Trờng đại học nông nghiệp hà nội
Khoa kinh tế và phát triển nông thôn
Luận văn tốt nghiệp đại học
NGHIấN CU NNG LC THAM GIA TH TRNG CA
CC H NễNG DN NGHẩO HUYN HNG SN
TNH H TNH
Tên sinh viên : Đặng Phúc Giang
Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : KT 49B
Niên khoá : 2004 - 2008
Giáo viên hớng dẫn : TS. Nguyễn Thị Minh Hiền
Hà nội, năm 2008
MỤC LỤC
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thịết của đề tài
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu. Nghèo
đói không chỉ xảy ra ở các nước nghèo mà ngay cả ở các nước giàu cũng phải
đương đầu với nó trong bước đường phát triển. Việt Nam là một nước nghèo
có tỷ lệ hộ người nghèo lớn, theo số liệu thống kê năm 2005 cả nước có
khoảng 3,9 triệu hộ nghèo chiếm 22% dân số toàn quốc. Khoảng cách về thu
nhập có xu hướng gia tăng. Chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và
20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; Chênh lệch
giữa 10% nhóm giàu nhất từ 12,5 lần năm 2002 tăng lên 13,5 lần năm 2004.
Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo này sẽ làm cho tình trạng nghèo đói
tương đối trở nên khó khăn hơn (Nguyễn Hải Hữu, 2007).
Trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam, vấn đề về
nghèo đói là một trong những quan tâm hàng đầu của chính phủ. Các chính
sách phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế hàng hóa có sự quản lý của
nhà nước. Hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, được sử dụng ruộng
đất lâu dài, sức lao động được giải phóng, hộ nông dân được tự do sản xuất,
kinh doanh và làm giàu chính đáng. Các hợp tác xã và tổ chức quốc doanh
nông nghiệp chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình. Với tư cách là
một chủ thể kinh tế, các hộ nông dân đã sử dụng đất đai, nguồn vốn, sức lao
động một cách hiệu quả. Có rất nhiều hộ nông dân làm ăn giỏi, hộ khá ngày
càng tăng, hộ nông dân nghèo đã cải thiện đáng kể về thu nhập. Tuy nhiên sự
khác nhau về điều kiện sản xuất, kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất,… giữa các
nhóm hộ đã dẫn tới sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa giàu nghèo khá rõ
nét trong nông thôn hiện nay.
- 3 -
Cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Người dân nông thôn nói chung và người nghèo nói riêng đã và
đang đối mặt với nhiều thách thức rất lớn bên cạnh những thuận lợi nhất định
từ xu thế này mang lại. Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của cơ chế thị
trường đẩy những bộ phận thiệt thòi trong xã hội rơi vào tình thế bất lợi. Đối
tượng chịu bất lợi nhiều nhất từ xu hướng này chính là người nghèo. Người
nghèo là những đối tượng yếu kém về năng lực cạnh tranh do những sở hữu
hạn chế về vốn tự nhiên, vốn con người, vốn tài chính, vốn vật chất và vốn xã
hội, bản thân họ không thể đủ sức cạnh tranh nên khi tham gia vào các thị
trường họ là người thua cuộc.
Huyện Hương Sơn - tỉnh Hà Tĩnh là huyện nghèo trong một tỉnh nghèo
nhất của Việt Nam, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nguồn tài nguyên
thiên nhiên không được ưu đãi, sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính
của các hộ nông dân. Do vậy, đời sống của người dân nơi đây gặp nhiều khó
khăn. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm mức cao trong dân số của huyện (năm 2007 toàn
huyện có 13076 hộ nghèo với 47989 nhân khẩu chiếm 37,08%). Là khu vực
nằm cách xa khu vực trung tâm của tỉnh, nên khả năng tiếp cận với thị trường
của người dân nói chung và người nghèo nói riêng gặp nhiều hạn chế cần có
giải pháp khắc phục.
Việc cải thiện sự tham gia thị trường cho người nghèo có ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển sinh kế và XĐGN, vì khi hoạt động, thị trường tạo
điều kiện để phát triển sinh kế thông qua sử dụng tốt hơn các nguồn lực khác
của thị trường và tạo ra những liên kết trong nền kinh tế địa phương và ngoài
địa phương. Chính vì vậy tăng cường năng lực thị trường cho hộ nông dân
nghèo là biện pháp quan trọng để thực hiện được điều đó. Xuất phát từ yêu cầu
- 4 -
đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu năng lực tham gia thị
trường của các hộ nông dân nghèo ở huyện Hương Sơn – Tỉnh Hà Tĩnh"
Nghiên cứu quan tâm giải quyết các câu hỏi:
- Thực tế tiếp cận thị trường của các hộ nghèo ở huyện Hương Sơn
đang diễn ra như thế nào?
- Họ đang có những thuận lợi gì và gặp phải những khó khăn gì trong
việc tiếp cận các thị trường này?
