Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.9 KB, 40 trang )

Lời nói đầu

Luật doanh nghiệp đợc Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999
và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất
cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh
nghiệp nh Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh
và Doanh nghiệp t nhân. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, Chính phủ, các Bộ,
ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hớng dẫn thi hành Cùng với
Luật doanh nghiệp Nhà nớc, Luật hợp tác xã, Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam, Luật Khuyến khích đầu t trong nớc , Luật Doanh nghiệp đợc ban hành
đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị
pháp lý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, phục vụ cho nền
công nghiệp hoá, hiện đại hóa nớc nhà.
Tuy nhiên sau hơn bốn năm thi hành, Luật doanh nghiệp cũng đã bộc lộ
những hạn chế nhất định; nhiều quy định tỏ ra bất hợp lý, cần phải có những
sửa đổi, bổ sung kịp thời; nhiều vấn đề phát sinh cần đợc nghiên cứu, lý giải
để để góp phần xây dựng cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp có hiệu quả trong
đời sống xã hội. Nói cách khác là sau một thời gian phát huy hiệu lực, bên
cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận, thì cũng dần xuất hiện không ít
những vấn đề khó khăn cần phải đợc giải quyết, cả về lý luận cũng nh cơ chế
thi hành. Việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo luật
doanh nghiệp trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
khi chúng ta đang cố gắng để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì lý do đó,
tôi đã chọn đề tài Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo
Luật doanh nghiệp .
Do trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, cũng nh phạm vi rộng và
tính phức tạp của đề tài, tiểu luận không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong
nhận đợc sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo để bài viết đợc
hoàn thiện hơn.
Chơng I
Khái quát chung về Luật doanh nghiệp


I. Sự ra đời luật doanh nghiệp
Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời
kỳ đổi mới (đợc Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã thể hiện bớc đột
11
phá, đánh dấu sự thay đổi trong t duy kinh tế của Đảng và Nhà nớc, tạo cơ sở
chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế t nhân ở nớc ta.
Với tính thời sự và tầm quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng
và Nhà nớc ta đề ra và quan tâm thực hiện, những quy định trong Luật công ty
và Luật Doanh nghiệp t nhân ban hành trớc đây tỏ ra không còn thích hợp với
nội dung tơng ứng của một số Luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật khuyến
khích đầu t trong nớc, Bộ luật dân sự, Luật thơng mại
Ngoài ra, cũng phải kể đến trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nớc ta
hiện nay đã đạt đợc mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trớc đây. Chính sự
phát triển đó đã tạo ra lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật doanh
nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân. Luật
Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, nội dung đầy đủ bao quát
hơn, phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nớc và yêu cầu đa dạng hoá hình
thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn
mới.
Luật doanh nghiệp đã đợc xây dựng trên cơ sở bám sát các t tởng chỉ đạo
sau đây:
Một là, Quán triệt đầy đủ t tởng, nội dung, tinh thần của Nghị quyết hội
nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 khóa VIII về tiếp tục hoàn thiện môi trờng kinh
doanh theo pháp luật.
Hai là, Hiến pháp năm 1992, các Bộ Luật, Luật đã ban hành liên quan đến
hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp.
Ba là, Nội dung luật doanh nghiệp trớc hết phải xuất phát từ thực tiễn, từ
yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi, giải quyết những vớng mắc của đời sống kinh
tế đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh nội lực.
Bốn là, Kế thừa những kinh nghiệm quý báu đúc kết đợc trong quá trình

thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân, cũng nh học tập tham
khảo kinh nghiệm của các nớc để xây dựng Luật doanh nghiệp hiện đại góp
phần thích nghi và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nớc ta vào kinh tế khu
vực và thế giới.
Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X ngày 12/6/1999, Luật
doanh nghiệp đã đợc thông qua, đánh dấu một bớc tiến mới, quan trọng trong
quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trờng kinh doanh thuận lợi,
thông thoáng hơn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu t phát triển các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nớc, nhằm góp phần phát huy nội lực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nớc, đẩy mạnh công cuộc đổi
22
mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trớc pháp luật trong kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu t; tăng cờng hiệu lực quản lý Nhà nớc đối với các hoạt
động kinh doanh.
II. Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp
1. Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
Thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp t nhân, Luật Doanh
nghiệp quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình
công ty và doanh nghiệp t nhân. Các doanh nghiệp Nhà nớc sau khi đợc cổ
phần hoá, kể cả trờng hợp Nhà nớc có cổ phần chi phối tại doanh nghiệp;
doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội sau khi chuyển
đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn cũng thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000
của Chính phủ hớng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp thì
những loại hình doanh nghiệp sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
doanh nghiệp và các văn bản hớng dẫn thi hành:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và
doanh nghiệp t nhân đợc thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp;

+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp t nhân
đã thành lập theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân ngày
21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh
nghiệp t nhân, Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty ngày 22 tháng 6 năm
1994;
+ Công ty cổ phần đợc thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nớc;
+ Công ty cổ phần đợc cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng, doanh
nghiệp của tổ chức chính trị xã hội;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn đợc thành lập từ việc chuyển đổi doanh
nghiệp Nhà nớc;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn đợc thành lập từ việc chuyển đổi doanh
nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị xã hội.
Luật doanh nghiệp, cụ thể là các quy định về công ty trách nhiệm hữu
hạn một chủ sở hữu là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc các tổ chức
chính trị xã hội đăng ký và hoạt động. Nh vậy, Luật doanh nghiệp điều
chỉnh phần lớn các loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại Việt
33
Nam (trừ Hợp tác xã, Doanh nghiệp Nhà nớc, và Doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài hoạt động theo Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt nam).
2. Đối tợng đợc quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp và góp
vốn vào doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp, đối tợng đợc quyền thành lập,
góp vốn và quản lý doanh nghiệp đợc mở rộng hơn so với Luật công ty và
Luật doanh nghiệp t nhân. Trong Luật doanh nghiệp vấn đề ngời đợc quyền
góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp đợc quy định theo phơng pháp
loại trừ, theo đó mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập, quản lý và góp
vốn vào doanh nghiệp, trừ trờng hợp bị cấm đợc liệt kê trong Luật (điều 9,
điều 10). Cách tiếp cận này của Luật doanh nghiệp tạo lập đợc các công cụ
pháp lý để tập trung huy động vốn kinh doanh. Để huy động mọi nguồn lực

cho phát triển kinh tế, Luật doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể
có nguồn lực đợc đóng góp vào hoạt động kinh doanh.
3. Thủ tục thành lập doanh nghiệp.
So với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp t nhân, Luật Doanh nghiệp
đã có bớc tiến quan trọng trong các quy định về thủ tục thành lập doanh
nghiệp. Luật doanh nghiệp xoá bỏ thủ tục xin cho trong thành lập doanh
nghiệp.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật công ty và Luật doanh nghiệp
t nhân và thực hiện chủ trơng cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập
doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã hoàn thiện những quy định về thành lập
và đăng ký kinh doanh theo hớng đơn giản hóa thủ tục hành chính và hồ sơ, đề
cao trách nhiệm của ngời đăng ký kinh doanh trong việc bảo đảm tính chính
xác, trung thực. So với Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân, các quy
định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp đã có
những đổi mới cơ bản nh: xoá bỏ chế độ xin phép thành lập, chỉ thực hiện việc
đăng ký kinh doanh; coi việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do kinh
doanh, đợc pháp luật bảo đảm, góp phần xoá bỏ cơ chế xin-cho đang tồn tại
khá phổ biến trong đời sống kinh tế-xã hội nớc ta. Đây chính là một bớc tiến
mới trong việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của Luật doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp quán triệt t tởng thành lập doanh nghiệp và đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật là quyền của công dân và tổ chức đợc
Nhà nớc bảo hộ đã quy định giản đơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh. Ngoại
trừ việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề kinh doanh
phải có vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề, hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ
44
bao gồm: (i) Đơn đăng ký kinh doanh; (ii) Điều lệ đối với công ty; (iii) Danh
sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên
hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông cổ đông sáng lập đối
với công ty cổ phần.
Bên cạnh việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, Luật doanh

