Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên trong một số quần xã thực vật phục hồi sau nương rãy tại hai xã an bá và hữu sản, sơn động, bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.73 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ HÀ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH TỰ NHIÊN
TRONG MỘT SỐ QUẦN XÃ THỰC VẬT PHỤC
HỒI
SAU NƯƠNG RÃY TẠI HAI XÃ AN BÁ VÀ
HỮU SẢN, SƠN ĐỘNG, BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC SINH HỌC
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ HÀ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH TỰ NHIÊN
TRONG MỘT SỐ QUẦN XÃ THỰC VẬT PHỤC
HỒI
SAU NƯƠNG RÃY TẠI HAI XÃ AN BÁ VÀ
HỮU SẢN, SƠN ĐỘNG, BẮC GIANG

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hữu Thư
Lời cảm ơn!
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Hữu Thư ( Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn
thiện luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng và chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Ban


Chủ nhiệm khoa Sinh- KTNN, khoa Sau Đại học - trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, cùng các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn luôn
động viên, giúp đỡ tôi về nhiều mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo trường THPT Kháng Nhật,
trường THPT Sơn Dương, các tổ chức, cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi được học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành gửi tới TS. Đỗ Hữu Thư cùng toàn thể các thầy cô;
gia đình; bạn bè; đồng nghiệp; Ban giám hiệu hai trường THPT Kháng Nhật
và THPT Sơn Dương, cùng các tổ chức và cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 8 năm 2011
Tác giả

Phạm Thị Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi cùng với sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Hữu Thư – Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào.
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 8 năm 2011
Tác giả
Phạm Thị Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn

Lời cam đoan
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Những đóng góp mới của luận văn
NỘI DUNG
Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Một số khái niệm về tái sinh và phục hồi rừng
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh
1.1.2.1. Thế giới
1.1.2.2. Việt Nam
1.1.3. Nghiên cứu về tái sinh sau nương rãy
1.1.3.1. Thế giới
1.1.3.2. Việt Nam
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Đặc điểm của thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu
i
23.2. Đặc điểm thành phần loài cây gỗ tái sinh tự nhiên sau nương rãy
tại vùng nghiên cứu và một số tính chất lý hoá của đất rừng sau nương
rãy thoái hoá trung bình vùng nghiên cứu
2.3.3. Đặc điểm cấu trúc rừng tái sinh tự nhiên trên đất sau nương rãy và
khai thác trắng:
2.3.4. Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình phục hồi rừng

trên đất rừng sau nương rãy tại vùng nghiên cứu:
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu thảm thực vật
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu đất
2.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
3.1.2. Đặc điểm địa hình
3.1.3. Đặc điểm khí hậu
3.1.4. Tài nguyên đất
3.1.5. Tài nguyên rừng
3.1.6. Tài nguyên khoáng sản
3.1.7. Tài nguyên nước
3.2. Đặc điểm hạ tầng kinh tế - xã hội
3.2.1. Kết cấu hạ tầng
3.2.2. Đặc điểm kinh tế
3.2.3. Đặc điểm văn hoá - xã hội
Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm thực vật phục hồi trên đất sau nương rãy
ii
4.1.1. Một số tính chất lý hoá của đất trong thảm thực vật phục hồi sau
nương rãy 10 năm
4.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thảm thực vật phục hồi sau nương
rãy theo thời gian:
4.1.3. Đặc điểm tái sinh tự nhiên các loài cây gỗ trong thảm thực vật
phục hồi trên đất sau nương rãy
4.2.2. Những đặc trưng cơ bản của thảm thực vật phục hồi sau khai thác
trắng theo thời gian:

4.2.3. Đặc điểm tái sinh tự nhiên các loài cây gỗ trong thảm thực vật
phục hồi trên đất sau khai thác trắng
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1. D
1.3
Đường kính cây cao 1,3m
2. H
vn
Chiều cao vút ngọn (m)
3. OTC Ô tiêu chuẩn
4. ft Tần số quan sát
5. flt Tần số lý thuyết
6. [1] Thứ tự tài liệu tham khảo.
7. 4.1
Số liệu bảng, chữ số đầu là thứ tự chương, chữ số
sau dấu chấm là số thứ tự bảng trong chương.
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Ký hiệu độ nhiều của thực bì theo Drude
Bảng 4.1. Một số tính chất lý hóa của đất trong thảm thức vật phục hồi
sau nương rãy 10 năm
Bảng 4.2. Thành phần loài theo nhóm dạng sống của thảm thực vật phục
hồi sau nương rãy theo thời gian
Bảng 4.3. Cấu trúc thảm thực vật phục hồi sau nương rãy theo thời gian