- Liệu cần có những giải pháp chính sách gì để giúp người nghèo có thể
tiếp cận tốt hơn, có lợi hơn với các loại thị trường đó?
- Người nghèo có những mong muốn gì để giúp họ có thể giúp họ tự
vươn lên thoát nghèo và phát triển?
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá cơ hội tham gia thị trường và khả năng tham gia thị
trường của nông hộ nghèo, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường
năng lực tham gia thị trường cho nông hộ nghèo trên địa bàn huyện Hương
Sơn – tỉnh Hà Tĩnh.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về năng lực tham gia thị
trường nói chung và đặc điểm tham gia thị trường nông hộ nghèo nói riêng.
- Đánh giá thực trạng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia
thị trường của các nông hộ nghèo trên địa bàn huyện Hương Sơn – tỉnh Hà Tĩnh.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tham
gia các loại thị trường cho các nông hộ nghèo trên địa bàn huyện Hương Sơn – tỉnh
Hà Tĩnh.
- 5 -
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực tham gia các loại thị
trường cho nông hộ nghèo. Năm loại thị trường (hàng hoá, lao động, tài chính, đất
đai và dịch vụ) sẽ được tập trung đề cập đến trong đề tài.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cụ thể nâng cao năng lực tham
gia thị trường cho nông hộ nghèo ở các điểm nghiên cứu nói riêng, ở huyện
Hương Sơn nói chung.
Trong phạm vi nghiên cứu, tập trung chủ yếu xem xét việc người nghèo
đang tham gia ở đâu và như thế nào trong các thị trường (Hàng hoá, lao động,
đất đai, tài chính, dịch vụ). Từ đó đưa ra những giải pháp cho người nghèo
tham gia tốt hơn vào các thị trường đó để phát triển sinh kế.
1.3.2.2. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Hương Sơn – tỉnh Hà tĩnh.
1.3.2.3. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu sử dựng số liệu nghiên cứu trong 3 năm từ năm 2005 đến 2007.
Thời gian nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2008.
- 6 -
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Những khái niệm về nghèo đói và tiêu chuẩn nghèo đói
Nghèo đói mang tính chất lịch sử, có tính động thay đổi theo thời gian
và không gian. Trong một giai đoạn thời gian, trong một vùng sẽ có sự thay
đổi về tỷ lệ nghèo đói. Mặt khác, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, thì các
chỉ số xác định nghèo đói cũng thay đổi theo. Ở mổi thời điểm những chỉ số
nghèo đói của mổi vùng cũng khác nhau. Có thể chỉ số xác định nghèo đói
của vùng này có thể là chỉ số giàu của vùng khác.
Do vậy phải xác định được căn nguyên của sự đói nghèo của địa bàn
đó, để từ đó có chính sách, giải pháp phù hợp để giảm được tỷ lệ nghèo đói.
Sự đói nghèo đã được nhiều tổ chức trên thế giới nghiên cứu và đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau:
- Tại hội nghị XĐGN ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP
tổ chức vào tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc (Thái Lan) đã đưa ra khái niệm:
“Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu ấy được xã hội thừa nhận theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
- Theo Ngân hàng phát triển Châu Á đưa ra khái niệm nghèo tương đối
và nghèo tuyệt đối:
+ Nghèo tuyệt đối là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối
thịểu chỉ đạt duy trì sự sống của con người.
- 7 -
+ Nghèo tương đối là không có khả năng đạt mức sống tối thịểu tại một
thời điểm nào đó ở một địa phương nào đó.
Để phân định hộ nghèo, hộ giàu người ta thường lấy chỉ tiêu thu nhập
làm thước đo, những hộ giàu là những hộ có mức thu nhập cao, ngược lại hộ
nghèo là những hộ có mức thu nhập và mức sống thấp.
Ở Việt Nam, qua nhiều cuộc điều tra, khảo sát nghiên cứu, các nhà
nghiên cứu và quản lý ở các bộ ngành đã đi đến thống nhất cần có khái niệm
riêng, chuẩn mực riêng cho người nghèo đói như sau:
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn
một phần nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức
sống tối thịểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Đói nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống tối
thịểu, không đảm bảo nhu cầu duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản của con
người được chia thành 2 loại: Thứ nhất, nhu cầu thịết yếu gồm ba yếu tố: ăn,
mặc, ở. Thứ hai, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm 5 yếu tố: văn hoá, giáo
dục, y tế, đi lại và giao tiếp.
Theo quy định của Bộ lao động TBXH, trong giai đoạn năm 2001 –
2005 chuẩn nghèo ở nông thôn là 100.000 đồng/người/tháng và đối với khu
vực thành thị là 150.000 đồng/người/tháng. Do mức sống người dân nói
chung ngày càng tăng, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận với
các nước đang phát triển trong khu vực về XĐGN, nên chuẩn nghèo giai đoạn
2001 – 2005 không còn phù hợp với giai đoạn mới. Trên cơ sở có tính đến
các yếu tố ảnh hưởng (trượt giá, tăng trưởng…). Chính phủ đã ban hành
Quyết định 170/2005/QĐ – TTg ngày 8/7/2005 về ban hành chuẩn nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2005 – 2010 như sau:
- 8 -
Đối với khu vực nông thôn, những hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng từ 200.000 đồng trở xuống.
