Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và áp dụng xây dựng Luật trọng tài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.13 KB, 7 trang )

Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
và áp dụng xây dựng Luật trọng tài ở Việt Nam
Trong một hình thái kinh tế - xã hội, pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, do vậy
pháp luật phải xuất phát từ thực tế và phải dựa trên những quy luật khách quan của các quan
hệ xã hội mà chúng hướng đến điều chỉnh. Thực tiễn pháp luật Việt Nam đã cho thấy, nhiều
quy định của pháp luật sau khi ban hành đã không được thực hiện do pháp luật không phù
hợp với thực tế cuộc sống. Pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam sẽ chỉ phát huy hiệu
quả cao nhất nếu được ban hành phù hợp với những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Việc sửa đổi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đòi hỏi chúng ta
phải cùng nhìn nhận và phân tích những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp
này.
1. Nguyên lý về tính chất tư trong hoạt động xét xử của trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức theo đó các bên thỏa thuận lựa chọn
một chủ thể không phải là tòa án giúp mình giải quyết tranh chấp đã phát sinh. Chủ thể được
lựa chọn gọi là trọng tài và sẽ ra phán quyết về tranh chấp giữa các bên có liên quan. Có hai
loại trọng tài là trọng tài vụ việc (ad-hoc) và trọng tài thường trực. Điểm khác biệt cơ bản giữa
hai mô hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và sẽ
tự giải thể khi tranh chấp được giải quyết xong. Trong khi đó, trọng tài thường trực - như
chính tên gọi của nó - tồn tại có tính chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc
tố tụng riêng. Trọng tài thường trực là một thực thể pháp lý độc lập với đầy đủ các dấu hiệu
của một pháp nhân, trong đó dấu hiệu quan trọng nhất là có tài sản riêng và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của chính mình. Việc lựa chọn hình thức trọng tài nào để giải quyết tranh
chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Tuy nhiên, dù là trọng tài thường trực hay
trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, do vậy trong hoạt
động xét xử, trọng tài không được sử dụng quyền lực công như tòa án. Chính vì hoạt động
xét xử của trọng tài không gắn với quyền lực công nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán
tư.
Với tư cách là cơ quan tài phán tư thì điều quan trọng cần xem xét là trọng tài có hoạt
động vì mục đích lợi nhuận hay không. Trả lời câu hỏi này cần quay trở lại với bản chất của
trọng tài. Trọng tài được lập ra nhằm mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại và có thể giải quyết cả các tranh chấp dân sự khác. Tổ chức trọng tài hoạt


động xét xử mang tính chất chuyên nghiệp nên sự tồn tại của nó hoàn toàn phụ thuộc vào
doanh thu từ hoạt động xét xử (phí trọng tài). Nói cách khác, trọng tài là một tổ chức kinh tế
được lập ra để kinh doanh dịch vụ xét xử. Với quan điểm này thì rõ ràng trọng tài hoạt động vì
mục đích lợi nhuận, tức là đổi lại việc thu phí từ khách hàng - là các bên tranh chấp, trọng tài
cung cấp dịch vụ xét xử và bảo đảm cho chất lượng của dịch vụ ấy tốt nhất thông qua việc
bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư với chi phí thấp, thủ tục đơn giản và độ bảo mật
cao khi tiến hành xét xử. Vì vậy, có thể coi tổ chức trọng tài chính là một chủ thể kinh doanh
tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ xét xử. Nhận diện đúng yếu tố này sẽ giúp
cho việc quản lý nhà nước đối với trọng tài trở nên phù hợp và hiệu quả hơn.
Hơn nữa, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dựa trên sự thống
nhất thỏa thuận của các bên nên cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thực hiện theo
nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Nguyên tắc này làm phát sinh hai
yêu cầu: thứ nhất, ở chừng mực mà các thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì
Nhà nước phải thừa nhận những thỏa thuận đó. Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm đến mức tối
đa cơ hội cho các bên thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp. Bảo đảm hai yêu
cầu này chính là sử dụng phương pháp điều chỉnh bình đẳng, thỏa thuận của ngành luật dân
sự và luật kinh tế - một tiêu chí đã và đang được sử dụng để xác định ngành luật theo lý
thuyết về phân định ngành luật ở Việt Nam hiện nay.
2. Nguyên lý về sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tài phán công và tài phán tư
Hoạt động xét xử của trọng tài là một phương thức hữu hiệu giảm tải công việc cho tòa án.
Tuy nhiên, trọng tài là cơ quan tài phán tư không thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ của tòa
án - cơ quan tài phán công. Thực tế cho thấy, giải quyết bằng trọng tài rất phù hợp với những
tranh chấp liên quan đến các vấn đề về kỹ thuật đòi hỏi kiến thức chuyên sâu của một ngành
hoặc một lĩnh vực cụ thể như xây dựng, tàu biển, khai thác, thăm dò dầu khí… Đó là vì các
bên tranh chấp có thể lựa chọn trọng tài viên là những chuyên gia có kiến thức uyên thâm về
những lĩnh vực đang tranh chấp nên họ sẽ có những nhận định, đánh giá dựa trên cơ sở
khoa học chặt chẽ, chính xác. Chẳng hạn như, với tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, các
bên có thể mời kỹ sư xây dựng hoặc kiến trúc sư làm trọng tài viên. So với thẩm phán của tòa
án, những người này thường có kiến thức sâu sắc hơn về lĩnh vực xây dựng nên sẽ dễ dàng
tiếp cận vấn đề để đưa ra quyết định cuối cùng. Thực tế cho thấy, với những vụ việc tranh