Bảng 4.4. Tổ thành loài cây gỗ tái sinh tự nhiên trên đất sau nương rãy
Bảng 4.5. Chất lượng, phẩm chất và nguồn gốc cây tái sinh trên đất sau
nương rãy
Bảng 4.6. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trong thảm thực vật
phục hồi trên đất sau nương rãy
Bảng 4.7. Mô phỏng phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trên đất sau
nương rãy theo hàm Weibull
Bảng 4.8. Mô phỏng phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trên đất sau
nương rãy theo hàm Meyer
Bảng 4.9. Phân bố cây tái sinh trên mặt đất trong thảm thực vật tái sinh
trên đất sau nương rãy
Bảng 4.10. Một số tính chất lý hóa của đất trong thảm thức vật phục hồi
sau khai thác trắng 10 năm
Bảng 4.11. Thành phần loài theo nhóm dạng sống của thảm thực vật
phục hồi sau khai thác trắng
Bảng 4.12. Cấu trúc thảm thực vật phục hồi sau khai thác trắng theo thời
gian
v
Bảng 4.13. Tổ thành loài cây gỗ tái sinh tự nhiên trên đất sau khai thác
trắng
Bảng 4.14. Chất lượng, phẩm chất và nguồn gốc cây tái sinh trên đất sau
khai thác trắng
Bảng 4.15. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trong thảm thực vật
phục hồi trên đất sau khai thác trắng
Bảng 4.16. Mô phỏng phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trên đất
sau khai thác trắng theo hàm Weibull
Bảng 4.17: Mô phỏng phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao trên đất
sau khai thác trắng theo hàm Meyer
Bảng 4.18: Phân bố cây tái sinh trên mặt đất trong thảm thực vật tái sinh

trên đất sau khai thác trắng
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Cách bố trí các ô đạng bản trong các ô tiêu chuẩn
Hình 2.2: Cách bố trí các phẫu diện đất trong các ô nghiên cứu
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng vốn được mệnh danh là "lá phổi xanh " của trái đất, nó có vai trò
rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học
trên hành tinh chúng ta.
Thực tế cho thấy rằng “lá phổi xanh” đang bị thu hẹp dần. Trên phạm
vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây, 50% diện
tích rừng đã bị biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính toán của
các chuyên gia của Tổ chức nông - lương thế giới (FAO) thì hàng năm có tới
11,5 triệu hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn cầu, trong
khi diện tích rừng trồng mới chỉ vỏn vẹn 1,5 triệu hecta.
Canh tác nương rãy là hoạt động phổ biến ở vùng núi của nhiều nước
trên thế giới trong đó có Việt Nam. Theo thống kê, trên thế giới mỗi năm mất
đi khoảng 20 triệu ha rừng, trong đó diện tích rừng bị mất do hoạt động
nương rãy chiếm tới 50%.
Rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai bị xói mòn dẫn tới tình trạng sa
mạc hoá ngày càng gia tăng. Nhiều loài động - thực vật, lâm sản quý bị biến
mất trong danh mục các loài quý hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với nguy
cơ dần dần bị tuyệt chủng. Nghiêm trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy
mô lớn đã làm tổn thương "lá phổi xanh" của tự nhiên, khiến bầu khí quyển bị
ô nhiễm nặng, mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người
và đời sống động, thực vật.v.v
Trước thực tế mất rừng và các nhu cầu về gỗ ngày một tăng, để đảm