Đối với khu vực thành thị, những hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng từ 260.000 đồng trở xuống.
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn hoặc bằng
chuẩn nghèo được xác định là hộ nghèo. Theo tiêu chuẩn nêu trên, ước tính
vào cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ
toàn quốc. Vùng có tỷ lệ hộ nghèo nhiều nhất là Vùng Tây Bắc (42%) và Tây
Nguyên (38%), thấp nhất là vùng Nam Bộ (9%)…
2.1.2. Khái niệm về thị trường
• Theo quan điểm của kinh tế học: Thị trường là nơi người bán và
người mua gặp gỡ nhau để thoả mãn nhu cầu của mình bằng trao đổi hàng
hoá hay dịch vụ.
• Xét trên quan điểm phân chia địa lý: Thị trường là vị trí địa lý kinh
tế mà qua đó cung - cầu gặp gỡ nhau và thoả mãn.
• Xét về quan điểm của Marketing: Thị trường là toàn bộ khách hàng
hiện tại và tương lai của một sản phẩm nào đó.
• Xét trên quan điểm giao dịch: Thị trường là tập hợp tất cả người
mua thật sự hay tiềm năng đối với một sản phẩm.
Tóm lại, thị trường là một quá trình trong đó người bán và người mua
hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau xác định giá cả, số lượng, chất lượng của
một hay nhiều loại hàng hoá dịch vụ. Qua đó có thể coi thị trường là thước đo
của mọi thành phần kinh tế.
+ Thị trường lao động
Theo quan điểm của kinh tế học: Lao động là một yếu tố sản xuất do
con người tạo ra và là một dịch vụ hàng hoá. Người có nhu cầu về hàng hoá
này là người sản xuất. Người cung cấp hàng hoá này là người lao động. Cũng
- 9 -
như các hàng hoá và dịch vụ khác, lao động trao đổi trên thị trường gọi là thị
trường lao động. Giá của lao động là tiền công thực tế mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động. Mức tiền công chính là giá của lao động. Thị
trường lao động cũng chịu sự điều tiết về giá và quy luật cầu - cung.
+ Thị trường tín dụng:
Thị trường tín dụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính,
chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hoá. Thị trường tín dụng phát
triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc
gia. Thị tín dụng giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối
với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư, người cho
vay sẽ só lãi thông qua lãi suất cho vay. Người vay vốn phải tính toán sử dụng
nó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng
thời phải tạo thu nhập và tích luỹ cho bản thân mình.
Tín dụng cho người nghèo, là một loại tín dụng đặc biệt: một bên là tín
dụng - một hình thức quan hệ tồn tại trong nền kinh tế thị trường pháp triển,
một bên là người nghèo với năng lực thấp kém và phương thức sản xuất lạc
hậu, khó có thể tiếp cận với thị trường hiện đại. Do vậy quy luật tiền đẻ tiền
của tín dụng trong nền kinh tế thị trường bị người nghèo phá vỡ. Tín dụng vào
thị trường này nếu là thứ tín dụng đúng nghĩa của nó thì sẽ không phát huy hiệu
quả vì người nghèo là khách hàng dễ bị tổn thương. Do đó, tín dụng xủa người
nghèo chỉ phát huy được hiệu quả khi nó phù hợp với năng lực của người sử
dụng nó, mà cụ thể đây là người nghèo (Nguyễn Tố Quyên, NCKT 320)
+ Thị trường đất đai: Là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
Theo nghĩa rộng, thị trường đất đai là tổng hoà các mối quan hệ về giao
dịch đất đai diễn ra tại một khu vực địa lý nhất định, trong khoảng thời gian
nhất định. Theo nghĩa hẹp, thị trường đất đai là nơi diễn ra các hoạt động liên
quan trực tiếp đến giao dịch đất đai.
- 10 -
Sản phẩm trao đổi trên thị trường đất đai là một sản phẩm đặc biệt, đó là
đất đai. Với các hàng hoá khác, khi mua người mua trả tiền và anh ta được
quyền sở hữu và sử dụng nó. Còn với đất đai, khi trao đổi người ta chỉ thay đổi
quyền sử dụng hơn là quyền sở hữu. Sự tách rời quyền sở hữu và sử dụng là một
trong những nét căn bản của hàng hoá đất đai (Đỗ Kim Chung, NCKT Số 260)
Các hoạt động trên thị trường đất đai trong nông nghiệp:
1) Bán và mua: Là hoạt động mua bán sở hữu quyền sử dụng đất đai
lâu dài (hết hạn giao đất)
2) Đi thuê và cho thuê: Là việc bán hay mua sự sở hữu quyền sử dụng
đất theo một thời gian nhất định, thường theo vụ, theo năm. Người bán là
người cho thuê đất, người mua được gọi là người đi thuê đất.