chấp về một lĩnh vực chuyên sâu nhất định, tòa án cũng thường phải tham vấn chuyên gia
của lĩnh vực đó trước khi tiến hành xét xử. Do đó, nếu những chuyên gia được lựa chọn để
trực tiếp xét xử thì cũng tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc xem xét và tiếp cận vấn
đề. Trong trường hợp này, trọng tài được lập ra đã giúp tòa án giảm tải đáng kể việc giải
quyết các tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp mang tính chuyên sâu của một ngành, đòi hỏi
phải có hiểu biết về kỹ thuật của ngành đó mới có thể giải quyết được.
Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có những hạn chế nhất định như việc thành
lập trọng tài không phải lúc nào cũng có thể tiến hành được do các bên không đạt được thỏa
thuận cuối cùng về trọng tài viên. Hơn nữa, trọng tài viên có thể là chuyên gia trong nhiều lĩnh
vực khác nhau nhưng đôi khi không có kiến thức chuyên sâu về pháp luật. Vì vậy, hoạt động
xét xử của trọng tài viên có thể gặp khó khăn do thiếu kỹ năng nghiên cứu và phân tích chứng
cứ khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi chi phí
tương đối cao so với giải quyết thông qua tòa án. Cuối cùng, điều đặc biệt quan trọng là quyết
định trọng tài không được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước do
trọng tài là cơ quan tài phán tư, vì thế nếu các bên không tự giác thi hành thì phán quyết của
trọng tài cũng không có giá trị trên thực tế. Để khắc phục hạn chế này, pháp luật Việt Nam
cũng như pháp luật nhiều nước đã sử dụng cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa trọng tài (tài phán tư)
và tòa án (tài phán công). Vì tài phán tư ra đời góp phần làm giảm tải hoạt động xét xử của tài
phán công thì đổi lại tài phán công - với khả năng sử dụng quyền lực công của mình - cũng
cần hỗ trợ tài phán tư trong hoạt động xét xử. Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai cơ chế tài phán
này là tất yếu, vấn đề đặt ra là pháp luật cho phép hoặc thừa nhận sự hỗ trợ giữa hai hình
thức tài phán này đến đâu và ở mức độ nào mà thôi. Chúng ta cần thừa nhận nguyên tắc là ở
chừng mực có thể và nếu mang lại hiệu quả thì pháp luật nên cho phép tối đa hóa sự hỗ trợ
lẫn nhau giữa hai cơ chế tài phán này. Sự hỗ trợ nên được thực hiện xuyên suốt từ giai đoạn
xét xử cho đến giai đoạn thi hành phán quyết trọng tài.
3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam
- Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Hiện nay trên thế giới có hai quan điểm cơ bản về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài. Chẳng hạn như pháp luật của Liên bang Nga chỉ trao cho trọng tài thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại - đó là những tranh chấp phát sinh khi có ít nhất một bên trong