bảo môi trường phát triển bền vững, từ năm 1992 trở lại đây Nhà nước và
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều những nỗ lực trong việc thực hiện các chủ
trương, chính sách về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, "phủ xanh đất
trống đồi núi trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã tăng
1
1,6 triệu hecta so với năm 1995, trong đó rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu hecta,
rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi có 384.157,63 ha đất tự nhiên, bao
gồm 272.913,31 ha đất nông nghiệp chiếm 71,04%; 92.339,78 ha đất phi
nông nghiệp chiếm 24,04%; còn lại là 18.904,54 ha đất chưa sử dụng
chiếm 4,92%. Toàn tỉnh có 140.192,44 ha đất lâm nghiệp có rừng chiếm
36,49% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có trên 50% là rừng sản xuất có
giá trị kinh tế lớn. Quỹ đất đai có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, đất nông nghiệp ngoài thâm canh
lúa còn thích hợp để phát triển rau màu và cây ăn quả. Trong đó, diện
tích rừng của Bắc Giang chủ yếu nằm ở các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục
Nam. Rừng không chỉ có vai trò phòng hộ mà còn có ý nghĩa trong việc điều
hòa nguồn nước cho sông Lục Nam.
Để tái tạo rừng dựa trên cơ sở lợi dụng khả năng tái sinh tự nhiên của
thảm thực vật rừng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng
địa phương còn nhiều điểm chưa hợp lý. Huyện Sơn Động là một huyện vùng
cao của tỉnh Bắc Giang, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử và là một
trong những nơi trước đây có nhiều nương rãy mà hiện nay chưa có đề tài nào
nghiên cứu về phục hồi sau nương rãy.
Do vậy để tìm hiểu đặc điểm quá trình tái sinh tự nhiên làm cơ sở cho
việc xác định đối tượng khoanh nuôi, phục hồi thích hợp cho từng đối tượng
cụ thể chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu tái sinh tự nhiên trong
một số quần xã thực vật phục hồi sau nương rãy tại 2 xã An Bá và Hữu
Sản, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu tái sinh tự nhiên trong một số quần xã thực vật phục hồi
sau nương rãy tại 2 xã An Bá và Hữu Sản, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang
nhằm đưa ra những đóng góp khoa học, làm cơ sở cho việc bảo vệ hoặc khai
thác, sử dụng thảm thực vật một cách hợp lí và hiệu quả.
2
3. Những đóng góp mới của luận văn
Đề tài này là công trình nghiên cứu đầu tiên về đặc điểm tái sinh tự
nhiên của một số quần thể thực vật phục hồi sau canh tác nương rãy tại 2 xã
An Bá và Hữu Sản, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Kết quả nghiên cứu của
đề tài có đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận
Xác định một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của thảm thực vật phục hồi
sau canh tác nương rãy tại Bắc Giang, góp phần hiểu biết sâu hơn về tái sinh
rừng sau canh tác nương rãy. Bổ sung tư liệu về tái sinh rừng.
- Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp kĩ thuật
lâm sinh phù hợp, áp dụng cho tái sinh tự nhiên phục hồi sau nương rãy tại
Bắc Giang. Góp phần bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng một cách hiệu quả.
3
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Một số khái niệm về tái sinh và phục hồi rừng
- Canh tác nương rãy: Thường được hiểu là chặt cây đốt rừng làm nương
trồng cây nông nghiệp. Sau một chu kì canh tác, đất được bỏ hóa để phục hồi
thảm thực vật và độ phì của đất đáp ứng cho một chu kì canh tác tiếp theo.
Theo Phùng ngọc Lan (1986) [22] tái sinh rừng tái hiểu theo nghĩa hẹp,
là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng.
Theo Nguyễn Xuân Lâm (2000) [21] tái sinh rừng là sự xuất hiện một

thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở dưới tán rừng hoặc trên đất rừng (sau
khi làm nương rãy), thế hệ cây tái sinh này sẽ lớn dần lên thay thế thế hệ cây
gỗ già cỗi.
- Phục hồi rừng: Theo Trần Đình Lý (1995) [25] phục hồi rừng là quá
trình sinh địa phức tạp, gồm nhiều thời gian và kết thúc bằng sự xuất hiện một
thảm thực vật cây gỗ (tre nứa) bắt đầu khép tán. Nói cách khác, phục hồi rừng
là quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái, một quần xã sinh vật mà trong đó cây
gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu, nó chi phối các quá trình biến đổi tiếp theo.
Theo Trần Đình Lý (1995) [26], rừng non thứ sinh phục hồi đối với rừng gỗ
phải có chiều cao từ 3m trở lên và độ tàn che đạt 0,3.
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh
1.1.2.1.Thế giới
Tái sinh rừng trên thế giới đã được nhiều nhà khoa học các nước nghiên
cứu từ lâu. Nhưng với rừng nhiệt đới chỉ được nghiên cứu vào khoảng những
năm 30 của thế kỉ XX trở lại đây.
4
Vấn đề tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là
hiệu quả của các phương thức xử lí lâm sinh đến tái sinh rừng của các loài cây
có mục đích trong các kiểu rừng. Các tác giả tiêu biểu bàn đến như Kenedy
(1935), Lancaster (1953), Taylor (1854).
Nghiên cứu về cây tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.
Oobrevin (1938) đã đưa ra lí luận bức khảm tái sinh ( còn gọi là lí luận tuần
hoàn tái sinh). (Dẫn theo Phùng Ngọc Lan, 1986 [23]).
Nghiên cứu về cây tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, đáng chú ý là
công trình nghiên cứu của P.W. Richards (1952), đã nhận xét ở rừng nhiệt đới
sự phân bố số lượng cá thể của các loài cây trong các lớp là rất khác nhau.
Phần lớn các loài cây ưu thế ở tầng trên trong rừng nguyên sinh thường có rất
ít thậm chí vắng mặt ở những tầng thấp hay cấp thể tích nhỏ. Ngược lại ở
những rừng đơn ưu như rừng Mora gonggijipi ở Guana, rừng Mora exelsa ở
Guana và Trinidat, rừng Eusdezoxylon ở Borneo… lại có đầy đủ đại diện ở