3) Mượn và cho mượn ruộng đất: Là việc chuyển nhượng quyền sử
dụng ruộng đất từ người cho mượn sang người đi mượn, còn sở hữu quyền sử
dụng ruộng đất vẫn thuộc về người cho mượn. Thường không xác định rõ thời
gian, khi cần người cho mượn sẽ lấy lại.
4) Đổi ruộng: Là việc dồn ghép nhiều thửa ruộng nhỏ thành một vài
mãnh ruộng lớn hơn. Hộ nông dân tham gia vào đổi ruộng không mất đi về
ruộng đất mà giá trị ruộng đất giữ nguyên, chỉ có sự thay đổi về diện tích, vị
trí và số thửa.
5) Thế chấp vay vốn và góp vốn kinh doanh.
+ Thị trường hàng hoá nông nghiệp: Là nơi diễn ra các hoạt động trao
đổi hàng hoá và dịch vụ liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Bao gồm: Thị
trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào là các nguyên liệu,
công cụ, dụng cụ, máy móc…phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và các dịch
vụ kèm theo. Thị trường đầu ra gồm tất cả các hoạt động để đưa nông sản đến
với người tiêu dùng cuối cùng (Trịnh Hữu Hạnh, Kinh tế phát triển số 94)
- 11 -
Thị trường hàng hoá nông nghiệp là cầu nối giữa người sản xuất với
người tiêu dùng về các sản phẩm nông nghiêp, giữa ngành công nghiệp cung
cấp đầu vào và công nghiệp chế biến với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
2.1.3. Thị trường trong phạm vi của nghiên cứu:
a) Khái niệm về thị trường nghiên cứu
Thị trường trong nghiên cứu này không tập trung đánh giá về vận hành
của thị trường mà tập trung chủ yếu xem xét việc người nghèo đang tham gia
ở đâu và như thế nào trong các thị trường này. Từ đó đưa ra những giải pháp
cho người nghèo tham gia tốt hơn và các thị trường đó. Thị trường được hiểu
là các giao dịch, trao đổi hàng hoá, dịch vụ và những thể chế liên quan trực
tiếp đến giao dịch đó. Tham gia tốt hơn có nghĩa là làm sao để gia tăng giá trị
trong sản phẩm của người nghèo, cũng như hỗ trợ người nghèo có thể tham
gia vào các khâu mang lại giá trị cao hơn. (www.Markets4poor. org)
Thị trường là thể chế hoạt động tạo điều kiện cho trao đổi một cách
hiệu quả. Một thị trường vận hành tốt sẽ giảm giá giao dịch giữa người mua
và người bán xuống mức thấp nhất. Những giải pháp về thị trường vì người
nghèo, trước tiên thị trường phải làm việc rồi mới vì người nghèo. Một thị
trường có lợi cho người nghèo là một thị trường mở ra nhiều sự lựa chọn cho
người nghèo và sản sinh ra những kết quả của thị trường có lợi cho người
nghèo. Điều này bao gồm việc làm với mức lương hấp dẫn, được lợi từ sản
phẩm bán ra và có khă năng có được những sản phẩm và dịch vụ chủ chốt.
b) Ý nghĩa của việc tham gia thị trường đối với sinh kế của người nghèo
* Năng lực tham gia thị trường thể hiện ở:
+ Khả năng gia nhập thị trường: Việc gia nhập và rời khỏi thị trường
của người nghèo có những thuận lợi và khó khăn gì?
- 12 -
+ Khả năng mua hàng: Người nghèo có điều kiện tiếp cận và khả năng
về tài chính để mua các hàng hoá, dịch vụ hay không? Nếu mua được thì bằng
phương thức nào? Những thuận lợi và khó khăn gặp phải là gì?
+ Năng lực hoàn trả (bán): Người nghèo có khả năng cung ứng ra thị
trường những loại hàng hoá, dịch vụ nào? Số lượng, chất lượng, giá cả và rủi
ro gặp phải khi tham gia thị trường.
+ Sự lựa chọn: Thể hiện khả năng lựa chọn hàng hoá dịch vụ thay thế
sao cho có lợi nhất cho người nghèo.
* Sinh kế của người nghèo
Sinh kế bao gồm khả năng, nguồn vốn, tài sản (nguồn lực vật chất và
xã hội) và các hoạt động kiếm sống cần thịết.
Sinh kế được xem xét trên các lĩnh vực người nghèo sử dụng tài sản và
dịch vụ trong hoạt động khác nhau để tạo ra sản phẩm có thể được tiếp cận và
mua bán thông qua thị trường hoặc các dạng trao đổi khác. Các thị trường vận
hành hiệu quả tạo điều kiện cạnh tranh và có chi phí giao dịch thấp thường tạo
ra những khuyến khích thương mại và đầu tư cũng như tăng trưởng kinh tế và
xoá đói giảm nghèo.