nghiệp còn bãi bỏ quy định về vốn pháp định đối với doanh nghiệp ở hầu hết
các ngành nghề. Với mục đích phát huy nội lực, huy động tối đa nguồn lực
trong dân chúng, Luật doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một
điều kiện để thành lập doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp kinh doanh ở một
số ngành nghề đợc quy định trong các luật chuyên ngành. Nh vậy, theo Luật
Doanh nghiệp thì chỉ có một số ngành nghề nhất định mới đòi hỏi có xác nhận
vốn pháp định (nh kinh doanh vàng, bảo hiểm, tín dụng).
Ngoài ra Luật doanh nghiệp cũng không yêu cầu nhà đầu t phải xuất
trình phơng án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân thân của chủ đầu
t nh giấy chứng nhận sức khoẻ, hộ khẩu thờng trú khi đăng ký kinh doanh
thành lập doanh nghiệp mà chỉ kê khai các thông tin này theo mẫu quy định.
Tóm lại, Luật doanh nghiệp đã thực hiện một cuộc cải cách thủ tục
hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp theo hớng gộp việc xin phép
thành lập và đăng ký kinh doanh thành một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ
tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà
nớc. Những cải cách đó sẽ giảm bớt đợc chi phí về thời gian, công sức và tiền
bạc cho việc thành lập doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp
có đợc sự chủ động trong hoạt động. Những cải cách đó cũng sẽ tháo bỏ đợc
một cản trở đã tồn tại nhiều năm qua đối với việc thành lập doanh nghiệp, làm
cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn đối với
dân chúng và doanh nghiệp, qua đó giúp cho xã hội huy động đợc nguồn vốn
đa vào phát triển kinh doanh, làm tăng sức cạnh tranh của thị trờng để làm cho
nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn.
4. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp.
Đây là một nội dung hoàn toàn mới của Luật Doanh nghiệp so với Luật
công ty và Luật doanh nghiệp t nhân. Mục đích và ý nghĩa của Luật doanh
nghiệp khi quy định về các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp là nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu t trong tổ chức vận hành hoạt động kinh
doanh. Bởi vì có thể cũng là một loại hình kinh doanh, nhng tại giai đoạn này
thì phù hợp , nhng sang giai đoạn khác lại không phù hợp nữa. Việc quy định

các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu t có
55
thể thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế. Hơn
nữa, việc đa ra một khung pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp nhằm giúp
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ đợc lợi ích của các bên liên quan
nh chủ nợ, ngời lao động, Nhà nớc
Luật doanh nghiệp đã quy định khá đầy đủ về vấn đề tổ chức lại doanh
nghiệp. Các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp đ-
ợc xây dựng trên cơ sở vận dụng những nguyên tắc chung về tổ chức lại pháp
nhân đợc quy định trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, các biện pháp tổ chức lại
doanh nghiệp đợc đề cập trong Luật doanh nghiệp có nội dung là tổ chức lại
công ty, cụ thể nh sau:
4.1.Chia doanh nghiệp
Chia doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đợc áp dụng
cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đợc chia thành một số công ty mới cùng loại.
Viêc chia công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội
đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định chia công ty phải có các nội
dung chủ yếu: tên, trụ sở công ty hiện có, số lợng công ty sẽ thành lập;
nguyên tắc và thủ tục chia tài sản công ty; phơng án sử dụng lao động, thời
hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị
chia sang công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công
ty bị chia, thời hạn chia công ty.
Sau khi xác lập t cách pháp lý cho các công ty mới (đăng ký kinh
doanh), công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại. Các công ty mới thành lập phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ cha thanh toán và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bị chia, trừ trờng hợp chủ nợ và các công ty mới
thành lập có thoả thuận khác.
4.2.Tách doanh nghiệp
Tách doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đợc áp dụng

cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó một phần tài
sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (công ty bị tách) đợc tách ra để
thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (công ty đợc tách) mà không
chấm dứt sự tồn tại của công ty bị tách. Việc tách công ty do Hội đồng thành
viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định.
Quyết định tách công ty phải có các nội dung chủ yếu : tên, trụ sở công ty bị
tách, số lợng công ty đợc tách; phơng án sử dụng lao động; giá trị tài sản, các
66
quyền và nghĩa vụ đợc chuyển từ công ty bị tách sang công ty đợc tách, thời
hạn thực hiện tách công ty.
Sau khi xác lập t cách pháp lý cho công ty đợc tách, công ty bị tách và
công ty đợc tách phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bị tách phát sinh trớc khi tách công ty, trừ trờng
hợp chủ nợ, ngời có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách và công ty đ-
ợc tách có thoả thuận khác.
4.3. Hợp nhất doanh nghiệp
Hợp nhất là biện pháp tổ chức lại đợc áp dụng cho tất cả các loại hình
công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất)
hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị hợp nhất.
Để thực hiện việc hợp nhất, các công ty bị hợp nhất phải thiết lập một
hợp đồng gọi là hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải có các nội dung
chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị hợp nhất và công ty hợp nhất; thủ tục và
điều kiện hợp nhất; phơng án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện
chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty
bị hợp nhất thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty hợp nhất; thời hạn
thực hiện hợp đồng hợp nhất. Các thành viên, cổ đông của công ty bị hợp nhất
thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, thiết lập bộ máy tổ
chức quản lý công ty và đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất. Sau khi

đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất, các công ty bị hợp nhất chấm dứt
sự tồn tại, công ty hợp nhất đợc hởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu
trách nhiệm về các khoản nợ cha thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa
vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
4.4. Sáp nhập doanh nghiệp
Sáp nhập là biện pháp tổ chức lại đợc áp dụng cho tất cả các loại hình
công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp
nhập) sáp nhập vào một công ty mới (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp
nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Để thực hiện việc sáp nhập, các công ty có liên quan (công ty bị sáp
nhập và công ty nhận sáp nhập) phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng
sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở
công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập;
77
phơng án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản;
chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành
vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện hợp
đồng sáp nhập. Các thành viên, cổ đông của các công ty có liên quan thông
qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và đăng ký kinh doanh
cho công ty nhận sáp nhập. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp
nhập, các công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, công ty nhận sáp nhập đợc
hởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ cha
thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị
sáp nhập.
4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp
Chuyển đổi doanh nghiệp đợc hiểu là biện pháp tổ chức lại doanh
nghiệp theo đó một doanh nghiệp loại hình này (doanh nghiệp đợc chuyển
đổi) chuyển thành một doanh nghiệp thuộc loại hình khác. Theo Luật doanh
nghiệp thì chuyển đổi doanh nghiệp chỉ đợc áp dụng cho công ty trách nhiệm

hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi
thành công ty cổ phần hoặc ngợc lại.
Để thực hiên việc chuyển đổi công ty, Hội đồng thành viên hoặc Đại
hội đồng cổ đông của công ty đợc chuyển đổi thông qua quyết định chuyển
đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội
dung: tên, trụ sở công ty đợc chuyển đổi và công ty chuyển đổi; thời hạn và
điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty đợc
chuyển đổi thành tài sản, phần vố góp, cổ phần, trái phiếu của công ty chuyển
đổi; phơng án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện chuyển đổi. Công ty
chuyển đổi phải đợc đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có
thẩm quyền. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty chuyển đổi, công ty đợc
chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi đợc hởng các quyền và lợi
ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ cha thanh toán, hợp đồng lao
động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty đợc chuyển đổi.
5. Giải thể doanh nghiệp
Theo Luật doanh nghiệp, vấn đề giải thể doanh nghiêp t nhân và công ty
đợc quy định chung. Luật doanh nghiệp có quy định các trờng hợp giải thể tự
nguyện và các trờng hợp giải thể bắt buộc, nhng chỉ quy định một thủ tục để
tiến hành giải thể cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc. Thủ tục
giải thể doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp bao gồm các bớc cơ bản là:
(1)Thông qua quyết định giải thể, (2)Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng
88
ký kinh doanh, các chủ nợ, ngời có quyền và lợi ích liên quan và đăng báo
quyết định giải thể, (3)Tiến hành thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ và
thanh lý các hợp đồng, (4)Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp
trong sổ đăng ký kinh doanh
6. Quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của Luật doanh nghiệp trong việc đa ra những quy định về
quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu t trong việc thành lập doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nớc