các lớp kích thước. Theo tác giả thì sự phân bố này là do đặc tính di truyền
của các loài cây được thể hiện ở khả năng sinh sản và tập tính của chúng
trong các giai đoạn phát triển. Ở Châu Phi trên cơ sở dữ liệu thu thập được
Tatlor (1954), Barnard (1955), đã xác định ở rừng nhiệt đới ẩm Châu Phi có
số lượng cây là thiếu hụt. Ngược lại Bava (1954), Budowski (1956), Antinot
(1965), lại cho rằng dưới tán rừng nhiệt đới, nhìn chung có đủ số lượng cây
tái sinh có giá trị kinh tế (Dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995 [13] ).
Căn cứ vào đặc điểm tái sinh của rừng mưa nhiệt đới Van Stenis (1956)
đã phân biệt được hai kiểu tái sinh phổ biến đó là tái sinh phân tán, liên tục
của các loài cây chịu bóng và đặc điểm tái sinh khá phổ biến ở rừng mưa
thích hợp với loài cây ưa sáng là kiểu tái sinh theo vệt trên các lỗ trống.
Kết cấu của quần tụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. I.D.
Yurkevich (1960) đã chứng minh được độ tàn che tối ưu cho sự phát triển
5
bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6- 0,7. (Dẫn theo Phạm Ngọc
Thường, 2003 [43] ).
A.W. Ghent (1969) cho rằng thảm mục, chế độ thủy nhiệt, tầng đất mặt
quan hệ với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ. V.G. Karpov (1969), trong
công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây non và quần tụ đã chỉ ra
rằng đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng, đất,
ánh sáng, ẩm độ và tính chất không thuần nhất của quan hệ qua lại giữa các
thực vật tùy thuộc vào đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của
quần thể thực vật.
I.N. Nakhteenko (1973) cho rằng sự trùng hợp cao của sự hấp thụ dinh
dưỡng giữa hai loài có thể gây cho nhau sự kìm hãm sinh trưởng và làm tăng
áp lực cạnh tranh giữa hai loài. Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta đều
nhận thấy rằng tầng cỏ và tầng cây bụi qua thu nhận ánh sáng, ẩm độ và các
nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con
tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần tụ kín tán, đất khô và nghèo dinh
dưỡng khoáng. Do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của

nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa,
rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều
kiện chúng là nhân tố gây trở ngại lớn cho tái sinh rừng ( Xannikov, 1967;
Vipper, 1973). Mibbre-ad (1930), Richards (1933; 1939), Aubréville (1938),
Beard (1946), Lebrun và Gilbert (1954), Joné (1955-1956), Schultz (1960),
G.N. Baur (1964), Rollet (1969) đều có chung quan điểm thống nhất là: Hiệu
quả tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi,
chất lượng cây con, đặc điểm phân bố và độ dài của thời kì tái sinh rừng.
(Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [43] ).
G.N. Baur (1976) [1] khi nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên đã nhận
định thảm cỏ và cây bụi đã ảnh hưởng tới tái sinh của cây gỗ đã tổng kết các
6
biện pháp lâm sinh tác động vào rừng, nhằm đem lại rừng căn bản đều tuổi
khi nghiên cứu tái sinh rừng mưa. Trong “ Cơ sở sinh thái học của kinh
doanh rừng mưa” ông đã tổng kết chi tiết các bước và hiệu quả của từng
phương thức tái sinh.
G.I. Vorobiep (1981) [50] trong “ Những vấn đề lâm nghiệp thế giới”
cho rằng chúng ta có thể áp dụng một cách khôn khéo và thận trọng các
phương thức chặt và tái sinh tự nhiên khác nhau để tái tạo các rừng nguyên
sinh từ các rừng thứ sinh nhằm lợi dụng chúng với nhiều mục đích.
H. Lamprecht (1989) căn cứ nhu cầu sử dụng ánh sáng của các loài cây
trong suốt quá trình sống đã phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa
sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. (Dẫn theo Lê Ngọc
Công, 2004 [7]).
Để xác định mật độ cây tái sinh người ta dùng các phương pháp khác
nhau như : ô dạng bản theo hệ thống do Lowdermilk (1927) đề xuất (diện tích
1- 4m
2
), ô có kích thước lớn (10-100m
2