tranh chấp thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003 của Việt Nam cũng quy định theo hướng này. Chính vì giới hạn thẩm quyền của trọng
tài như trên nên ở những nước này trọng tài được hiểu là trọng tài thương mại. Khác với
quan điểm này, nhiều quốc gia mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo
đó cơ quan tài phán tư không chỉ giải quyết các tranh chấp về thương mại mà còn giải quyết
các tranh chấp khác phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, lao động, bao gồm cả các tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng và tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng. Do thẩm quyền của
trọng tài không chỉ giới hạn ở việc giải quyết tranh chấp thương mại nên cơ quan này không
gọi là “trọng tài thương mại” mà chỉ gọi là “trọng tài”. Có nhiều quốc gia theo quan điểm thứ
hai như Trung Quốc, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Singaopre... Hiện nay, Dự thảo
Luật Trọng tài của Việt Nam cũng theo xu hướng này, với lập luận như sau: “Luật Trọng tài
không chỉ quy định thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp thương mại mà còn cần quy định
trong một phạm vi rộng hơn trong lĩnh vực dân sự, lao động theo yêu cầu của các bên và các
bên tranh chấp không chỉ là tổ chức, cá nhân kinh doanh. Với tính cách là hình thức tài phán
tư, trọng tài cần được tạo điều kiện để có thể giải quyết tất cả các tranh chấp tư, bao gồm cả
các tranh chấp hợp đồng và ngoài hợp đồng, trừ những quan hệ liên quan tới lợi ích công
cộng và trật tự công cộng. Theo nghĩa đó, Luật Trọng tài sẽ phù hợp hơn nữa với nguyên tắc
quyền tự do định đoạt của các bên, bao gồm cả quyền tự do định đoạt phương thức giải
quyết tranh chấp” (1).
Với quan điểm rộng hơn nữa, các chuyên gia của Dự án STAR làm việc trong chương
trình Hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam thực hiện Hiệp định thương mại song phương Việt Nam -
Hoa Kỳ và gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho rằng, trọng tài không chỉ giải
quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng mà còn nên được trao thẩm quyền giải quyết cả
những tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính.
STAR bình luận như sau: “Việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp hành chính là
thông lệ được phép ở một số nước khác. Chẳng hạn, Mục 575 của Luật Thủ tục hành chính
cho phép giải quyết tranh chấp hành chính bằng trọng tài nếu “tất cả các bên đồng ý”. Việt
Nam cũng nên xem xét điều này. Tại sao lại không cho phép một cơ quan đứng ra làm trọng
tài nếu cơ quan đó cho rằng, đó là cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp?”(2).
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài.

Có lẽ, với bản chất là cơ quan tài phán tư, chúng ta không nên nhận diện thẩm quyền xét xử
của trọng tài rộng đến mức bao gồm cả những tranh chấp thuộc lĩnh vực luật công như quan
điểm của các chuyên gia STAR. Đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính là một bên chủ
thể luôn là Nhà nước, do đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính chấp hành và
điều hành. Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận không được sử dụng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội này, vì thế không cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp. Chính vì vậy, tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước
cần phải được giải quyết tại tòa án - cơ quan tài phán công.
Quan điểm trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp tư có sức thuyết phục
hơn bởi đặc trưng của quan hệ pháp luật tư là sự bình đẳng thỏa thuận và trọng tài là hình
thức tài phán tư do các bên lựa chọn. Việc quy định thẩm quyền của trọng tài chỉ trong lĩnh
vực tranh chấp thương mại là không thể hiện được hết bản chất của quan hệ pháp luật tư -
tức là quan hệ pháp luật được điều chỉnh bằng phương pháp bình đẳng thỏa thuận, cho phép
các bên thỏa thuận về nội dung quan hệ pháp luật cũng như phương thức giải quyết tranh
chấp phát sinh, miễn là những thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội.
Chính vì vậy, nên trao cho trọng tài thẩm quyền giải quyết tất cả các quan hệ pháp luật thuộc
lĩnh vực tư.
Tuy nhiên, nếu tranh chấp tư được giải quyết bằng trọng tài thì vai trò của tòa án trong lĩnh
vực này còn cần thiết không? Chúng ta cần lưu ý rằng, xét đến cùng trọng tài không thể tồn
tại biệt lập mà luôn cần sự hỗ trợ từ phía tòa án. Do đó, các bên trong tranh chấp tư vẫn cần
có cơ hội tiếp cận tòa án ngay cả khi đã có phán quyết trọng tài thông qua việc yêu cầu tòa án
hủy hoặc công nhận quyết định trọng tài. Như vậy, sự tồn tại của trọng tài không phủ nhận vai
trò của tòa án trong xét xử các tranh chấp tư mà là sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt
động xét xử. Đồng thời sự tồn tại của trọng tài cũng là để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật tư.
- Về cách thức quản lý nhà nước đối với trọng tài
Trọng tài được thành lập như thế nào và cơ quan nhà nước nào nên được trao quyền trực
tiếp quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài? Có ý kiến cho rằng nên trao cho Bộ Tư
pháp quyền trực tiếp quản lý nhà nước đối với trọng tài, đặt trong sự phối hợp với Hội Luật
gia Việt Nam. Bên cạnh đó, có ý kiến ủng hộ quan điểm cho rằng không nên đặt ra vấn đề