bằng pháp luật đối với doanh nghiệp; góp phần ngăn ngừa khả năng một số
cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn đợc giao để sách nhiễu, gây phiền hà
cho các nhà đầu t và doanh nghiệp.
II. Những thành tựu đạt đợc
Trong hơn 3 năm thi hành Luật doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nớc từ
Trung ơng đến địa phơng, cộng đồng doanh nghiệp đã làm đợc nhiều việc và
thu đợc những kết quả nổi bật trong đổi mới phát triển kinh tế đất nớc. Những
kết quả quan trọng phải kể đến là:
1. Về phía các cơ quan Nhà nớc,
Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà nớc có
thẩm quyền đã ban hành tơng đối kịp thời và đầy đủ các văn bản hớng dẫn thi
hành. Để thi hành Luật doanh nghiệp, ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tớng
Chính phủ đã ký 3 văn bản quan trọng hớng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp,
đó là: Nghị định số 02/2000/NĐ - CP về đăng ký kinh doanh; Nghị định số
03/2000/ NĐ - CP hớng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp;
Quyết định 19/2000/QĐ -TTg về bãi bỏ 84 loại giấy phép trái với quy định
của Luật doanh nghiệp. Ngày 2/3/2000, Bộ Kế hoạch và Đầu t đã ban hành
Thông t 03/2000/TT-BKH hớng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh
đối với các doanh nghiệp quy đinh tại Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá
thể, ban hành 25 biểu mẫu về kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng
ký kinh doanh áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nớc. Nh vậy, chỉ sau một
tháng, kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành đợc
các văn bản quan trọng nhất hớng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đảm bảo
thực thi những t tởng đổi mới chủ yếu của Luật về quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật, đảm bảo việc đăng ký kinh doanh đợc tiến hành thuận lợi. Có
thể nói, tuy có chậm hơn so với yêu cầu cuộc sống, song việc hớng dẫn thi
hành Luật doanh nghiệp đã đợc tiến hành khẩn trơng, nghiêm túc và có nhiều
tiến bộ hơn so với một số Luật khác. Thủ tớng Chính phủ đã quan tâm theo
dõi và trực tiếp chỉ đạo việc triển khai thi hành Luật doanh nghiệp. Ngày
99

22/5/2000 tại công văn số 34/CP-ĐMDN về việc thi hành Luật doanh nghiệp,
Thủ tớng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan có liên quan thuộc Chính phủ
và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng giải quyết một số
vấn đề vớng mắc trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp. Trong quá trình thực
hiện Luật doanh nghiệp, Chính phủ tiếp tục xem xét, rà soát, bãi bỏ các loại
giấy phép con trái với quy đinh của Luật doanh nghiệp. NĐ 30/CP (có hiệu lực
từ ngày 26/8/2000 ra đời, bãi bỏ 61 giấy phép con, và chuyển một số giáy
phép này thành điều kiện kinh doanh.
2. Về tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp ra đời là khâu đột phá trong đổi mới t duy kinh tế,
nhất là t duy về quyền và nghĩa vụ của công dân, của cơ quan Nhà nớc, thúc
đẩy xây dựng và thực thi luật pháp theo nguyên tắc công dân đợc quyền kinh
doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Luật doanh nghiệp tạo ra một bớc phát triển mới, thực sự cải cách khâu
gia nhập thị trờng; tức là tự do thành lập doanh nghiệp với các hình thức khác
nhau (với thủ tục thành lập đơn giản ít tốn kém); tự do lựa chọn, thay đổi và
bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh mới; tự do lựa chọn địa bàn kinh doanh,
và mở rộng kinh doanh sang địa bàn, vùng lãnh thổ mới, v.v Những cản trở
đối với các công việc nói trên về cơ bản đã đợc xoá bỏ. Thời gian trung bình
cần thiết để thành lập đợc doanh nghiệp trớc năm 2000 là 90 ngày, thì nay rút
xuống còn 7 ngày; nhiều nơi đã rút xuống còn 2 đến 4 ngày, so với thời hạn 15
ngày theo luật định. Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh
doanh qua mạng, rút ngắn thời hạn đăng ký kinh doanh xuống chỉ còn 1 giờ.
Chi phí trung bình bằng tiền để thành lập một doanh nghiệp trớc đây là hơn 10
triệu đồng (có trờng hợp cá biệt là 380 triệu đồng) thì nay giảm xuống còn
500 ngàn đồng.
Thành tựu đạt đợc từ việc thực hiện Luật Doanh nghiệp còn thể hiện ở
chỗ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của ngời dân đợc thể chế hoá và
đảm bảo tốt hơn; nhờ đó, mọi tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp
đều thành lập đợc doanh nghiệp một cách kịp thời và nhanh chóng. Khảo sát

thực tế cho thấy không ít ngời đã có ý định thành lập doanh nghiệp từ 2 - 3
năm trớc đây nhng đã không làm đợc điều đó; bởi vì, họ không xin đợc giấy
phép thành lập, hoặc khi đã xin đợc giấy phép thành lập rồi thì lại không xin
đợc các loại giấy phép kinh doanh khác. Luật doanh nghiệp đã trở thành công
cụ pháp lý bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp; là yếu tố góp phần
củng cố niềm tin của ngời dân vào công cuộc đổi mới. Có thể nói, việc thực
1
0
1
0
hiện Luật doanh nghiệp đã thổi một luồng sinh khí mới vào môi trờng kinh
doanh, khơi dậy và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tinh thần tự do
sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh, làm cho cộng đồng doanh nghiệp tự tin
hơn trong hoạt động đầu t và kinh doanh; tăng thêm sự tin tởng của nhân dân
vào đờng lối và chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nớc.
Nhân dân nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng đã ủng hộ, h-
ởng ứng và đón nhận luồng sinh khí mới một cách tích cực trên phạm vi
toàn quốc. Đa số các doanh nghiệp đã nhận thức đợc sự thay đổi và quyền
kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh
doanh, trên nguyên tắc đợc kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không
cấm. Rõ ràng, Luật doanh nghiệp là một trong các điển hình về ý Đảng hợp
lòng dân, nhanh chóng phát huy tác dụng trong thực tế cuộc sống. Thực tế
cho thấy: Số doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập tăng gấp
nhiều lần so với những năm trớc đây. Ngay sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu
lực, trong năm 2000, đã có hơn 14.417 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh,
gấp khoảng 2,5 lần so với năm 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký kinh
doanh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng đều tăng nhiều so với
trớc; có những tỉnh nh Bắc Giang, Hà Giang, Hà tĩnh, Quảng Bình, Hng
Yên riêng số doanh nghiệp đăng ký mới trong năm 2000 bằng hoặc gần
bằng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm (1991-1999). Trong số doanh

nghiệp mới đăng ký, có khoảng 88% số doanh nghiệp thành lập mới, 9% số
doanh nghiệp thành lập bằng chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể và số còn lại
chuyển đổi từ hợp tác xã và các loại hình doanh nghiệp khác. Tiếp đó, trong
năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp đăng ký thành lập, tăng gần 50% so với
năm 2000. Tính tổng số trong 2 năm 2000-2001 đã có 37.457 doanh nghiệp
mới đăng ký (gần bằng tổng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm 1991-
1999). Ngoài ra, trong hai năm 2000-2001 còn có thêm gần 300.000 hộ kinh
doanh cá thể mới đăng ký kinh doanh. Ba tháng đầu năm 2002, theo thống kê
cha đầy đủ đã có khoảng 4.200 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh.
Trong 2 năm 2000-2001, các doanh nghiệp đã đăng ký mới và bổ sung
tổng cộng gần 55.500 tỷ đồng vốn (khoảng gần 4 tỷ đô la Mỹ), không thấp
hơn số vốn đăng ký đầu t của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài trong
cùng thời kỳ. Năm 2000 gần 20.000 tỷ đồng (trong đó, có 14.000 tỷ đồng là
vốn mới đăng ký và 6.000 tỷ đồng vốn mới đăng ký bổ sung), cao gấp 3 lần so
với năm 1999. Năm 2001 là 35.500 tỷ đồng, trong đó vốn mới đăng ký là
1
1
1
1
26.500 tỷ đồng, và số vốn đăng ký mới bổ sung là 9.000 tỷ đồng; tăng hơn
1,78 lần so với năm 2000.
Cơ cấu loại hình doanh nghiệp cũng có thay đổi quan trọng. Trong số
doanh nghiệp thành lập năm 2000 có: 6412 doanh nghiệp t nhân (chiếm 44%),
7304 công ty trách nhiệm hữu hạn (chiếm 51%), 726 công ty cổ phần và 2
công ty hợp danh (trong những năm 1991-1999 Doanh nghiệp t nhân chiếm
khoảng 75% tổng số doanh nghiệp). Số công ty cổ phần mới thành lập trong
năm 2000 nhiều hơn số Công ty cổ phần đợc thành lập trong 9 năm trớc đó
(không kể doanh nghiệp Nhà nớc cổ phần hóa).
Doanh nghiệp mở rộng thêm quy mô và địa bàn kinh doanh với nhiều
hình thức nh mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, đầu t thêm vốn, sử dụng

