Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.48 KB, 15 trang )

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của tòa án
0:8' 16/8/2009
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã
chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh
tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng
kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên
trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các
thành viên của công ty… Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì doanh nghiệp cần
tìm đến tổ chức nào để giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh gọn, tránh
những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp?
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử
thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận
thấy rõ ràng là hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng,
không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi
Toà kinh tế Hà Nội trong năm 2007 phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có khoảng
300 vụ án kinh tế và Toà kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án
các loại, trong đó có 1.000 vụ án kinh tế, thì VIAC cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30
vụ (1). Tính trung bình mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0, 25 vụ một năm,
trong khi mỗi thẩm phán Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm và mỗi
thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 50 vụ một năm.
Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh
doanh, thương mại và lao động, thì Toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý
được 80.773 vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên Toà án nhân dân tối
cao. Những con số này ngoài việc cho thấy sự phổ biến việc xử lý các tranh chấp
bằng Toà án còn cho thấy phần nào sự quá tải của hệ thống Toà án (2).
Các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các bên nước ngoài vẫn tiếp tục
được xét xử chủ yếu bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (119
vụ), Hiệp hội Trọng tài Mỹ (621 vụ); Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng


Thương mại Quốc tế ICC (599 vụ); Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế
Trung Quốc (1.118 vụ); Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (448 vụ)(3).
1. Trọng tài - một phương thức giải quyết tranh chấp ưu việt
Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp kinh tế
được thực hiện bằng một trong hai con đường: Một là, giải quyết tại Toà án nhân
dân theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hai là, giải quyết bằng trọng tài
theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; Nghị định số
25/2004/NĐ-CP của Chính phủ.
Toà án là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh Nước CHXHCN Việt
Nam quyết định đưa vụ tranh chấp ra xét xử theo trình tự tố tụng dân sự được quy
định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình tố tụng như vậy, đương nhiên là phải
chặt chẽ, với nhiều thủ tục tố tụng rườm rà, thời gian kéo dài; xét xử công khai; án
được tuyên không tuỳ thuộc ý chí các bên mà là kết quả nghị án của Hội đồng xét
xử; án đã tuyên dù có quyền kháng cáo, nhưng “gỡ” được không phải dễ.
Trong khi đó, trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận
giải quyết các vụ tranh chấp khi các bên có thoả thuận bằng văn bản về việc chọn
trọng tài. Quá trình giải quyết, được thực hiện theo nguyên tắc “phân xử trọng tài”
phù hợp với quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại và quy chế của Tổ
chức trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Như vậy, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp ngoài con đường Toà
án như thương lượng, trung gian, hoà giải nhưng so với các phương thức giải
quyết tranh chấp bằng Toà án thì việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài có một số ưu điểm như sau:
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc
giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm
nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có
giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 - 3
lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn
khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện

kiểm sát ). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh
động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối
với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo.
Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban
Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của
mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương
mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết
định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước
ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh
những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là
quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là
chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên
đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh
tế theo thủ tục giải quyết các vụ án.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết
pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in
camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh
chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ
thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh.
Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong
vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc công
chúng) - điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh
của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục
Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn
trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố
tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban trọng tài)

xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện
đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm phán được chỉ
định giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối tượng
tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng,
tài chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có
thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn (4) phù hợp với đối tượng tranh
chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải quyết tranh
chấp. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ đầu
đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi
các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có
thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh
chóng, linh hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về
thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi
đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa
điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng,
hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể
làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn
phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án
cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng,
còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí
lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác

kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những
bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ
nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác,
quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng
tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn
trong tương lai.
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương
sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết
vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành
có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ
chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các
mặt sau:
Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tàiX; giải quyết khiếu nại về
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng
tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị
xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ
bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa
việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng
của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài
khoản tại ngân hàng.
Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng

hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những
vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng
buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm
sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện trên các chứng cứ “pháp
lý”.
2. Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
- Thực trạng và nguyên nhân
Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh trọng
tài) đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật
về trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trọng tài trong hơn
6 năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của
nhiều nhân tố mới (như: Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới, với sự xuất hiện của các đạo luật mới như Luật Thương mại năm 2005, Luật
Đầu tư năm 2005…), nhưng một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bất cập do
một số nguyên nhân chủ yếu như: thẩm quyền của trọng tài còn nhiều hạn chế về
phạm vi, chưa xác định cụ thể, rõ ràng, thống nhất và chắc chắn; đội ngũ trọng tài
viên ở trong nước chưa phát triển, chưa đạt trình độ và uy tín bảo đảm sự tin cậy
của các bên tranh chấp, nhất là các bên nước ngoài…. Bên cạnh đó, một trong
những bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt Nam là cơ chế hỗ
trợ của Toà án đối với trọng tài chưa hiệu quả, đặt trọng tài vào vị trí bất lợi hơn
nhiều so với Toà án liên quan đến một số vấn đề sau:
2.1 Vấn đề xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp của Hội đồng Trọng tài
Theo quy định tại Điều 30, thì khi có khiếu nại của một bên về việc Hội
đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp
không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài
phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu
cầu khác.Tuy nhiên, có một số vấn đề còn chưa rõ đó là trường hợp một bên khiếu
nại về thẩm quyền của trọng tài ra Toà án theo Điều 30. Toà án xem xét và quyết