), điều tra theo dải hẹp với ô có kích
thước từ 10-100m
2
. Phổ biến nhất là bố trí theo hệ thống trong các diện tích
nghiên cứu từ 0,25- 1,0ha (Povarnixbun, 1934; Yurkevich, 1938). Để giảm sai
số trong khi thông kê, Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp “ điều tra
chẩn đoán” mà theo ông kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo thời
gian phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. V.G.
Nexterov (1954, 1960) đề nghị dùng 15-26 ô kích thước từ 1-2m
2
thống kê
cây con tuổi nhỏ hơn 5 năm, 10-15 ô kích thước từ 4-5m
2
thống kê cây con
tuổi từ 5-10 năm. A.V. Pobedinxki (1961) đề nghị dùng 25 ô dạng bản 1x1m
cho một khu tiêu chuẩn 0,5-1,0ha, X.V. Belov (1983) nhấn mạnh phải áp
dụng thống kê toán học để điều tra và đánh giá tái sinh. Việc phân tích chi tiết
lý luận các phương pháp thống kê toán học trong điều tra và đánh giá tái sinh
rừng được trình bày rõ trong các công trình nghiên cứu của G. Smith (1967)
và V.I. Vasilevich. (Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [43] ).
7
Phân bố số cây theo đường kính là quy luật cấu trúc cơ bản của lâm
phần và đã được nhiều nhà lâm học quan tâm nghiên cứu. Đầu tiên phải kể
đến công trình nghiên cứu của Mayer (1952). Ông mô tả phân bố số cây theo
đường kính bằng phương trình toán học, mà dạng của nó là đường cong giảm
liên tục. Phương trình này gọi là phương trình Mayer hay hàm Mayer. Tiếp
đó, nhiều tác giả đã dùng phương pháp giải tích để tìm phương trình của
đường cong phân bố. Naslunel (1936) đã xác lập phân bố Charlier- A đối với
phân bố N/D của lâm phần thuần loài đều tuổi. M. Prodan và A.I. Patatscase
(1964), Bill và K.A Rem Ken (1964) đã tiếp cận phân bố này bằng phương

trình logarit. Đặc biệt để tăng tính mềm dẻo, một số tác giả hay dùng các hàm
khác nhau. Loetsch (1973) dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm.
J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992), trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn
với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo- Brazil đã dùng hàm Weibull mô
phỏng phân bố N/D. (Dẫn theo Nguyễn Thanh Bình, 2003 [3]).
Tóm lại: Trong số các công trình nghiên cứu tái sinh trên thế giới mà
chúng tôi đã tham khảo chủ yếu tập trung vào các trạng thái rừng tự nhiên mà
chưa đề cập đến tái sinh ở trạng thái rừng thứ sinh nhân tác (rừng phục hồi
sau canh tác nương rãy).
1.1.2.2.Việt Nam
Theo nguyễn Văn Thêm (2002) [42] tái sinh rừng được hiểu là quá
trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng.
Ở miền Bắc nước ta từ 1962- 1969, Viện điều tra quy hoạch rừng đã
điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các “loại hình thực vật ưu thế” rừng
thứ sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là công trình điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Kết quả điều tra đã được
Vũ Đình Huề (1975) tổng kết trong báo cáo khoa học “ Khái quát về tình
hình tái sinh tự nhiên ở rừng Bắc Việt Nam” theo báo cáo đó, tái sinh tự nhiên
ở rừng Bắc Việt Nam cũng mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới.
8
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác, Phùng Ngọc Lan
(1984) [22] đã nêu ra kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở Lâm
trường Hữu Lũng (Lạng Sơn). Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là nhân vật
đầu tiên gây ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ nảy mầm. Tiếp theo các đề tài trên,
tác giả đã nghiên cứu và nêu lên sự cần thiết của việc bảo vệ và phát triển Lim
xanh, đồng thời đề ra một số biện pháp kĩ thuật về xử lí hạt giống, gieo trồng
loài cây này. Theo tác giả không nên trồng thuần loài Lim xanh.
Nguyễn Trọng Đạo (1969) [14] đã đưa ra các biện pháp kĩ thuật xúc
tiến tái sinh tự nhiên dựa vào tiêu chuẩn phân loại rừng, theo ông rừng loại