thêm lao động, v.v cũng là hiện tợng mới rõ nét hơn nhiều so với thời kỳ tr-
ớc đó. Nhờ môi trờng kinh doanh đợc cải thiện, nhất là không bị ràng buộc,
khống chế bất hợp lý của các loại giấy phép, một số doanh nghiệp đã tận dụng
hết năng lực sản xuất đợc xây dựng từ trớc, hoặc đầu t mở rộng thêm quy mô,
địa bàn kinh doanh. Riêng trong năm 2000, trong cả nớc có hơn 5000 chi
nhánh, văn phòng đại diện đợc thành lập; có hơn 4000 doanh nghiệp đăng ký
bổ sung thêm vốn kinh doanh, khoảng hơn 8000 doanh nghiệp đăng ký bổ
sung thêm ngành nghề kinh doanh tập trung chủ yếu ở các ngành nghề đã bị
bãi bỏ giấy phép. Ví dụ, ở Hà Nội, số doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành
nghề kinh doanh trong các ngành, nghề bãi bỏ giấy phép tăng từ 6,7% năm
1999 lên 65% năm 2000. Số lợng lớn doanh nghiệp hiện có mở thêm chi
nhánh, văn phòng đại diện, bổ sung thêm vốn, ngành, nghề kinh doanh trong
năm 2000 cũng là hiện tợng cha từng có trớc đây ở nớc ta.
Xét về khía cạnh pháp lý, với những quy định mới trong Luật Doanh
nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên ổn định và chắc chắn
hơn; không còn bị giới hạn cả về nội dung và thời gian hạn hẹp và cứng nhắc
của giấy phép (ví dụ, trớc đây có giấy phép quy định doanh nghiệp chỉ đợc
đóng tàu có trọng tải không quá 200 tấn; nếu doanh nghiệp đóng tàu có trọng
tải lơn hơn 200 tấn thì bị coi là kinh doanh trái phép; có giấy phép quy định
thời hạn 3 tháng nh giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy, chữa cháy; hay
kinh doanh photocopy cứ 2 tháng lại phải gia hạn một lần). Do không còn bị
giới hạn phụ thuộc vào nội dung giấy phép, không phải đối mặt với nguy cơ
không gia hạn đợc giấy phép hoặc gia hạn không kịp thời, doanh nghiệp đã đ-
ợc an toàn và yên tâm hơn trong đầu t mở rộng kinh doanh. Nhờ đó, việc thi
hành Luật doanh nghiệp và các văn bản hớng dẫn thi hành đã khích lệ tinh
1
2
1
2
thần kinh doanh, tạo điều kiện và thúc đẩy sự sáng tạo và linh hoạt trong hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo điều tra của Phòng thơng mại và
Công nghiệp Việt nam thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con theo Quyết định
số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ đã tiết kiệm trung bình cho mỗi
doanh nghiệp hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày làm việc đối với
ngời điều hành doanh nghiệp (cá biệt có doanh nghiệp tiết kiệm đợc 50 triệu
đồng và 900 ngày công để đi xin phép). Nh vậy, đối với khoảng 62 nghìn
doanh nghiệp (bao gồm khoảng 45.000 Doanh nghiệp t nhân, Công ty TNHH,
Công ty cổ phần, 6000 doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp của Đảng, của tổ
chức chính trị - xã hội, hơn 2000 doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, và gần
9000 hợp tác xã) đang hoạt động (không kể hộ kinh doanh cá thể), riêng về
chi phí bằng tiền phải bỏ ra để xin phép (cha kể chi phí đi lại, ăn ở, chi phí về
thời gian) thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã giảm đợc khoảng gần 280 tỷ
đồng chi phí kinh doanh.
3. Việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần b-
ớc đầu thúc đẩy chuyền biến tích cực về cơ cấu kinh tế
Số liệu điều tra 300 doanh nghiệp thành lập trong 6 tháng đầu năm
2000 ở 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng cho thấy khoảng 32% doanh
nghiệp kinh doanh các ngành sản xuất, chế biến; 26% kinh doanh dịch vụ th-
ơng mại, 15% kinh doanh xây dựng và dịch vụ thơng mại; 21% kinh doanh
dịch vụ khác, số còn lại đăng ký kinh doanh tổng hợp. Thực tế nói trên có hai
điểm đáng chú ý. Một là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực
sản xuất có xu hớng tăng lên. Đó là dấu hiệu tích cực chứng tỏ ngời đầu t đã
tin tởng, yên tâm hơn về tính ổn định của môi trờng kinh doanh ở nớc ta. Hai
là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác ngoài dịch vụ thơng
mại đã tăng thêm gấp nhiều lần so với trớc. Điều đó chứng tỏ đã có nhiều loại
dịch vụ mới xuất hiện trong nền kinh tế, loại hình dịch vụ kinh doanh đã đa
dạng hơn nhiều so với trớc đây. Ngành nghề kinh doanh đăng ký và đợc thực
hiện trên thực tế đa dạng và phong phú hơn nhiều. Hàng loạt ngành, nghề mới,
các sản phẩm và dịch vụ mới xuất hiện (sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu đợc làm từ rơm, rạ; đất vi sinh đợc chế biến từ xơ dừa, dịch vụ điều tra

dân sự, dịch vụ t vấn đòi nợ, v.v). Bộ Kế hoạch và Đầu t cùng Tổng cục
Thống kê đã tổng kết thực tế đa dạng và ban hành Danh mục hơn 939 loại
ngành, nghề kinh doanh trong nền kinh tế.
4. Việc thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần tích cực tạo
thêm việc làm cho ngời lao động
1
3
1
3
Theo báo cáo cha đầy đủ của của các Sở Kế hoạch và Đầu t, riêng các
doanh nghiệp, các chi nhánh và văn phòng đại diện mới thành lập trong 2 năm
qua đã tạo ra đợc khoảng từ 650.000 đến 750.000 chỗ làm việc mới cho ngời
lao động. Ngoài ra, một số lợng không nhỏ doanh nghiệp đã tăng thêm vốn
đầu t, mở rộng thêm quy mô kinh doanh, và do đó cũng đã thu hút thêm lao
động mới. Đó là cha kể số việc làm mới đợc tạo ra bởi các hộ kinh doanh cá
thể trong cả nớc. Số công ăn việc làm mới đợc tạo ra nhờ tác động trực tiếp
của Luật doanh nghiệp đã giải quyết công ăn việc làm cho khoảng gần 1/3 số
lao động mới tăng thêm hàng năm trong nên kinh tế. Thực tế cho thấy các
doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đã và đang là
nguồn chủ yếu tạo ra chỗ làm việc mới cho ngời lao động; góp phần không
nhỏ vào việc cải thiện mức sống, đồng thời giải quyết các vấn đề bức xúc về
xã hội.
II. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện luật
doanh nghiệp
1. Về các loại hình doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp đã góp phần vào việc mở rộng mô hình tổ chức kinh
doanh bằng việc quy định thêm mô hình công ty hợp danh và công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức làm chủ. Đây là một tiến bộ
mới trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, góp phần mở rộng
quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu t.

2. Về vấn đề thành lập doanh nghiệp.
Thứ nhất, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh
doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định.
Trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tại khoản 4 điều13
Luật doanh nghiệp có qui định: đối với những doanh nghiệp kinh doanh các
ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định thì phải có thêm xác nhận về vốn
của cơ quan tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh
có điều kiện.
Khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp quy định: Doanh nghiệp có
quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh
nghiệp đợc quyền kinh doanh các ngành nghề đó kể từ ngày đợc cơ quan Nhà
nớc có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh
theo quy định.
1
4
1
4
Thứ ba, việc đăng ký kinh doanh với các ngành nghề mới.
Với sự sáng tạo không ngừng của con ngời, nhất là dới áp lực của cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trờng, việc phát sinh các ngành nghề kinh doanh
mới là một lẽ tất nhiên.
Thứ t, những rắc rối mang tính hậu đăng ký kinh doanh
Để khai sinh đợc một doanh nghiệp, công việc không chỉ do cơ quan
đăng ký kinh doanh thực hiện là xong. Theo pháp luật hiện hành, sau khi
doanh nghiệp đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp
phải tiến hành việc đăng ký thuế với cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đóng trụ
sở chính và phải đợi cơ quan Công an cấp con dấu thì doanh nghiệp mới có
thể tiến hành giao dịch đợc.