quản lý nhà nước đối với trọng tài với tính cách là một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, do đó,
không nhất thiết phải trao cho Bộ Tư pháp thẩm quyền này. Quan điểm thứ nhất được ghi
nhận trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 và vẫn tiếp tục được khẳng định trong
Dự thảo Luật Trọng tài. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trọng tài là một tổ chức kinh tế được thành
lập để kinh doanh dịch vụ xét xử thì trọng tài cũng là một chủ thể kinh doanh (có thể và nên
tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp). Như vậy thì cần đặt việc thành lập trọng tài trong mối
quan hệ với việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Theo quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp sẽ đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch
và đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp
kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì phải có giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên môn) cấp. Vấn đề ở
đây là nếu coi hoạt động kinh doanh dịch vụ xét xử của trọng tài là ngành nghề kinh doanh có
điều kiện thì nên trao cho Bộ (hoặc Sở) Tư pháp xác nhận đủ điều kiện thành lập trọng tài.
Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, chúng tôi
cho rằng không nên coi hoạt động trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bởi những
lý do sau:
Trước hết, Bộ Tư pháp không cần quản lý nghiệp vụ xét xử của trọng tài bởi vì bản thân
hoạt động của trọng tài đã có một cơ chế giám sát nó, đó là niềm tin của khách hàng vào chất
lượng dịch vụ xét xử và sự hỗ trợ, giám sát của thiết chế tài phán công - tòa án. Khi trọng tài
hoạt động với tư cách của doanh nghiệp thì chất lượng dịch vụ xét xử tốt sẽ tạo cho nó khả
năng đứng vững trong quá trình cạnh tranh giữa các tổ chức trọng tài. Nếu không, trọng tài
sớm muộn cũng sẽ bị đào thải trước sự cạnh tranh vô tận của thị trường. Hơn nữa, bản thân
trọng tài không đứng độc lập mà ở chừng mực nhất định còn có sự hỗ trợ, giám sát của tòa
án. Tòa án, nếu có căn cứ, vẫn có quyền ra quyết định hủy hoặc không hủy quyết định trọng
tài. Đối với trọng tài viên, Bộ Tư pháp cũng rất khó có thể thẩm định được năng lực của họ
bởi vì trọng tài viên không nhất thiết phải là người có trình độ luật học mà có thể là chuyên gia
của nhiều lĩnh vực khác nhau.
Theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 và Dự thảo Luật Trọng tài
thì tổ chức trọng tài có nhiệm vụ phải báo cáo định kỳ hàng năm hoạt động của tổ chức với
Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp, nơi tổ chức trọng tài đăng ký hoạt động. Điều này là không cần

thiết bởi vì nguyên tắc hoạt động của tổ chức trọng tài khi xét xử là bảo mật, do đó không nên
yêu cầu trọng tài phải báo cáo định kỳ với Bộ hoặc Sở Tư pháp, mà chỉ nên quy định nghĩa vụ
này đối với tổ chức trọng tài nếu có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong trường hợp cần thiết. Cùng nhận định như vậy, các chuyên gia của dự án STAR
cho rằng “Yêu cầu về việc các tổ chức trọng tài phải cung cấp bản sao các quyết định trọng
tài cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất khó hiểu. Một trong các lợi ích cơ bản của
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là lời cam kết bảo mật toàn bộ quy trình thủ tục và
phán quyết trọng tài. Tất nhiên, có những trường hợp cơ quan nhà nước có thể hỏi xin bản
sao các phán quyết trọng tài và trong những trường hợp đó, cơ quan nhà nước có yêu cầu
phải có văn bản chính thức, chẳng hạn thông qua một trát yêu cầu của tòa” (3).
Một lý do khác chứng minh cho việc không nên coi hoạt động của trọng tài là ngành nghề
kinh doanh có điều kiện đó là theo quy định của pháp luật hiện hành thì hồ sơ xin phép thành
lập tổ chức trọng tài bao gồm đơn đề nghị thành lập, dự thảo điều lệ của tổ chức trọng tài và
văn bản giới thiệu của Hội Luật gia Việt Nam. Chúng ta chưa rõ cơ sở của việc quy định các
loại giấy tờ trên khi xin phép thành lập tổ chức trọng tài là gì nhưng có lẽ Bản Dự thảo điều lệ
của tổ chức trọng tài sẽ là văn bản mà Bộ Tư pháp quan tâm nhất bởi sau khi được thông
qua, Bản Điều lệ sẽ đưa ra những quy định về quy tắc tố tụng, phí trọng tài, danh sách trọng
tài viên... Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu những vấn đề này có cần phải được thẩm định
trước khi thành lập tổ chức trọng tài hay không? Có lẽ không cần thiết phải làm như vậy, bởi

×