một thì không tu bổ và xúc tiến tái sinh.
Thái Văn Trừng (1978) [46] trong “ Thảm thực vật rừng Việt Nam” đã
nhấn mạnh một nhân tố sinh thái trong nhóm nhân tố khí hậu đã khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên của các xã hợp trong thảm thực vật
rừng, đó là ánh sáng.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương (1983) [45] đã đề cập
đến mối quan hệ giữa cấu trúc rừng với tái sinh tự nhiên trong rừng hỗn loài.
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở các rừng tái sinh tự nhiên vùng Hương Sơn- Hà
Tĩnh đã được Phạm Đình Tam ( 1987) làm sáng tỏ.
Nguyễn Văn Trương (1983) [45] trong “ Quy luật cấu trúc rừng gỗ
hỗn loài” đã cho rằng cần phải thay đổi cách khai thác rừng cho hợp lí vừa
cung cấp được gỗ, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng. Muốn đảm bảo cho
rừng phát triển liên tục trong điều kiện quy luật đào thải tự nhiên hoạt động
thì số lượng lớp cây dưới phải nhiều hơn lớp cây kế tiếp nó ở phía trên.
Nghiên cứu ảnh hưởng của các biện pháp lâm sinh tới quá trình tái sinh
tự nhiên của quần xã thực vật còn được một số tác giả nghiên cứu, Hoàng
Kim Ngũ (1984), Phùng Ngọc Lan (1984), Nguyễn Ngọc Lung (1985),
Nguyễn Duy Chuyên (1995)…
9
Lê Mộng Chân (1994) [10] khi điều tra tổ thành loài cây ở vùng núi cao
vườn quốc gia Ba Vì, ông cho rằng tình hình tái sinh tốt là 4100- 7440 cây/ha.
Cây có triển vọng chiếm trên 60%, thành phần cây tái sinh phần lớn là những
cây chịu bóng.
Khi nghiên cứu vai trò của tái sinh rừng ở các vùng Tây Bắc, vùng
Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Trung tâm, Trần Xuân Thiệp (1996)
[44] đã nhận định rằng vùng Đông Bắc có năng lực tái sinh khá tốt với số
lượng từ 8000-12000 cây/ha, tỉ lệ cây có triển vọng cao đáp ứng được cho
việc phục hồi rừng.
Thống kê các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên ở Việt Nam cho
thấy, phân bố N/D

1.3
của tầng cây cao (D≥ 6cm) có 2 dạng chính như: Dạng
giảm liên tục và có nhiều đỉnh phụ hình răng cưa, dạng một đỉnh hình chữ J.
Với mỗi dạng cụ thể, các tác giả chọn những mô hình toán học thích hợp để
mô phỏng.
Đồng Sỹ Hiền (1974) đã dùng hàm Mayer và đường cong Poisson để
nắn phân bố thực nghiệm số cây theo kích cỡ cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho
việc lập biểu thể tích và biểu độ thon cây đứng rừng Việt Nam. Khi nghiên
cứu rừng tự nhiên, ông cho rằng phân bố số cây theo chiều cao N/H ở các lâm
phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu
tầng phức tạp của rừng chặt chọn. Các tác giả đã sử dụng nhiều phương trình
toán học khác nhau để biểu diễn tương quan này. Với rừng tự nhiên nước ta,
ông đề nghị sử dụng phương trình Logarit hai chiều hoặc hàm mũ. Đồng thời,
tác giả cũng chỉ ra khả năng sử dụng một phương trình chung cho nhóm loài
cây có tương quan H/D thuần nhất với nhau.
Đào Công Khanh (1996) [20] đã chọn phương trình Logarit hai chiều để
biểu diễn quan hệ H/D
1.3
cho rừng tự nhiên hỗn loài ở Hương Sơn- Hà Tĩnh.
Vũ Nhâm (1988), Phạm Ngọc Giao (1989), Trần Văn Con (1991) đã áp
dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính ở các kiểu rừng khác nhau.
10
Vũ Tiến Hinh (1991) [16] đã thử nghiệm một số phân bố lí thuyết và
khẳng định phân bố Weibull là phân bố lí thuyết phù hợp nhất.
Nguyễn Hải Tuất (1981) [47] sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân
bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo. Lê Minh
Trung (1991) đã thử nghiệm một số phân bố xác suất mô tả phân bố N/D
1.3

nhận xét là, phân bố Weibull là thích hợp nhất cho rừng tự nhiên ở Đắc Lắc.