3. Về vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp.
Thứ nhất, Luật doanh nghiệp quy định về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách
công ty với phạm vi rất hạn hẹp. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn chỉ có thể đợc chia, tách thành các công ty cùng loại; cũng nh vậy việc
hợp nhất hay sáp nhập công ty cũng chỉ có thể đợc thực hiện giữa các công ty
cùng loại với nhau.
Thứ hai, Luật doanh nghiệp quy định cha hợp lý về vấn đề chuyển đổi
hình thức pháp lý của công ty. Chuyển đổi công ty là một trong những hình
thức tổ chức lại công ty. Đây là một vấn đề mới lần đầu tiên đợc đề cập tới
trong Luật doanh nghiệp. Những quy định tổ chức lại doanh nghiệp trong đó
có chuyển đổi công ty đã đáp ứng đợc nhu cầu của các công ty, tạo điều kiện
cho các công ty cải tổ, đổi mới lại cơ cấu tổ chức, loại bỏ các doanh nghiệp
yếu kém, trì trệ, thua lỗ kéo dài nhằm cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là
vấn đề mới và phức tạp nên Luật doanh nghiệp mới chỉ quy định về việc
chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngợc lại
(Điều 109 Luật doanh nghiệp), chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên.
Việc quy định nh trên đã phần nào hạn chế quyền tự do kinh doanh của
chủ doanh nghiệp, giảm tính năng động của thị trờng. Với quy định này, nhu
cầu tổ chức lại doanh nghiệp trong nhiều trờng hợp sẽ không đợc đáp ứng cho
dù doanh nghiệp hoàn toàn có thể giải quyết tốt quyền lợi của các chủ nợ,
cũng nh của tập thể ngời lao động khi tiến hành tổ chức lại.
4. Về vấn đề giải thể doanh nghiệp
Gỉải thể doanh nghiệp là một thủ tục mang tính chất hành chính, hậu
quả của nó là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp trên thực tế. Giải thể trớc
1
5
1
5
hết là quyền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 111 Luật doanh

nghiệp còn quy định trờng hợp giải thể bắt buộc, trờng hợp này thì giải thể là
một nghĩa vụ. Đó là khi doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh (khoản 4 điều 111 Luật doanh nghiệp). Đây là một điểm mới của
Luật doanh nghiệp so với luật Công ty năm 1990. Luật Công ty chỉ quy định
về các trờng hợp giải thể tự nguyện. Quy đinh về trờng hợp giải thể bắt buộc
là cần thiết, thể hiện tính chất cỡng chế của Nhà nớc đối với những doanh
nghiệp có sự vi phạm luật dẫn đến bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh (theo các trờng hợp quy định tại khoản 3 điều 121 Luật doanh nghiệp).
Có thể thấy rằng, có sự khác biệt rất rõ giữa giải thể tự nguyện và giải thể bắt
buộc; một trờng hợp do doanh nghiệp quyết định còn một trờng hợp do cơ
quan Nhà nớc có thẩm quyền quyết định bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể
vì kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều 112 Luật
doanh nghiệp lại quy định một thủ tục giải thể chung cho tất cả các trờng hợp
giải thể doanh nghiệp cho dù bản chất của hai trờng hợp giải thể nói trên có sự
khác nhau.
5. Về cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp.
Một là, sự chậm chễ trong việc ban hành văn bản hớng dẫn thi hành
Luật doanh nghiệp.
Hai là, không ít văn bản pháp luật đợc ban hành trong thời gian gần đây
có nội dung không phù hợp, thậm chí trái với Luật doanh nghiệp.
Ba là, việc nhận thức và tổ chức chỉ đạo thực hiện Luật trong không ít cơ quan
thuộc hệ thống cơ quan Nhà nớc còn thụ động, cha đầy đủ và kém nhiệt tình,
thậm chí có nơi còn trì hoãn hoặc làm trái.
Năm là, cơ chế hậu kiểm còn nhiều bất cập.
Có thể khẳng định rằng một trong những nội dung đổi mới nhất của
Luật doanh nghiệp chính là việc thiết lập phơng thức quản lý mới đối với các
loại hình doanh nghiệp phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa thay thế cho phơng thức quản lý Nhà nớc vẫn còn mang
nặng dáng dấp của cơ chế tiền đổi mới. Luật doanh nghiệp chấp nhận một t
duy quản lý mới trong đó xác định rõ vai trò của Nhà nớc là ngời thúc đẩy, hỗ

trợ, hậu thuẫn doanh nghiệp phát triển chứ không phải là để cai trị, áp đặt ý
chí cho doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp thể hiện tinh thần: trong quản lý
Nhà nớc, sự thuận tiện cho ngời dân và cho doanh nghiệp đợc coi là trọng tâm
u tiên chứ không phải là sự thuận tiện của cơ quan, cán bộ công chức Nhà nớc.
Với tinh thần ấy, Luật doanh nghiệp là nền tảng pháp lý quan trọng để cải
1
6
1
6
thiện mối quan hệ giữa Nhà nớc với doanh nghiệp vốn đã tồn tại nhiều định
kiến bất lợi cho doanh nghiệp. Phơng thức quản lý mới mà Luật doanh nghiệp
thiết lập thể hiện ở hai nội dung quan trọng là công dân, doanh nghiệp đợc
làm tất cả những gì pháp luật không cấm và áp dụng cơ chế hậu kiểm đối với
doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phơng thức quản lý Nhà nớc kiểu mới đi vào
trong cuộc sống là chuyện không giản đơn. Bởi lẽ, sự thay đổi ấy đi kèm với
việc nảy sinh những vấn đề không dễ giải quyết nh sau:
+ Về vấn đề thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Để đảm bảo đợc sự quản lý Nhà nớc đối với các doanh nghiệp, đảm bảo cho
doanh nghiệp vận hành theo đúng mục tiêu của Nhà nớc, hoạt động thanh tra,
kiểm tra đối với doanh nghiệp tất yếu phải đợc chú trọng. Điều đó lại càng
đúng khi mà Nhà nớc ta chuyển việc quản lý doanh nghiệp từ mô hình tiền
kiểm sang hậu kiểm. Tuy nhiên, việc kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp
thực sự có tính hai mặt. Mặt tích cực của nó có thể dễ dàng nhận thấy. Nhng
mặt hạn chế của nó không thể không tính đến đó là việc thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với các chi phí về thời gian và tiền bạc cho cả
ngân sách Nhà nớc (chi phí cho hoạt động của đoàn thanh tra, kiểm tra; chi
phí cơ hội của doanh nghiệp phải mất đi khi dành thời gian hoặc tạm thời
ngừng một số giao dịch phục vụ việc thanh tra, kiểm tra của các đoàn thanh
tra) đồng thời nó là một cơ hội tốt cho một số cán bộ thoái hoá, biến chất làm
công tác thanh tra, kiểm tra sẽ làm đội giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ

của doanh nghiệp dẫn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trờng trong
nớc và thế giới bị giảm sút đáng kể. Vậy là, ngay trên sân nhà, doanh nghiệp
Việt Nam đã không đợc tôn trọng và đợc đối xử bằng một luật chơi công
bằng.
Thay đổi phơng thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm chắc chắn phải
chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra. Nhng chú trọng nh thế nào để không
buông lỏng quản lý Nhà nớc mà vẫn không gây phiền nhiễu, lãng phí cho
doanh nghiệp.
Có một thực tế là, mặc dù đã có Nghị định 61/1998/NĐ-CP ngày 15
tháng 8 năm 1998 về thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp nhng hiện nay
công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp vẫn gặp nhiều vớng mắc gây nhiều
bất lợi cho doanh nghiệp. Cụ thể là, tình trạng thanh tra, kiểm tra một cách
chồng chéo hoạt động của doanh nghiệp vẫn cha chấm dứt. Tình trạng hạch
sách, gây phiền nhiễu đối với doanh nghiệp nhằm trục lợi riêng vẫn còn bị
công luận và giới doanh nghiệp liên tục lên tiếng. Cho đến nay, về mặt chính
1
7
1
7
sách, pháp luật thanh tra, nhiều điểm vẫn cha rõ ràng khiến cho doanh nghiệp
luôn bị rơi vào thế bất lợi. Chẳng hạn, thanh tra, kiểm tra có khác nhau hay
không? Có bao nhiêu cơ quan có thẩm quyền vào thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp? Sự thật là, ngay cả các chuyên gia pháp luật cũng không dễ dàng gì
khi trả lời câu hỏi này của doanh nghiệp. Trong thực tế, do phân cấp quản lý
Nhà nớc theo ngành và theo lãnh thổ của nớc ta cha rõ ràng nên có tới hàng
chục cơ quan có quyền thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Chẳng han, Uỷ ban
nhân dân cấp xã cũng có quyền thanh, kiểm tra doanh nghiệp. Uỷ ban nhân
dân cấp huyện cũng có quyền ấy, rồi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan
quản lý Nhà nớc chuyên ngành nh lao động, tài chính, thuế, môi trờng của
tỉnh và của Trung ơng cững có quyền ấy. đó là cha kể đến thẩm quyền kiểm