Sinh kế của người nghèo phụ thuộc trực tiếp vào khả năng tham gia của
họ vào các thị trường khác nhau như lao động, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tài
chính và đất đai. Hơn thế nữa, thị trường cho người nghèo có ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển sinh kế vì khi hoạt động, thị trường tạo điều kiện để
phát triển sinh kế thông qua sử dụng tốt hơn các nguồn lực khác của thị
trường và tạo ra những liên kết trong nền kinh tế địa phương và ngoài địa
phương. Chính vì vậy tăng cường năng lực thị trường cho hộ nông dân nghèo
là biện pháp quan trọng để thực hiện được điều đó.
- 13 -
Khung sinh kế của người nghèo
H: Nguồn vốn con người N: Nguồn vốn tự nhiên
F: Nguồn vốn tài chính P: Nguồn vốn vật chất S: Nguồn vốn xã hội
Nghiên cứu mối quan hệ giảm nghèo thông qua sinh kế và thị trường
dựa trên quan điểm cho rằng, thông qua tham gia hoạt động thị trường (với
các thể chế có lợi cho người nghèo) có thể tác động làm gia tăng các nguồn
vốn và tài sản sinh kế cho người nghèo.
+ Các thể chế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường:
- Chính phủ và các tổ chức chính trị xã hội: Chính phủ quyết định các
luật và khung khổ pháp luật cho thị trường vận hành và phát triển. Chính phủ
Bối
cảnh tổn
thương
- Sốc
- Xu
hướng
- Mùa
vụ
Cấu trúc của
quá trình biến
đổi
- Các cấp
chính quyền
- Khu vực tư
nhân
- Pháp luật
- Chính sách
- Thể chế
Quy trình thực
hiện
Hiệu quả kinh tế
- Tăng thu nhập
- Tăng mức
sống
- Giảm tình
trạng dễ tổn
thương
- Cải thiện an
ninh lương
thực
- Tính bền vững
khi sử dụng
các nguồn tài
nguyên
Chiến
lược
sinh
kế
H
N
F
S
P
- 14 -
thông qua các chính sách và các ưu tiên có thể định hướng sự phát triển của
thị trường, làm cho thị trường có lợi hơn đối với nhóm người nghèo.
- Các thể chế quản lý và vận hành: Bao gồm các luật điều chỉnh các hành
vi ứng xử, tuân thủ hợp đồng, quy định về sở hữu, bảo hộ tài sản đối với các nhà
đầu tư hiện hành và tương lai, tiêu chuẩn về hàng hoá và các dịch vụ sử dụng…
- Thịết chế về hạ tầng cơ sở: Bao gồm các hàng hoá công cộng như
đường xá, cung cấp điện năng, hệ thống thông tin liên lạc, thông tin thị trường…
- Thịết chế về thị trường:
Bao gồm hệ thống các nhà bán buôn, bán lẻ, các nhà sản xuất, tư
thương, người mô giới trung gian, các hiệp hội sản xuất, tiêu dùng, các dịch
vụ cung cấp tài chính, các luật sư…
- 15 -
2.1.4. Các chỉ tiêu để đánh giá
• Các chi tiêu phản ánh về tình hình nghèo đói của một quốc gia hay một vùng:
- Tổng số hộ nghèo đói của một vùng.
- Tỷ lệ phần trăm hộ nghèo đói trong một quốc gia, một vùng
• Chỉ tiêu về thu nhập và cơ cấu thu nhập:
Mức thu nhập được tính bình quân trên đầu người một tháng, một vụ,
một năm. Do giá cả thay đổi theo thời gian và có sự khác nhau giữa các quốc
gia, các vùng nên để thống nhất đơn vị tính và có thể so sánh được. Mức thu
nhập được tính theo giá trị USD và hiện vật (thường quy ra gạo), nhu cầu
năng lượng khẩu phần bình quân cho một người hay lượng kalo tối thịểu cho
một người/ngày.
- Thu nhập bình quân đầu người trên một năm: Công thức,
Thu nhập/ người/ năm =
- Các chỉ tiêu về sinh hoạt: Phản ánh điều kiện sống của các nhóm hộ.
Thể hiện: Số vật dụng có giá trị trong các hộ, chất lượng các bữa ăn của hộ,
các dụng cụ cần thiết khác như: nhà ở, giếng nước, công trình vệ sinh, xe đạp,
xe máy, tivi,
• Chỉ tiêu điều kiện sản xuất: Phản ánh năng lực của các hộ về các
nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế.
Về vốn, bao gồm các chỉ tiêu về khả năng đầu tư, khả năng tiếp cận và
vay vốn từ các nguồn, phản ánh khả năng về vốn của các hộ nghèo.
Thu nhập cộng đồng trong 1 năm
Tổng số dân
- 16 -
Số lượng vốn đầu tư cho sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác,
trong một vụ, trong một năm… của các hộ nông dân.