Gần đây nhất, Trần Xuân Thiệp (1996) [31], Lê Sáu (1995) [25] cũng khẳng
định sự hơn hẳn của phân bố Weibull trong việc mô tả phân bố N/D cho tất cả
các trạng thái rừng tự nhiên, cho dù phân bố thực nghiệm có dạng giảm liên
tục hay một đỉnh.
Qua tham khảo các tài liệu liên quan cho thấy, việc nghiên cứu phân bố
N/D trong thời gian gần đây không chỉ dừng ở mục đích phục vụ công tác
điều tra như xác định tổng tiết diện ngang, trữ lượng, mà chủ yếu là xây dựng
cơ sở khoa học cho giải pháp lâm sinh trong nuôi dưỡng rừng. Bảo Huy
(1993), Đào Công Khanh (1996) [20], Lê Sáu (1995) [35], đã nghiên cứu
phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây.
Các tác giả đều đi đến nhận xét chung là, phân bố N/H có dạng một đỉnh
chính và nhiều đỉnh phụ hình răng cưa và mô tả thích hợp bằng hàm Weibull.
Vũ Đình Phương (1987) [33] đã khẳng định giữa đường kính tán và
đường kính ngang ngực của cây rừng tự nhiên Việt Nam tồn tại mối quan hệ
mật thiết theo dạng đường thẳng. Tác giả đã thiết lập phương trình cho một số
loài cây lá rộng như: Ràng ràng, Vạng, Lim xanh, Chò chỉ trong lâm phần hỗn
giao khác tuổi để phục vụ công tác điều chế rừng.
Tóm lại: Các công trình nghiên cứu tái sinh ở Việt Nam chủ yếu tập
trung vào điều tra đánh giá tái sinh ở các trạng thái rừng trong điều kiện tự
nhiên. Còn những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên phục hồi rừng ở trạng thái
sau nương rãy còn ít, nhất là ở Bắc Giang.
11
1.1.3. Nghiên cứu về tái sinh sau nương rãy
1.1.3.1.Thế giới
Theo UNEP (1985) do rừng bị chặt phá và đất rừng bị sử dụng bừa bãi,
nên nạn sa mạc hóa đang lan rộng. Khí hậu đang thay đổi theo chiều hướng
xấu, đất đai bị xói mòn dẫn đến thoái hóa. Hoạt động nông nghiệp, thủy sản…
gặp khó khăn. Nhiều loài thực vật và động vật hoang dã rất quí đang có nguy
cơ bị tuyệt chủng. (Dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 2002 [42]).
F. A. Bazzaz (1968) khi nghiên cứu quá trình diễn thế phục hồi thảm

thực vật trên đất sau trồng trọt bỏ hoang ở vùng núi cao Shawnee, Illios (Mỹ)
đã đi đến kết luận rằng xói mòn đất có ảnh hưởng lâu dài đến diễn thế, ảnh
hưởng này thể hiện ở mật độ cây, tổng diện ngang của rừng đang phục hồi
(Dẫn theo Lê Đồng Tấn, 1999 [44]).
G.N. Baur (1976) [1] cho rằng kiểu làm nông nghiệp trên đất rừng mưa
biến đổi cực nhiều. Kiểu nguyên thủy nhất là trồng trọt du canh mà một số
dân tộc ở nhiều nước nhiệt đới vẫn còn tiến hành. Ở đó người ta định cư tạm
thời, chặt phá từng khoảnh rừng và đốt rồi trồng trọt trên đó một hay hai năm
cho tới khi độ phì nhờ thảm thực vật ban đầu mà có đã không còn nữa. Người
ta lại phát những khoảnh mới và đến khi ở quanh vùng không còn đất thích
hợp nữa hoặc vì nguyên nhân nào khác buộc phải thay đổi đi thì bộ lạc di
chuyển tới định cư ở một nơi ở mới, bỏ đất đã canh tác cho rừng mọc lại và
với thời gian rừng lại khôi phục độ phì của đất. Ông cho rằng gần gũi với du
canh là phương thức luân canh bỏ hóa cho cây bụi mọc. Như tên gọi cho thấy,
phương thức này cũng dựa vào tình hình rừng mưa mọc lại để khôi phục ít ra
là một phần độ phì nhiêu tự nhiên của đất, nhưng trong trường hợp các hoạt
động trồng trọt đều được tiến hành ở những khu định cư lâu dài.
H. Lamprecht et al (1989), Warner (1991), Rouw (1991) khi nghiên cứu
diễn thế đều cho rằng: đầu tiên đám nương rãy được các lào cỏ xâm chiếm,
12
nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng lân cận hỗ
trợ cho việc hình thành quần tụ các loài cây gỗ, tạo ra kiểu hoàn cảnh thích hợp
cho việc sinh trưởng của cây con. Những cây gỗ tiên phong chết đi sau 5-10
năm và được thay thế dần bằng các cây rừng mọc chậm, ước tính phải mất
hàng trăm năm thì nương rãy cũ mới chuyển thành loại hình rừng gần với dạng
rừng nguyên sinh ban đầu. (Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [43]).
Saldarraga (1991) khi nghiên cứu tại 24 điểm thuộc vùng rừng nhiệt đới
ở Colombia và Venezuela nhận xét: sau khi bỏ hóa số lượng loài thực vật tăng
dần từ ban đầu đến rừng thành thục. Thành phần các loài cây trưởng thành
phụ thuộc tỉ lệ các loài nguyên thủy mà nó được sống sót từ thời gian đầu của