tra, giám sát của Viện kiểm sát và của cảnh sát kinh tế đối với doanh nghiệp.
Sự chậm trễ trong việc giải bài toán phân cấp thẩm quyền quản lý không chỉ
làm giảm hiệu lực của bộ máy hành chính mà đang là một vật cản to lớn đối
với tiển trình cải cách và phát triển kinh tế.
Trong Diễn đàn Doanh nghiệp lần thứ 17: Hậu kiểm doanh nghiệp:
quan điểm và giải pháp do Phòng Thơng mại và Công nhgiệp Việt Nam tổ
chức ngày 21 tháng 12 năm 2000, một thành viên của Tổ công tác thi hành
Luật doanh nghiệp cho biết, hiện tại có hơn 140 văn bản quy phạm ở nhiều
tầm, cấp hiệu lực pháp lý khác nhau quy định về việc thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp và có tới hơn 30 loại cơ quan có thẩm quyền thanh tra doanh
nghiệp. Nếu tính về số đầu mối cơ quan có thẩm quyền thành tra, kiểm tra
doanh nghiệp thì có thể khẳng định một nền kinh tế nhỏ nh của Việt Nam mà
có tới khoảng một trăm cơ quan các cấp có quyền thanh tra, kiểm tra để can
thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tại diễn đàn về cơ chế hậu kiểm do Phòng thơng mại và công nghiệp
Việt Nam phối hợp Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng tổ chức ngày
21 tháng 12 năm 2000 bàn về cách hiểu và và hớng hoàn thiện mô hình hậu
kiểm đối với doanh nghiệp, đã cho thấy cho đến nay cách hiểu về cơ chế hậu
kiểm, mô hình hậu kiểm vẫn còn nhiều điểm cha thống nhất. Chẳng hạn, trong
cơ chế hậu kiểm vai trò của các thành tố nh công chúng, chủ nợ, ngời tiêu
dùng, Nhà nớc cần phải đợc xác lập nh thế nào? Làm thế nào để chủ nợ,
ngời tiêu dùng, các cổ đông (của công ty cổ phần) có thể thực thi đợc quyền
kiểm tra, giám sát của mình, họ có thể đợc kiểm tra, giám sát bằng các phơng
tiện nào, mức độ đến đâu? Làm sao để các doanh nghiệp, những ngời điều
hành doanh nghiệp không lẩn tránh đợc sự kiểm tra, giám sát? Loại doanh
1
8
1
8
nghiệp nào nên đợc kỉểm toán rồi việc các cơ quan Nhà nớc nên thanh tra,

kiểm tra doanh nghiệp ra sao? Đây quả thực là những vấn đề cha dễ trả lời.
Trong thực tế, do không chú trọng việc kiểm tra các thông tin do doanh nghiệp
tự kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã đợc cấp
giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh dựa trên vốn ảo để phô trơng thanh thế
của mình trong hoạt đông kinh doanh. Không ít doanh nghiệp ma cũng đã
đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trờng hợp công ty Cổ phần Hai
Lam đợc Sở Kế hoạch và Đầu t thành phố Hồ Chí Minh Cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh số 410300012 là một ví dụ điển hình. Theo hồ sơ đăng ký
kinh doanh, trụ sở của công ty này là số 22 đờng 2 phờng 4 quận 4

thành phố
Hồ Chí Minh, ngành nghề kinh doanh là xây dựng, thơng mại và dịch vụ th-
ơng mại, may công nghiệp với số vốn điều lệ là 2 tỷ đồng. Nhng trên thực tế,
công ty trên là một công ty ma.
+ Khó khăn trong xử lý một số vi phạm của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy đã phát hiện ra một số vi phạm ở mức độ nhỏ, nhng
khá phổ biến. Các vi phạm đó bao gồm: không treo biển hiệu, viết tên và biển
hiệu không đúng quy định; không đăng báo nh quy định; không hiệu đính lại
nội dung đăng ký kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh;
không gửi báo cáo tài chính hàng năm theo quy định đến cơ quan đăng ký
kinh doanh và cơ quan thuế Ngoài ra còn có một số vi phạm tơng đối
nghiêm trọng nh hiện tợng khai khống vốn điều lệ khi đăng ký kinh doanh,
ngời bị cấm thành lập doanh nghiệp đứng ra thành lập doanh nghiệp, thuê
đứng tên thành lập, giả mạo hồ sơ kinh doanh, một số ít ngời đăng ký kinh
doanh nhằm mua bán hoá đơn tài chính trục lợi, góp phần gây thêm thất thu
cho ngân sách Nhà nớc qua việc lạm dụng cơ chế hoàn thuế.
Bên cạnh đó cũng cha có đợc những biện pháp để xử lý đối với vi phạm của cơ
quan đăng ký kinh doanh nh yêu cầu ngời thành lập doanh nghiệp nộp thêm
một số giấy tờ khác ngoài luật định, từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho ngời có đủ điều kiện, cung cấp thông tin sai sự thật về nội dung

đăng ký kinh doanh
Tuy nhiên cho đến nay, Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đắng ký kinh doanh cha đợc ban hành, dẫn đến việc
cha có quy định về cơ quan có thẩm quyền, mức độ, hình thức và trình tự xử lý
các vi phạm kể trên. Việc kéo dài tình trạng không xử lý đợc các vi phạm nói
trên có thể dẫn đến thái độ coi thờng pháp luật; vi phạm nhỏ không đợc xử lý
kịp thời có thể dẫn đến vi phạm lớn hơn.
1
9
1
9
Sáu là, Sự trở lại của các giấy phép con. Tại Việt Nam, nhiều giấy phép
kinh doanh là con đẻ của cơ chế xin cho thời bao cấp, là sản phẩm của việc
tuỳ tiện, lạm dụng trong việc sử dụng giấy phép là một công cụ quản lý. Nhiều
Bộ, ngành, địa phơng ban hành giấy phép một cách thiếu căn cứ, thậm chí tuỳ
tiện, chứ không phải xuất phát từ nhu cầu quản lý Nhà nớc đối với doanh
nghiệp. Sự thiếu căn cứ, tuỳ tiện thể hiện rõ nhất ở điểm khi Tổ công tác thi
hành luật doanh nghiệp làm việc với một số ngành, địa phơng về việc rà soát
và xem xét tính hợp lý của giấy phép thì nhiều Bộ, ngành, địa phơng thậm chí
đã không nhớ nổi mình đã ban hành bao nhiêu loại giấy phép. Tính đến nay,
cũng cha có Bộ, ngành, địa phơng nào có công trình nghiên cứu, đánh giá đầy
đủ đợc những điểm tích cực và điểm hạn chế trong việc sử dụng giấy phép là
công cụ quản lý Nhà nớc của mình. Theo thống kê của Tổ công tác thi hành
Luật doanh nghiệp, tại thời điểm Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, có
khoảng 100 loại giấy phép đang đợc các Bộ, ngành địa phơng sử dụng để quản
lý các doanh nghiệp. mặc dù Quyết định 19/2000/QĐ - TTg ngày 3 tháng 2
năm 2000 của Thủ tớng Chính phủ đã bãi bỏ 84 loại giấy phép khác nhau, và
Nghị định số 30/2000/NĐ - CP đã bãi bỏ hoặc chuyển thành điều kiện kinh
doanh.
Một vấn đề nổi cộm và khá đợc d luận quan tâm là vấn đề giấy phép kinh

