinh kế.
Nguồn lực tự nhiên (Natural Capital viết tắt là N): Bao gồm tiềm năng
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà từ đó cung cấp những nguồn lực cho
sinh kế như đất đai, nguồn nước, hệ động thực vật…
Nguồn lực tài chính (Financial Capital viết tắt là F): Bao gồm các nguồn
tài chính có sẵn để con người tiếp tục sinh kế. Như các khoản thu nhập bằng tiền
mặt, các khoản tiết kiệm và tín dụng… có thể góp phần cho tiêu dùng cũng như
sản xuất. Đôi khi vốn tài chính còn được thể hiện dưới dạng hiện vật.
Nguồn lực xã hội (Social Capital viết tắt là S): Các nguồn lực xã hội
mà con người khai thác để theo đổi các mục tiêu sinh kế. Nó bao gồm các
mạng lưới, và các mối quan hệ xã hội, các tổ chức xã hội, các nhóm chính
thức hay phi chính thức mà con người tham gia để từ đó có được những cơ
hội và lợi ích khác nhau.
Nguồn lực vật chất (Physical Capital viết tắt là P): Bao gồm các công
trình hạ tầng xã hội cơ bản và các loại tài sản của gia đình hỗ trợ cho sinh kế
như giao thông, hệ thống cấp thoát nước, nhà ở, công trình chăn nuôi, các đồ
dùng dụng cụ trong gia đình.
- Với những tài sản sinh kế mà con người có được thì mỗi cá nhân, tổ
chức đều có chiến lược khác nhau để sử dụng cũng như kết hợp đảm bảo để
11
có kết quả sinh kế tốt nhất. Chiến lược sử dụng các loại tài sản trong tiếp cận
sinh kế được gọi là chiến lược sinh kế. Chiến lược sinh kế là cách thức sinh
nhai để người dân theo đuổi chiến lược đa sinh kế. Các chiến lược đó có thể
phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào điều kiện môi trường, chúng phụ thuộc ít

nhiều vào thị trường và việc làm trong nền kinh tế. Người dân có thể sử dụng
những gì họ có thể tiếp cận được để tồn tại hoặc cải thiện tình hình hiện tại.
Chiến lược sinh kế bao gồm những lựa chọn và quyết định của người dân
về những việc như: họ đầu tư vào nguồn vốn và sự kết hợp tài sản sinh kế nào,
quy mô của các hoạt động tạo thu nhập họ đang theo đuổi, cách thức họ quản lý
như thế nào để bảo tồn các tài sản sinh kế và thu nhập, cách thức họ thu nhận và
phát triển như thế nào những kiến thức, kỹ năng cần thiết để kiếm sống, họ sẽ
đối phó với các rủi ro như thế nào và sử dụng thời gian và công sức như thế nào.
- Trong quá trình kết hợp và sử dụng các tài sản sinh kế, con người
thường xuyên chịu những tác động không mong muốn làm ảnh hưởng tới kết
quả sinh kế. Sự xuất hiện của các yếu tố này gây tổn thương cho sinh kế của
người dân, làm người dân lâm vào các loại sốc và khủng hoảng. Đó là bối
cảnh dễ tổn thương hay còn gọi là phạm vi rủi ro. Những thay đổi trong bối
cảnh dễ tổn thương thường xảy ra theo ba con đường: Chiều hướng, thời vụ
và chấn động (sốc).
Chiều hướng là thay đổi tuần tự, có thể dự kiến được một phần chiều
hướng thay đổi. Ví dụ: Phát triển KCN sẽ mở rộng quy mô dân số ở trong
vùng có KCN và những vùng lân cận, hay vấn đề ô nhiễm môi trường trong
vùng có KCN.
Tính thời vụ là những biến đổi theo chu kỳ, có thể dự báo trước được
một phần xu hướng biến động của nó. Ví dụ: Biến động giá đầu vào - đầu ra
theo vụ sản xuất, mùa vụ hay xảy ra dịch bệnh trong chăn nuôi, lao động nông
nghiệp đi tìm việc làm phi nông nghiệp trong lúc nông nhàn.
Chấn động là những thay đổi bột phát đã gây ra những cú sốc lớn. Khả
năng dự báo đối với chấn động là rất khó và hầu như không thể dự báo được
12
một cách chắc chắn. Ví dụ: Tăng giá, rớt giá, núi lửa, lốc xoáy, sự sụt đất, hạn
hán, lũ lụt, động đất, chiến tranh…
- Sinh kế của người dân còn chịu những tác động của các thể chế và
chính sách. Các thể chế và chính sách bao gồm một loạt những yếu tố liên