quá trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số
canh tác của khu vực đó. (Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [43]).
Katherine Warner (1991) cho rằng du canh thể hiện phản ứng của con
người khi gặp khó khăn trong việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp sinh
thái ở rừng nhiệt đới. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của canh tác nương rãy
đến môi trường Brunig và cộng sự (1975), đã chứng minh canh tác nương rãy
ở Sabah- Malaysia trong thời gian canh tác đã gây ra mức độ xói mòn từ 0,5-
2mm đất (10-40 tấn/ha) trên đất rừng tự nhiên. Nghiên cứu về ảnh hưởng của
canh tác nương rãy đối với chế độ thủy văn, lưu vực nước, xói mòn và độ phì
của đất tùy thuộc từng nơi nghiên cứu của Naprakabob et al (1975). (Dẫn theo
Phạm Ngọc Thường, 2003 [43]).
Long Chun và cộng sự (1993) khi nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ
sinh thái nương rãy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét:
Tại Baka thì nương rãy bỏ hóa được ba năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực
vật tái sinh tự nhiên với các loài ưu thế là Chromolaena odorata, Digitaria
sanguinalis, Melastoma polyanthum. Bỏ hóa 19 năm có 60 họ, 134 chi, 167
loài với các loài ưu thế là Phoebe lanceolata, Shima wallichii, Sclerophylum
wallichiana. (Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [43]).
13
Tóm lại: Các công trình nghiên cứu tái sinh sau nương rãy trên thế giới
chủ yếu tập trung vào đánh giá ảnh hưởng của canh tác nương rãy đến môi
trường. Còn những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên phục hồi rừng ở trạng thái
sau nương rãy còn ít.
1.1.3.2.Việt Nam
Nhân dân sống ở vùng đồi núi, đất rộng người thưa thường có tập quán
du canh, du cư đốt rãy làm nương làm cho tình trạng đất bị xói mòn và bạc
màu diễn ra rất nghiêm trọng. Tuy nhiên ở Việt Nam tài liệu nghiên cứu canh
tác còn rất ít. Có thể tổng quan như sau:
Đào Công Khanh (1965) [20] trong “ Trồng, bảo vệ rừng trong sản
xuất và khai hoang”. Tác giả tổng kết trồng và bảo vệ rừng trong sản xuất

nương rãy còn có tác dụng giữ vững màu đất nâng cao năng suất cây trồng,
tạo điều kiện tốt để định cư, định canh, góp phần cải thiện đời sống đồng bào
miền núi và ổn định cơ sở sản xuất ở các hợp tác xã khai hoang. Theo tác giả
để phục hồi rừng trong sản xuất nương rãy gồm các công tác cụ thể sau.
- Thực hiện thâm canh và định cư.
- Xây dựng quy hoạch phục hồi rừng, trồng rừng trong sản xuất nương rãy.
- Phục hồi rừng sau nương rãy.
- Phát triển ruộng nương bậc thang.
Trần Ngũ Phương (1970) [32] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới
mưa mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “ Rừng tự nhiên dưới tác động
của con người khai thác hoặc làm nương rãy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết
quả cuối cùng là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. nếu chúng ta để thảm
thực vật hoang dã nó phát triển trở lại, thì sau một thời gian dài trảng cây bụi,
trảng cỏ chuyển dần lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái
sinh tự nhiên và cuối cùng rừng có thể phục hồi dưới dạng gần giống trạng
thái rừng ban đầu”.
14

×