doanh dần dần tái xuất giang hồ với sự giúp sức của chính các văn bản pháp
luật. Với nỗ lực của Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp của Chính phủ và
sự phối hợp của nhiều cơ quan khác, đã có nhiều giấy phép con đợc Thủ tớng
Chính phủ ký quyết định bãi bỏ để tạo ra một môi trờng kinh doanh thông
thoáng, đa Luật doanh nghiệp vào thực tiễn đợc thuận lơi. Tuy nhiên, trong khi
Tổ công tác đang truy tìm thêm giấy phép con để tiếp tục kiến nghị Thủ t-
ớng Chính phủ bãi bỏ thì nhiều loại giấy phép con kiểu mới lại bắt đầu xuất
hiện. Theo một thành viên Tổ Công tác thi hành Luật doanh nghiệp, những
kiểu giáy phép con này có chiều hớng xuất hiện trong rất nhiều văn bản pháp
quy đợc soản thảo từ nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Nhng đáng ngại hơn là
có xu hớng nhiều loại quy định, giáy phép mới xuất hiện và núp bóng trong
những văn bản pháp luật ở cấp độ cao hơn nh Nghị định, pháp lệnh, và thậm
chí cả ở Luật chuyên ngành. Những quy định này không chỉ tạo ra các kiểu
giấy phép mới mà có xu hớng cô lập Luật doanh nghiệp, làm mất hiệu lực của
Luật doanh nghiệp. Trên thực tế cũng cho thấy đã có không ít phản hồi từ phía
các doanh nghiệp về vấn đề bãi bỏ giấy phép con. Liệu việc bãi bỏ một giấy
phép con có cho ra đời một loại giấy phép mới mà lệ phí còn tốn kém hơn so
2
0
2
0
với lệ phí xin giấy phép con hay không? Ví dụ trong ngành kinh doanh dịch
vụ vận chuyển hành khách, sau khi bãi bỏ giấy phép kinh doanh vận tải hành
khách thì lại có giấy phép xe khách chất lợng cao ra đời. Và điển hình nhất
trong trờng hợp này là, việc xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành d-
ợc t nhân. Để đợc kinh doanh dợc phẩm (đối với dợc sĩ đại học) hiện phải xin
đủ ba loại giấy phép sau: Một là, Chứng chỉ hành nghề kinh doanh dợc phẩm
do Bộ Y tế cấp quy định tại Thông t 01/2001/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 19
tháng 1 năm 2001 hớng dẫn việc xét cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh dợc
phẩm; Hai là, Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện thành lập cơ sở

hành nghề dợc t nhân (do Bộ Y Tế cấp đối với các doanh nghiệp và Sở Y tế
cấp đối với nhà thuốc t nhân hoặc đại lý bán thuốc cho các doanh nghiệp) quy
định tại Thông t 01/1998/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 21 tháng 1 năm 1998 h-
ớng dẫn thi hành pháp lệnh hành nghề y, dợc t nhân và Nghị định số 06/CP
ngày 29 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về cụ thể hoá một số điều trong
Pháp lệnh hành nghề y, dợc t nhân thuộc lĩnh vực hành nghề dợc; Ba là, Giấy
chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh do Giám đốc Sở Y tế tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ơng cấp quy định tại Thông t số 02/2000/TT-BYT
của Bộ Y tế ngày 21 tháng 02 năm 2000 hớng dẫn kinh doanh thuốc phòng
bệnh và chữa bệnh cho ngời. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp kinh doanh thuốc
chữa bệnh (đã có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc chữa bệnh)
muốn nhập khẩu thuốc phòng và chữa bệnh phải có thêm giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh quy định tại Thông t 19/2001/TT-BYT ngày 28 tháng 8
năm 2001 của Bộ Y tế hớng dẫn điều kiện nhập khẩu trực tiếp thuốc phòng và
chữa bệnh. Một số cơ quan Nhà nớc vẫn áp dụng những văn bản hết hiệu lực
thi hành để từ chối cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận
thay đổi ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp tại diễn đàn Luật doanh nghiệp sau hai năm thực
hiện đánh giá rằng một số giấy phép kinh doanh hiện nay không còn phù hợp,
gây cản trở đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra sự
độc quyền đối với một số ít doanh nghiệp đợc phép kinh doanh nghề này. Thẻ
ngời đại diện sở hữu công nghiệp do Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trờng) cấp hiện nay là một điển hình. Điều kiện để đợc cấp
giấy phép này rất khó khăn nh phải có chứng chỉ tốt nghiệp khoá đào tạo
chính quy về sở hữu công nghiệp (trong khi ở Việt nam cha có cơ sở đào tạo
chính quy về lĩnh vực này) hoặc phải trực tiếp làm công tác chuyên môn về sở
hữu công nghiệp liên tục từ 5 năm trở lên, có chứng chỉ dạt yêu cầu tại kỳ thi
2
1
2

1
kiểm tra do Cục sở hữu công nghiệp cấp Trên toàn quốc hiện nay chỉ có
khoảng 52 ngời đợc cấp Thẻ ngời đại diện sở hữu công nghiệp. Theo quy định,
để thành lập Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp cần phải có hai
thành viên chính thức có thẻ Ngời đại diện sở hữu công nghiệp. Do vậy, số tổ
chức hành nghề đại diện sở hữu công nghiệp hiện nay ở nớc ta quá ít, không
phù hợp với sự phát triển kinh tế nhanh chóng, tạo nên sự độc quyền của một
số doanh nghiệp, cạnh tranh giảm đi, giá thành dịch vụ do vậy sẽ cao hơn, rất
khó khăn cho đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt nam hiện nay trong
việc bảo vệ quyền lợi của mình (thực tế với chi phí dịch vụ nh hiện nay chỉ các
doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài và doanh nghiệp liên doanh mơí đủ khả
năng về tài chính để sử dụng dịch vụ này và các tổ chức cung ứng dịch vụ này
cũng chỉ thờng chú ý đến các đối tợng này).
Việc quản lý hoạt động kinh doanh, nhất là trong một số ngành nghề
đặc biệt, bằng giấy phép kinh doanh là cách làm truyền thống mà ngay cả
những nớc đợc coi là có mô hình nền kinh tế tự do nh nớc Mỹ cũng vẫn áp
dụng. Tuy vậy, thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng, bên cạnh việc có những mặt
tích cực nhất định phục vụ hoạt động quản lý Nhà nớc đối với hoạt động của
các nhà doanh nghiệp, giấy phép hoạt động kinh doanh còn mang trong mình
nhiều điểm hạn chế không thể không tính đến. Giấy phép kinh doanh chính là
những rào cản có tính chất hành chính đối với việc gia nhập ngành nghề kinh
doanh của các doanh nghiệp. Điều đó có thể đồng nghĩa vơí việc giấy phép
kinh doanh là các hàng rào ngăn cản việc lu thông tiền tệ giữa các ngành nghề
trong nền kinh tế. Sự tồn tại của các giấy phép còn có thể làm hạn chế cạnh
tranh giữa các ngành, gây nên tình trạng độc quyền dựa vào quyền lực Nhà n-
ớc, làm sai lệch sự phân bổ nguồn vốn trong toàn nền kinh té. Đồng thời sự
tồn tại một loại giấy phép, có nghĩa là còn tồn tại cơ chế xin-cho, còn tồn tại
cơ hội để nảy sinh các hiện tợng tiêu cực. Vì những lý do trên, trừ khi xác
định rõ ràng đợc rằng việc áp dụng loại giấy phép nào đó là có lợi nhiều hơn
có hại, còn nói chung, các loại giấy phép đều cần phải bị bãi bỏ.

Bên cạnh những trở ngại về giấy phép, nhiều cơ quan quản lý Nhà nớc,
các địa phơng do không đủ khả năng quản lý và giám sát trớc sự năng động và
đa dạng của ngời kinh doanh đã đa ra những quy định làm hạn chế, thậm chí
cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực. Lý do quy hoạch thờng đợc nhiều
tỉnh, thành phố vận dụng để hạn chế hoặc cấm các hoạt động kinh doanh của
ngời dân. Trên thực tế, một số UBND cấp tỉnh ra chỉ thị tạm ngừng cấp đăng
ký kinh doanh đối với một số ngành nghề và không quy định thời hạn tạm
2
2
2
2
ngừng dẫn đến gần nh cấm kinh doanh các ngành nghề đó. Một số UBND tỉnh
ra các quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh
nghiệp thuộc một số ngành nghề một cách vô căn cứ, trái với Luật doanh
nghiệp. Tại một số địa phơng, lấy lý do không đúng quy hoạch, cơ quan
đăng ký kinh doanh từ chối câp đăng ký kinh doanh theo địa điểm do doanh
nghiệp đăng ký nhng không cung cấp đợc văn bản quy hoạch hợp pháp. Một
số tỉnh, thành phố đã ra quy định khi đăng ký kinh doanh một số ngành nghề
nh: vũ trờng, karaoke, café, quán bar, cắt tóc thanh nữ, khách sạn, nhà nghỉ,
nhà trọ Phòng đăng ký kinh doanh phải xin ý kiến quận, huyện; quận,
huyện phải xin ý kiến phờng, xã. Nếu phờng, xã không đồng ý thì quận, huyện
cũng không đồng ý và doanh nghiệp không đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Đây là một quy định có tính chất nh giấy phép mà thực quyền cấp
phép là cấp phờng, xã. Với những ngành nghề này, các phờng, xã không chấp
thuận đăng ký cho doanh nghiệp thờng dựa trên các lý do về trật tự, an ninh.
Chủ trơng trên đã khôi phục cơ chế xin-cho ở cấp quận, huyện, phờng, xã,
kéo dài thời gian xét duyệt đăng ký kinh doanh, hạn chế quyền tự do kinh
doanh của công dân trái với Luật doanh nghiệp.
Hiện có một số Bộ, ngành đang có ý định trình Chính phủ mở rộng
thêm danh mục lĩnh vực cấm kinh doanh theo ý tởng chỉ cho kinh doanh