quan đến bối cảnh có những tác động mạnh lên mọi khía cạnh của sinh kế như
các chính sách, luật pháp, những cơ chế luật lệ, phong tục… Rất nhiều trong
những yếu tố này có liên quan đến môi trường quy định, chính sách và các
dịch vụ do nhà nước thực hiện. Các vấn đề đó lại bao gồm cả các cấp chính
quyền và khu vực tư nhân. Chính sách, tiến trình và cơ cấu định ra khả năng
người dân tiếp cận với các nguồn lực sinh kế, chiến lược sinh kế, những cơ
quan ra quyết định và những nguồn ảnh hưởng, những điều khoản quy định
cho việc chuyển hoá các nguồn lực sinh kế, lợi ích của người dân khi thực
hiện một số hoạt động sinh kế.

Nguồn: DFID
Sơ đồ 2.1: Khung sinh kế
Bối cảnh dễ
tổn thương
-Chiều hướng
-Thời vụ
-Chấn động
(Sốc)
Chính sách tiến
trình và cơ cấu
Cấu trúc:
-Các cấp chính
quyền
-Khu vực tư
nhân
Quy trình thực
hiện:
-Chính sách
-Pháp luật
-Thể chế

-Văn hoá
Kết quả sinh
kế
-Tăng thu
nhập
-Cuộc sống
đầy đủ
-Giảm khả
năng tổn
thương
-Sử dụng bền
vững hơn các
nguồn tự
nhiên
Vốn
sinh
kế
Chiến lược
sinh kế
F
H
S
N
P
13
2.1.3 Tác động của việc xây dựng KCN đối với sinh kế
Việc xây dựng KCN có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt kinh tế xã hội và đời
sống của người dân ở địa phương có KCN nói riêng và người dân trên cả nước
nói chung, nó làm thay đổi cục diện của nền kinh tế, thay đổi cơ cấu thu nhập,
cơ cấu lao động, nếp sống, thói quen của người dân… theo cả hướng tích cực

và tiêu cực. Trong đề tài tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những ảnh hưởng của xây dựng
KCN Nam Sách đến các nguồn lực sinh kế của người dân xã Ái Quốc.
2.1.3.1 Tác động đến nguồn lực con người
* Tác động tích cực: Xây dựng KCN sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhờ đó có thêm nhiều ngành nghề, dịch vụ phát triển… sẽ tạo ra một
khối lượng công việc lớn và nhờ đó sẽ thu hút được một lực lượng lao động
tại chỗ cũng như trong vùng.
Xây dựng KCN thì nhu cầu về lao động vào các ngành công nghiệp tại
KCN sẽ tăng nên lực lượng lao động ở độ tuổi còn trẻ trong vùng sẽ có nhiều
cơ hội việc làm hơn cũng như có nhiều điều kiện để học tập để đáp ứng được
công việc. Từ đó sẽ có công việc ổn định và thu nhập cao hơn lao động nông
nghiệp trước đây.
Xây dựng KCN sẽ kéo theo nhiều loại hình dịch vụ phát triển thì những
người dân trong vùng có cơ hội kinh doanh các loại hình dịch vụ nhờ đó tạo
thêm việc làm và nâng cao thu nhập.
Người dân trong khu vực gần KCN có thể xây dựng nhà cho công nhân
thuê và mở thêm các dịch vụ về ăn uống sinh hoạt cho công nhân bởi vì khi
xây dựng KCN nhu cầu về nhà ở tăng lên do có nhiều công nhân từ nơi khác
tới lao động trong KCN nhờ đó đã nâng cao thu nhập cho hộ.
Khi xây dựng KCN thì những hộ nông dân mất đất do không đáp ứng
được công việc mới có tính công nghệ cao, trong khi đó ở một số địa phương
lại có nghề truyền thống về TTCN, nên lực lượng lao động này sẽ tham gia
vào nhờ đó ngành nghề này sẽ phát triển. Mặt khác các công việc này có thể
14
tận dụng được sức lao động của nhiều đối tượng lao động, cũng như thời gian
nhàn rỗi lúc nông nhàn.
Khi xây dựng KCN thì đời sống văn hoá ở địa phương được nâng cao,
nhờ đó khả năng sử dụng đồng tiền của đại đa số cộng đồng được nâng cao cộng
với thu nhập tăng lên từ các hoạt động kinh doanh dịch vụ mới và tiền đền bù từ
việc thu hồi đất cho xây dựng KCN nên có nhiều hộ nông dân đã đầu tư cho việc