định trọng tài có thẩm quyền. Sau đó, Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp
và ra quyết định trọng tài. Vậy khi Hội đồng trọng tài đã ra Quyết định trọng tài thì
các bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án huỷ Quyết định trọng tài không có thẩm
quyền theo Điều 54 của Pháp lệnh hay không? Trong trường hợp chưa có Quyết
định của Hội đồng trọng tài mà một bên khiếu nại ra Toà án về vấn đề thẩm quyền
thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay dừng việc giải quyết
vụ tranh chấp?
Như vậy, một là, có tranh chấp về “thẩm quyền” giữa trọng tài và Toà án
trong giải quyết các vụ việc tranh chấp cụ thể cho dù các bên đã có thoả thuận
trọng tài và trong trường hợp này, trọng tài chưa phải là phương thức giải quyết
tranh chấp được ưu tiên áp dụng. Hai là, căn cứ vào điều kiện để Toà án tuyên huỷ
phán quyết của trọng tài là dễ dàng, có phần tuỳ ý và ít tốn kém đối với bên “thua
kiện”. Tiêu chí Toà án huỷ quyết định của trọng tài còn chưa rõ và rất dễ bị lạm
dụng.
2.2 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thứ nhất, Pháp lệnh Trọng tài đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng
và có ý nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu
Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm
chưa hợp lý. Điều 33 quy định “Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ
tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ
trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội
đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời”.
Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên
phải chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi
như vậy thì trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.
Do bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương,
kịp thời, nên biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền
lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến
khi khởi kiện hoặc Hội đồng trọng tài được thành lập.

Thứ hai, Pháp lệnh Trọng tài chỉ giới hạn thẩm quyền của Toà án, nơi Hội
đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Toà án và các bên trong
quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ khi các bên khởi kiện ra Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh Trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên
đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áp dụng đặt tại Hà Nội. Khi
tài sản nằm ở địa bàn khác, nhất là trường hợp tài sản ở nước ngoài, mà yêu cầu
Toà án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không khả thi
và không hợp lý.
2.3 Vấn đề triệu tập nhân chứng
Pháp lệnh Trọng tài không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài
trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng
trong tố tụng trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà
nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Toà án
có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng thì lại
không có thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội
đồng trọng tài hoặc một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu
Toà án có thẩm quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại
trọng tài. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn
khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2.4 Quy định về huỷ quyết định trọng tài
Quy định về huỷ quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những
nguyên nhân khiến cho cả số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu huỷ gia tăng đó
là cơ chế huỷ quyết định trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của Pháp lệnh quy định
“Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tàiQ, nếu có bên
không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh
nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”.
Tranh chấp là vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới

đưa ra trọng tài để giải quyết. Do vậy, quyết định trọng tài khó có thể thoả mãn
được cả hai bên. Trong khi đó, theo Pháp lệnh chỉ cần điều kiện “không đồng ý với
quyết định trọng tài” thì có quyền làm đơn yêu cầu huỷ. Điều này vô hình trung đã
khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích
khác nhau, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu
tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu
huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà
án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản
thì thực tế các quy định của Pháp lệnh trọng tài lại không được như các bên mong
đợi. Vấn đề này cần sớm được khắc phục để tránh sự lạm dụng một cách có chủ ý
của các bên, nhất là bên thua kiện tại trọng tài. Nếu không sớm giải quyết, các
quyết định trọng tài sẽ có nguy cơ trở thành các bản án sơ thẩm.
3. Giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài
Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài.
Cụ thể, phạm vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm: i) Tất cả các tranh chấp
dân sự, kinh tế và lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, trừ một số ít các
trường hợp được quy định cụ thể (5); ii) Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà
nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư,
khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam cũng có thể được giải quyết
bằng trọng tài (6).
Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài. Cần phải làm rõ, đầy
đủ cả hình thức và nội dung của thoả thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp
thoả thuận của các bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm: i) Xác
định rõ nội dung tối thiểu của thoả thuận trọng tài, là sự đồng ý của các bên về việc
sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp, hoặc đồng
ý chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp; ii) Xác định rõ và cụ thể các trường hợp
thoả thuận trọng tài vô hiệu; iii), Xác định rõ và cụ thể các thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được.