những ngành quản lý đợc, nếu không thì phải tạm dừng cấp giấy đăng ký kinh
doanh. Trong những tháng đầu tiên thi hành luật doanh nghiệp đã có một số
cơ quan quản lý Nhà nớc vẫn áp dụng văn bản đã hết hiệu lực thi hành để từ
chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cụ thể là trớc đây, một số Bộ,
ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành lệnh tạm thời đình chỉ thi
hành Luật doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề
kinh doanh nh: (1) Du lịch lữ hành nội địa;(2) Dịch vụ vận tải hàng hải;(3) Sản
xuất, lắp đặt và mua bán thiết bị phòng cháy, chữa cháy;(4) Vận tải hành
khách công cộng bằng taxi;(5) Dịch vụ pháp lý;(6) T vấn đi du học nớc ngoài,
Nhng nay, Luật doanh nghiệp không còn cho phép các cơ quan này đựoc
ban hành lệnh tạm ngừng cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nh đã làm
vừa qua và mặc nhiên các lệnh đình chỉ đến nay không còn hiệu lực thi hành.
Tuy nhiên, một số lệnh đã hết hiệu lực kể trên vẫn đợc cơ quan quản lý Nhà n-
ớc sử dụng để tớc quyền dợc kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. Thậm
chí, Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Cục đờng bộ Việt Nam còn ban hành
thêm công văn yêu cầu các cơ quan chức năng phải tiếp tục thực hiện lệnh tạm
đình chỉ cho phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh hai ngành
2
3
2
3
sản xuất, lắp đặt, mua bán thiết bị phòng cháy, chữa cháy và kinh doanh vận
tải hành khách công cộng bằng taxi. Rất may mắn là do đợc phản ánh kịp thời
bằng báo chí và công luận cũng nh của cộng đồng doanh nghiệp, Thủ tớng
chính phủ đã kịp thời nhắc nhở và đôn đốc, yêu cầu các ngành, các Uỷ ban
nhân dân phải thực thi nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp, vì thế đến cuối năm
2000, tình trạng kể trên đã đợc khắc phục một cách đáng kể. Tuy nhiên, cho
tới cuối năm 2000 vẫn còn một số Bộ, ngành cha ban hành đợc danh mục theo
yêu cầu của Nghị định này.
Bảy là, về phía các doanh nghiệp, ý thức chấp hành các quy định về

nghĩa vụ của doanh nghiệp nhìn chung cha cao.
Một số không nhỏ chủ doanh nghiệp và những ngời quản lý doanh
nghiệp cha ý thức đầy đủ về việc cần thiết phải chấp hành đúng Luật doanh
nghiệp; cha coi việc chấp hành đúng Luật doanh nghiệp là công cụ bảo vệ lợi
ích hợp pháp của họ; Những mặt cha đợc trong chấp hành Luật doanh nghiệp
thể hiện chủ yếu trên một số điểm sau đây: Nội dung điều lệ rất sơ sài : ngời
đăng ký kinh doanh lập điều lệ dờng nh chủ yếu để đủ hồ sơ và đúng thủ tục;
chứ cha coi điều lệ là văn bản pháp lý có tính nền tảng đầu tiên mà họ có để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong doanh nghiệp, để ngăn ngừa
các mâu thuẫn về quyền lợi có thể xảy ra giữa những ngời góp vốn và là công
cụ để giải quyết hoà bình, nội bộ các mâu thuẫn giữa họ khi xảy ra. Một
số ngời đầu t cha ý thức đợc nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với nội dung
kê khai trong hồ sơ, nhất là các nội dung liên quan đến kê khai vốn góp và vốn
đăng ký. Tình trạng kê khai vốn cao hơn vốn thực có vẫn còn; cha ý thức đợc
rằng kê khai càng cao, trách nhiệm càng lớn và nếu không có tài sản tơng ứng
với trách nhiệm cam kết, thì đó sẽ đợc coi là hành vi lừa đảo.
Đa số doanh nghiệp đã đăng ký dự phòng một số ngành nghề. Điều
này là phù hợp với Luật doanh nghiệp, nhng có thể là biều hiện của các yếu tố
sau đây. Một là, các doanh nghiệp vẫn lo ngại về thủ tục hành chính theo kiễu
xin cho khi bổ sung ngành, nghề kinh doanh gây thêm tốn kém và làm mất cơ
hội kinh doanh. Hai là, đa số doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh vẫn cha
xác định rõ trọng tâm, và nhất là đờng hớng kinh doanh của mình; từ đó vẫn
làm theo lối hàng xén, gặp cái gì làm cái đó . Về phía quản lý Nhà nớc thì
việc làm nói trên của doanh nghiệp gây phức tạp cho công tác thống kê, không
nắm rõ đợc sự phân bổ doanh nghiệp theo ngành nghề kinh doanh trong nền
kinh tế.
2
4
2
4

Về đăng ký bổ sung nội dung đăng ký kinh doanh, vi phạm phổ biến là
ngời đại diện theo pháp luật hoặc thành viên, cổ đông đa số cố ý hoặc vô tình
hành động vợt quá thẩm quyền theo luật dịnh. Những thay đổi nói trên thờng
nằm trong điều lệ công ty theo quy định thuộc thẩm quyền quyết định của Hội
đồng thành viên hoặc Đại hội cổ đông, (trong một số vấn đề là của Hội đồng
quản trị). Các doanh nghiệp đã bỏ qua thủ tục pháp lý quan trọng và cơ bản
nhất trong trình tự và thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh.
Điều đáng nói thêm là chính cán bộ đăng ký kinh doanh trong một thời gian
khá dài đã không nhận biết đựoc rằng Nghị quyết của Hội đồng thành viên
hoặc Đại hội đồng cổ đông là nhất thiết phải có trong các hành vi nói trên. Vì
vậy, một số ngời đã lạm dụng quyền, tự đăng ký thay đổi nhất là thay đổi vốn
điều lệ, thay đổỉ thành viên với ý đồ chiếm đoạt công ty của ngời khác. Tất cả
những điều kể trên thể hiện sự quản lý và giám sát lỏng lẻo trong nội bộ công
ty, tạo ra d địa lạm dụng quyền lực phục vụ lợi ích cá nhân, và là nguyên nhân
gây nên mâu thuẫn nội bộ làm hại đến sự phát triển của doanh nghiệp.
Về thực hiện quyền của cổ đông, phần lớn các thành viên, cổ đông
(nhất là các cổ đông, thành viên nhỏ ) không hiểu biết đợc đầy đủ các quyền
của họ theo quy định của Luật doanh nghiệp; cũng nh không biết đợc các ph-
ơng thức hợp pháp thực hiện quyền đó và bảo vệ lợi ích hợp pháp. Vì vậy, đã
xảy ra không ít vi phạm Luật doanh nghiệp liên quan đến quyền và cách thức
thực hiện quyền của cổ đông. Trên thực tế hai thái cực trên nếu xảy ra đều
nguy hại đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Một là, do không ý thức đợc
quyền và cách thức hợp pháp để thực hiện quyền đó, nên quản lý nội bộ trở
nên lỏng lẻo, dẫn đến ngời quản lý lạm dụng quyền và vị thế đợc giao. Hai là,
thành viên, cổ đông quá khích hoặc bị khích động thực hiện quyền vợt ra
ngoài luật định và bằng con đờng không hợp pháp.
Về thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, thời gian qua d luận xã hội
quan tâm và chỉ trích nhiều về việc doanh nghiệp không nộp báo cáo tài chính,
báo cáo không chính xác, không đầy đủ, không ghi chép và lập sổ sách kế
toán theo quy định, không hiệu đính lại các thông tin sai lệch, không chính

xác Ngay cả một số nghĩa vụ đơn giản nh đăng báo về những nội dung cơ
bản trong đăng ký kinh doanh, tên doanh nghiệp phải viết theo đúng quy định,
khai báo lại về thay đổi trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện, cũng không
đợc tuân thủ một cách nghiêm túc. Ngoài ra, trên thực tế, cũng có một số
doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh đã không hoạt động kinh doanh vì
nhiều lý do khác nhau, trong số đó một số ít có biểu hiện lợi dụng kinh doanh
2
5
2
5

×