đào tạo lao động tốt hơn hoặc đầu tư vào mở rộng các ngành nghề mới…
Việc thu hồi đất cho xây dựng KCN thời gian qua đã góp phần rất lớn
vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã xây dựng
được hàng trăm KCN, đã thu hút được hàng chục ngàn dự án đầu tư của các
nhà đầu tư ở trong và ngoài nước với số vốn vài chục tỷ USD và hàng trăm
ngàn tỷ đồng Việt Nam. Cơ cấu của nền kinh tế nước nhà nhờ đó đã chuyển
dần theo hướng tiến bộ, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ GDP
của đất nước giảm nhanh, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng
ngày càng hợp lý. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất được cải thiện
rõ rệt. Hàng triệu lao động được giải quyết việc làm với thu nhập cao hơn, ổn
định hơn. Các tỉnh, thành phố thu hút được nhiều lao động vào làm việc trong
các KCN là : Đồng Nai 190 ngàn người, Hà Nội 15 ngàn người, Đà Nẵng
14,5 ngàn người và Bình Định 12 ngàn người.
* Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thu hồi đất phát triển các
KCN cũng đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, nhất là trong lĩnh vực giải quyết
việc làm,cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất.
Theo một khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội mới đây,
trung bình mỗi hộ nơi thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có
việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm
trong nông nghiệp. Như vậy, với 157.000 ha đất đã được chuyển đổi trong
giai đoạn 2000-2004 có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi
nghề nghiệp. Với số lượng 950.000 lao động được thu hút vào các KCN cũng
15
có nghĩa là còn trên 50% số lao động bị mất việc làm giải phóng khỏi nông
nghiệp rơi vào tình trạng không có việc làm. Số người không có việc làm tăng
là điều rất đáng lo ngại. Trong số những người có việc làm, số người có việc
làm gắn với quá trình công nghiệp hoá tăng rất ít (công nghiệp chỉ tăng
2,79%, trong khi làm thuê và xe ôm tăng 3,64%, buôn bán nhỏ tăng 2,72%).
Hơn nữa tình trạng việc làm cũng rất xấu. Trong số những hộ có việc làm, số

người không đủ việc làm có nơi chiếm gần một nửa, nhất là các tỉnh vùng
Đồng bằng sông Hồng như: Hải Phòng 54,4%, Hà Nội chiếm 46,8%, Bắc
Ninh 45,1%, Hà Tây 40,7%. Những tỉnh thiếu lao động có trình độ như Cần
Thơ, số người có việc làm nhưng không đủ việc làm cũng chiếm 28,9%. Bình
Dương và Thành phố Hồ Chí Minh là 2 địa phương thiếu lao động cho các
KCN nhưng số người không đủ việc làm cũng là 12,4% và 10,8%.
Do nhượng đất cho xây dựng KCN nên nhiều hộ nông dân ven KCN sẽ
không còn đất hoặc thiếu đất để sản xuất nên sẽ dẫn tới việc dư thừa lao động,
mặt khác một số lao động do không có khả năng chuyển đổi việc làm phi
nông nghiệp dẫn tới thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Số người lao động có tuổi trên 35 do không được vào làm trong KCN
sẽ có nguy cơ thất nghiệp cao.
2.1.3.2 Tác động đến nguồn lực tài chính
* Tác động tích cực: Khi xây dựng KCN thì các nhà máy xí nghiệp sẽ thu
hút một lực lượng lao động của xã hội vào làm việc trong KCN nhờ đó thu nhập
của các hộ có người được tuyển dụng sẽ có thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
Do nhận được tiền đền bù nên một số hộ có khả năng đầu tư phát triển
kinh tế nhờ đó thu nhập của họ cũng tăng lên.
Khi KCN hình thành và phát triển sẽ kéo theo nhiều loại hình dịch vụ
do đó các hộ sống xung quanh KCN có cơ hội kinh doanh các loại dịch vụ,
nhờ đó thu nhập của hộ cũng được nâng lên.
16
Khi các ngành nghề truyền thống của địa phương được khôi phục phát
triển và tận dụng được lượng lao động dư thừa, nên thu nhập của các hộ này
cũng được tăng lên.
Khi có KCN thì do có một lực lượng công nhân tập trung về đây do đó
nhu cầu về các loại thực phẩm như rau quả cũng tăng lên nhờ đó các hộ nông
dân có thể chuyển đổi cây trồng nhờ đó thu nhập của hộ từ sản xuất nông
nghiệp cũng được tăng lên.
Khi KCN hoạt động thì nhu cầu về nhà ở và mức tiêu thụ hàng hoá sản