Thứ ba, Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết định hiệu lực của thoả
thuận trọng tài.
Thứ tư, nếu các bên có tranh chấp về hiệu lực thoả thuận trọng tài (kể cả
tranh chấp giữa các bên hoặc giữa một hoặc các bên với Trung tâm trọng tài) thì
Toà án là nơi có quyền quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần
xác định rõ thẩm quyền của Toà án và hiệu lực của quyết định của Toà án trong
trường hợp này.
Thứ năm, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm
quyền đối với trọng tài theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong
trường hợp nếu nhiều Toà án có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài có quyền lựa
chọn một trong các Toà án đó và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp công
việc của Toà án và không được quyền từ chối.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể, chi tiết “trách nhiệm của Toà án” trong việc
thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng
tài, cụ thể là (7) trong thời hạn cụ thể mà Toà án phải xem xét và chỉ định một
thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ; Toà án thông báo bằng văn bản về
việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm của Toà án trong
việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng (8), xác định rõ trình tự thủ tục
nhanh chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn
cấp, tạm thời.
Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp Toà án có thể huỷ quyết định của trọng
tài theo hướng hạn chế hơn việc huỷ quyết định trọng tài.
Thứ tám, cho phép Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Thứ chín, tăng cường sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với thực thi
quyết định của trọng tài thông qua việc quy định rõ tiêu chí xác định cơ quan thi
hành có liên quan. Thi hành đầy đủ, kịp thời và hiệu quả phán quyết trọng tài là
một trong số các giải pháp cơ bản nâng cao độ tin cậy và tính hấp dẫn của trọng tài
đối với các bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ
ngày công bố. Các bên tranh chấp phải thừa nhận, tôn trọng và nghiêm túc thực

hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy vậy, trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành
thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ quan thi hành án là không
thể thiếu, để bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Với các giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống trọng tài có chất
lượng, đáng tin tưởng sẽ “kéo” hoạt động giải quyết tranh chấp quay trở lại Việt
Nam, góp phần thúc đẩy ngành trọng tài và xa hơn nữa, điều này có thể hấp dẫn
những bên tranh chấp ngoài Việt Nam đến giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Việc khuyến khích giải quyết tranh chấp qua đường trọng tài cũng sẽ giảm tải gánh
nặng về công việc cho hệ thống Toà án và góp phần nâng cao chất lượng và sự tin
cậy đối với hệ thống Toà án. Tất cả điều này sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động dân sự, thương mại, nhất là
trong hoàn cảnh toàn cầu hoá như hiện nay.
Thiết nghĩ, cần phải nâng Pháp lệnh Trọng tài thành Luật Trọng tài và ban
hành Luật về Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Có như vậy, mới tạo ra
được những yếu tố bền vững đối với việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức phi
chính phủ. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật Trọng tài là tạo một cơ chế giải
quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia
các hoạt động thương mại, đầu tư. Cụ thể hơn, mục tiêu của Luật Trọng tài nhằm
khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm
tải công việc cho hệ thống Toà án. Luật Trọng tài ban hành nhằm giảm tải khoảng
30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Toà án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ
thống trọng tài vào năm 2015 (9). Trong thời gian tới khi Luật Trong tài có hiệu
lực, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát
triển, trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong
tranh chấp kinh tế.
ThS Bạch Thị Lệ Thoa, Giảng viên Khoa đào tạo Thẩm phán, Học viện Tư
pháp
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử


(1) VIAC có 140 trọng tài viên. Năm 2004 thụ lý 26 vụ; năm 2005 thụ lý 18 vụ;
năm 2008 thụ lý 48 vụ. Tính trung bình mỗi năm số vụ việc giải quyết tăng khoảng
15.
(2) Số liệu thống kê tình hình xét xử của Toà án ở 64 tỉnh thành phố giai
đoạn 1/1/2007 đến 31/12/2007.
(3) />(4) VIAC có danh sách Trọng tài viên gồm 123 người trong đó phân chia
lĩnh vực chuyên môn của trọng tài viên như sau: chuyên gia pháp luật (52%); tài
chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm (12%); xây dựng cơ khí (7%), vận tải
đường biển, đường hàng không, đường bộ (4,8%), sở hữu trí tuệ (3,1%), các lĩnh
vực khác (18%).
(5) Bao gồm: (i) tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, hôn nhân, gia
đình và thừa kế được giải quyết theo quy định tương ứng của pháp luật dân sự; (ii)
Giải quyết tranh chấp liên quan đến phá sản thực hiện theo quy định của pháp luật
về phá sản; (iii) giải quyết tranh chấp liên quan đến vụ vi phạm pháp luật về cạnh
tranh thực hiện theo quy định của pháp luật về khuyến khích cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền kinh doanh; về bảo vệ người tiêu dùng, về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ; về các hợp đồng giao kết do bị ép buộc, bị lừa dối.
(6) Đây là cụ thể hoá các quy định tương ứng Luật Đầu tư về giải quyết
tranh chấp.
(7) Điều 15 Dự thảo Luật Trọng tài quy định.
(8) Dự thảo Luật Trọng tài: Khi có yêu cầu của một bên hoặc của Hội đồng
trọng tài, Toà án có trách nhiệm tiến hành các biện pháp cần thiết bảo đảm sự có
mặt của người làm chứng đúng như yêu cầu tại các phiên xét xử của trọng tài.
(9) Báo cáo đánh giá tác động dự kiến của Luật Trọng tài thương mại.

×