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ tham gia vào thị trường tín dụng:
+ Tỷ lệ các hộ vay vốn (%) =
(Tính tương tự cho các thị trường khác)
Về lao động, các chỉ tiêu liên quan đến nguồn nhân lực của các hộ nông
dân: Số lượng lao động/ hộ, lượng lao động/ đơn vị diện tích canh tác, số lao
động có trình độ/ tổng số lao động, số lao động có việc làm/ tổng lao động.
• Các chỉ tiêu phản ánh kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nghèo đói:
- Giá trị sản xuất (GO) là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ
sáng tạo trong thời gian nhất định, thường là một năm.
GO =
i
n
i
P
Q
i
i
*
1
∑
=
Trong đó:
Q
i
: Là khối lượng sản phẩm i
P
i
: Giá bán sản phẩm thứ i
• Giáo dục, y tế: Chỉ tiêu này thể hiện mức độ tham gia các hoạt
động dịch vụ ở địa phương thể hiện qua: Số trẻ em được đến trường đúng độ
tuổi, trình độ văn hoá, chuyên môn của các thành viên trong các nhóm hộ, số
người nghèo có bảo hiểm y tế, số người mức bệnh được chữa trị tại các cơ sở
y tế.
Số hộ tham gia vay vốn
Tổng số hộ
* 100
- 17 -
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực tiễn và kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Nghiên cứu về năng lực tham gia thị trường của người nghèo nhằm tìm
ra giải pháp cho vấn đề này là một trong những giải pháp quan trọng trong
chiến lược xoá đói giảm nghèo của các nước trên thế giới.
• Kinh nghiệm từ Hàn Quốc:
Những năm 60, nền kinh tế Hàn Quốc vẫn đang rơi vào cảnh nghèo đói
nghiêm trọng, đặc biệt là khu vực nông thôn. Tuy nhiên trong 3 thập kỹ cuối của
thế kỹ trước, Hàn Quốc đã chuyển đổi từ một nước có nền kinh tế lạc hậu sang
một nước công nghiệp mới. Trong quá trình chuyển đổi nhanh chóng này,
khoảng cách phát triển giữa khu vực nông thôn và thành thị đã tăng lên. Khoảng
cách này thể hiện rõ nét ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế. Cuộc sống nông thôn
Hàn Quốc sau những năm 70 có thể minh chứng bằng thực tế có 80% là nhà
tranh và chỉ có 20% hộ sống có đèn điện trong số 2.5 triệu nhà ở nông thôn.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền nông nghiệp bán tự túc sang nền sản
xuất hàng hóa theo hướng thị trường, các cơ sở vật chấp tiền hiện đại ở cấp
làng là một nhân tố bắt buộc đối với hoạt động nông nghịêp hữu hiệu và một
cuộc sống ở nông thôn được cải thịện. Chiến lược nâng cao năng lực tham gia
thị trường cho các hộ nông dân, đặc biệt là các hộ nghèo được bắt đầu bằng
việc cải thịện đường làng, nâng cấp nhà ở, cải thịện hệ thống cấp nước, điện
lưới nông thôn, giới thịệu giống cao sản, chiến tiết kiệm của hộ nông dân, xây
dựng hội trường làng, đào tạo lãnh đạo làng và các dự án khác. Song song với
nó là việc mở rộng các tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn,
đẩy nhanh tốc độ CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Điều khác biệt trong
việc nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người dân nông thôn là Nhà
Nước chấp nhận tình trạng gia tăng nghèo đói trong thời gian đầu để đổi lại sự
- 18 -
phát triển trong giai đoạn sau. Việc phát triển công nghiệp nông thôn và Nhà
Nước tham gia mạnh tay vào việc phát triển thị trường hàng hoá nông nghiệp
đã đẩy người nông dân nghèo vào thế cùng phải vươn lên bằng việc thay đổi
ngành nghề trở thành đội ngủ công nhân trong ngành nông nghiệp hàng hóa,
đầu tư cho con em học tập nâng cao trình độ nhằm đảm bảo có việc làm thu
nhập cao sau này. Tuy nhiên, giai đoạn đầu Chính Phủ Hàn Quốc phải đầu tư
rất nhiều cho các chương trình trợ giúp cho người nghèo để họ vượt qua khó
khăn, dần dần nâng cao khả năng của mình trong sự phát triển của kinh tế thị
trường.
Những kết quả thu được của Hàn Quốc trong thời gian qua đã minh chứng
khách quan cho đường lối đúng đắn của Hàn Quốc trong chiến lược XĐGN.
Như vậy, kinh nghệm trong công tác xoá đói, giảm nghèo của các nước
có điều kiện tương tự như Việt Nam cho thấy: Chương trình phát triển nông
thôn đã được cụ thể hoá thành chương trình trợ cấp vốn, kỹ thuật, hiện đại hoá
cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhằm tư bản hoá nông thôn, đã tạo ra một tầng lớp
này cơ bản là động lực quan trọng của cơ chế thị trường, của phát triển nông
thôn nhằm XĐGN. Bởi chỉ có cơ chế thị trường mới làm cho hiệu quả kinh tế
đạt được mức độ cao, điều mà các nước nghèo cần thịết nhất trước mắt.