phẩm trong vùng sẽ tăng lên, từ đó hình thành mạng lưới dịch vụ ở địa
phương có KCN sẽ phát triển tạo điều kiện nâng cao thu nhập.
Do có KCN nên chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng
tốt hơn vì thế các hộ nắm bắt được cơ hội việc làm mới nhờ đó thu nhập cao
hơn nhiều so với trước đây.
* Tác động tiêu cực: Khi xây dựng KCN thì những hộ mất đất do
không chuyển đổi được việc làm sẽ không có việc làm từ đó dẫn tới thu nhập
ngày càng thấp.
Khi có KCN sẽ kéo theo nhiều tầng lớp xã hội nơi khác tới để tham gia
vào lược lượng lao động cũng như dịch vụ ở đây do đó sẽ phát sinh nhiều tệ
nạn xã hội, do trình độ nhận thức của một bộ phận người dân chưa cao sẽ mắc
vào các tệ nạn xã hội làm cho kinh tế gia đình sẽ đi xuống so với trước đây.
Dù kinh tế xã hội phát triển nhưng một bộ phận nông dân do nhượng
đất không có khả năng tự cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho đời sống hàng
ngày nên phải mua mà giá cả thì tăng hơn trước nhiều nên cuộc sống vật chất
lại thấp hơn trước do chi tiêu tăng nhanh hơn thu nhập.
Xây dựng KCN có ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế - đời sống xã hội –
văn hoá của khu vực. KCN đi vào hoạt động thì nhiều công trình đường giao
thông, chợ, bưu điện, ngân hàng, bệnh viện, trường học… cũng được đầu tư
và xây dựng nhiều để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hộ dân. Bộ mặt văn
hoá của địa phương được thay đổi, nếp sống của cộng đồng thay đổi theo
17
hướng tốt lên, các hộ nông dân có điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông
tin đại chúng nhiều hơn…Bên cạnh đó do đời sống kinh tế được nâng cao lại
xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, phong tục tập quán của địa phương dần mất đi
do lối sống đô thị thâm nhập vào, môi trường ô nhiễm hơn trước do chất thải
của các nhà máy trong KCN và chất thải sinh hoạt của số đông công nhân đến
sinh sống làm việc tại địa phương.
2.1.3.3 Tác động đến nguồn lực tự nhiên
*Tác động tích cực:

Việc xây dựng KCN tất yếu dẫn đến việc chuyển đổi đất từ đất sản xuất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, làm thay đổi môi trường tự nhiên, ảnh
hưởng đến đất đai, nguồn nước, không khí, hệ động thực vật…góp phần phân bố
lại cơ cấu đất đai không chỉ của địa phương mà còn trên phạm vi cả nước. Tăng
diện tích đất công nghiệp, đô thị, đất chuyên dùng, đất xây dựng cơ sở hạ tầng.
Từ đó tạo điều kiện cải thiện cơ cấu thu nhập quốc dân theo hướng tích cực, đó
là tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, thực hiện CNH, đô thị hoá, nông nghiệp
nông thôn. Bởi vì, khi các hộ nông dân mất đi diện tích đất sản xuất nông nghiệp
của mình, họ sẽ chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp và thu nhập từ
nông nghiệp giảm đi, còn thu nhập từ phi nông nghiệp sẽ tăng lên.
KCN đi vào hoạt động phần nào cải thiện được môi trường tự nhiên
theo hướng có lợi cho con người, xuất hiện nhiều khu du lịch sinh thái phục
vụ nhu cầu của con người. Cảnh quan sẽ sinh động hơn nếu làm đúng quan
điểm sinh thái. Hệ động thực vật cũng phong phú và đa dạng hơn. Do còn ít
đất để sản xuất nông nghiệp nên các hộ chuyển hướng đầu tư sang các cây
con có giá trị và chất lượng cao.
Giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nếu KCN có hệ thống xử lý chất thải tốt,
đồng thời nâng cao khả năng xử lý chất thải cho các nhà máy công nghiệp trước
đây nằm trong khu đô thị sẽ chuyển vào trong KCN, từ đó tránh được ô nhiễm ở
18

×