• Kinh nghiệm từ Inđônêxia:
Từ 1969 đến nay chính phủ nước này đã thực hiện kế hoạch 5 năm trong
đầu tư ngân sách chi nông nghiệp được coi trọng hàng đầu, đặc biệt đầu tư cho
công trình thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng. Khắc phục tình trạng khủng hoảng lương
thực và tạo khả năng cho nông dân tự nâng cao mức sống của chính mình. Chính
phủ Indônêxia không chỉ đặt mục tiêu vào sự tăng trưởng mà còn chú trọng đến
các mục tiêu xã hội, nhà nước thực hiện chính sách vừa củng cố nông thôn vừa
tạo điều kiện tự do hoá sản xuất nông nghiệp. Nhà nước duy trì chính sách thu
- 19 -
mua lương thực bằng giá cạnh tranh theo giá thị trường tự do. Chính phủ đã
hoàn thành một loại các tổ chức hỗ trợ nông nghiệp như tổ chức phát triển làng
xã và tổ chức cấp tín dụng cho nhân dân. Nông dân bán gạo cho các tổ chức này
theo giá thị trường, đồng thời còn nhận được các hỗ trợ tín dụng vào kỹ thuật.
Chính phủ đã tiến hành “cuộc cách mạng xanh” trong nông nghiệp, áp
dụng kỹ thuật chọn giống thành lập hàng loạt các nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu,
phân bón… Nhằm tạo điều kiện cho nông dân tăng lương thực, đặc biệt chính phủ
đã thành lập 2 chương trình BIMAS và INMAS nhằm hỗ trợ nông dân nghèo
không có khả năng tạo vốn với lãi suất ưu đãi và kéo dài thời gian trả nợ. Chương
trình INMAS tập trung cấp vốn cho các hộ nông dân từ mức trung bình trở lên.
Hàng năm trong ngân sách phát triển chính phủ chi 2% ngân sách cho
chi phí nông thôn để xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, chăm sóc y tế
thực hiện chính sách hạn chế dân số và chương trình giáo dục tiểu học,
chương trình xoá đói giảm nghèo.
Kết quả thu được là rất khả quan, Inđônêxia đã giảm trừ được 70 triệu
người nghèo khổ (60% dân số) trong thập niên 70 xuống còn 27 triệu người
nghèo đói (15% dân số) vào đầu thập niên 90.
2.2.2. Thực tiễn ở Việt Nam.
Một vài kinh nghiệm về xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam:
Xoá đói, giảm nghèo là một câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam. Kết luận này dựa trên thực tế là kể từ cuối thập niên
1980, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong giảm nhanh tỷ lệ
người nghèo đã giảm từ trên 70% vào năm 1980 xuống còn 10% vào năm
2005. Điều này đồng nghĩa với hàng triệu người dân Việt Nam đã thoát khỏi
cảnh nghèo khổ trong gần 2 thập kỹ qua (Thu Hà_ktca-tbd.2008).
- 20 -
Giảm nghèo ở Việt Nam phản ánh cả trên bình diện gia tăng chi tiêu
đầu người trong hộ gia đình và tăng thu nhập đầu người. GDP bình quân đầu
người tăng từ 98 USD năm 1990 lên 729 USD năm 2006 tính theo giá hiện
hành và tăng gấp 7 lần trong thời gian trên. Kết quả thu được là nhờ đâu?
- XĐGN là ưu tiên hàng đầu: XĐGN đóng vai trò quan trọng nhất
trong tất cả các chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia.
Từ khi đổi mới, thông qua kế hoạch 5 năm, Việt Nam đã đề ra các chiến lược
phát triển quốc gia, bao gồm: chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (CSEDS)
giai đoạn 1990-2000, chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN
(CPRGS) năm 2001, chiến lược CNH từ năm 2005. Hỗ trợ cho những người
nghèo gia tăng thu nhập, thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, nơi
phần lớn người nghèo đang sinh sống. Vì vậy, XĐGN được xác định là một
biện pháp quan trọng nhất để đạt được mục tiêu công bằng xã hội.
Mục tiêu của XĐGN ở Việt Nam, vừa giảm gánh nặng ngân sách và
phát triển những nhân tố tiềm năng. Vì vậy, XĐGN không đơn giản là hỗ trợ
người nghèo thông qua các biện pháp hỗ trợ vật chất như viện trợ lương thực
hay từ thịện trong trường hợp khẩn cấp và quan trọng, trong khi nguyên nhân
sinh ra nghèo đói là rất khác nhau.
Để giải quyết vấn đề này, phương pháp tốt nhất và quan trọng nhất là
hỗ trợ cho chính bản thân người nghèo để họ tự khắc phục các nguyên nhân
gây ra nghèo khổ cho chính họ.
- Lòng ghép chính sách: Các chương trình XĐGN ở Việt Nam được
lòng ghép với các chương trình kinh tế- xã hội khác, bao gồm cả chính sách
ổn định chính trị và kinh tế đặc biệt là giảm lạm phát.
Các hoạt động này thay đổi theo thời gian, bắt đầu bằng việc tái phân
phối đất nông nghiệp cho các hộ gia đình nông thôn trong giai đoạn đầu cải
- 21 -
cách nhằm cung cấp những quyền lợi ưu đãi để tăng sản xuất nông nghiệp,
sau đó tạo việc làm bằng việc phát triển khu vực tư nhân, tăng tính liên kết
trong ngành nông nghiệp, khai khoáng và các ngành tập trung nhiều lao động
vào nền kinh tế thị trường, đặc biệt là những nỗ lực để tăng cường cơ hội
nhập với thị trường khu vực và thế giới trong những năm gần đây.
- Tăng tính thị trường: Công cuộc đổi mới theo hướng kinh tế thị
trường đã giúp khôi phục nền kinh tế trong nước. Thị trường hoá nền kinh tế
nội địa đã dần dần được phát triển trên cả bình diện vĩ mô và vi mô, đặc biệt
là hộ gia đình. Việc đa dạng hoá sản phẩm, mùa vụ và nghề nghiệp đã trở
thành một nguồn lực quan trọng làm gia tăng thu nhập và giúp nông dân thoát
khỏi nghèo đói.
- Tăng tính đa dạng hoá và thương mại hoá các sản phẩm nông nghiệp:
Nhìn chung đã giúp cho người dân có thu nhập cao hơn, dần dần đưa họ ra
khỏi danh sách nghèo đói, giảm những rủi ro của họ trước những cú sốc thị
trường. Hợp tác hoá quốc tế giúp tăng cơ hội việc làm cho đội ngũ lao động
trẻ ở nông thôn với thu nhập cao.
- Đa dạng sự tham gia: Do XĐGN là một vấn đề lớn của sự phát triển,
nên đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành và các tầng lớp xã hội, từ cấp độ
quốc gia đến những người dân thường. Xây dựng các tổ kinh doanh, các hợp
tác xã dịch vụ nông nghiệp, các tổ, nhóm ngành hàng…Được sự hỗ trợ, giúp
đỡ của chính phủ, các hộ nghèo ở Việt Nam đã tiếp cận với nhiều nguồn tín
dụng khác nhau, cả tín dụng chính thức và phi chính thức. Ngoài ngân hàng
CSXH và NHN
O
& PTNT là 2 tổ chức chính thống. Gần đây, có khoảng 60 tổ
chức phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực tín dụng vi mô tại Việt Nam, đóng
góp quan trọng vào thành quả XĐGN ỏ Việt Nam. Các nguồn tín dụng chính
thức và phi chính thức ngày càng phát triển về số lượng và đa dạng về hình
- 22 -
thức. Tín dụng vi mô có mặt ở hầu hết các trường hợp thịếu vốn của các hộ
gia đình, giúp cho họ có thêm cơ hội để trở thành tầng lớp trung lưu.
- Tăng cường các tổ hợp tác: Việc hoạch định các chính sách mới có
thể giúp Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác phát triển hơn nữa
nền nông nghiệp, kết hợp với XĐGN, có nghĩa là xây dựng Tổ kinh doanh
nông nghiệp thông qua quy mô liên kết 3 khâu của chuổi giá trị của phát triển
nông nghiệp, là sản xuất, chế biến và thị trường.
Xây dựng các tổ kinh doanh nông nghiệp là một cuộc cách mạng mới,
cuộc cánh mạng xanh lần thức hai trong nông nghiệp. Giải pháp này nếu được
thực hiện tốt, chắc chắn sẽ đóng góp tích cực vào công cuộc XĐGN ơr Việt Nam.
2.2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề giảm nghèo nói chung, trong đó có thị trường cho người nghèo
là những vấn đề cấp thiết được tất cả các nước nghèo đặc biệt quan tâm cả
trong đầu tư nghiên cứu, triển khai các dự án chương trình nhằm đạt mục tiêu
giảm nghèo hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, nghiên cứu và triển khai hoạt động giảm nghèo, trong đó
có thị trường cho người nghèo được thể hiện rất rõ trong các chủ trương,
chính sách của Đảng và Chính phủ, cụ thể là:
Các nghiên cứu và chính sách liên quan đến giảm nghèo, trong
đó có thị trường cho người nghèo gồm:
1) Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
2) Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về khuyến khích phát triển mối liên
kết giữa các đối tượng chủ yếu là Nhà nước, các doanh nghiệp, nông dân và
các nhà khoa học;
- 23 -
3) Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25
tháng 6 năm 2004 về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt
động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành kèm
theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2001 của Thủ
Tướng Chính phủ;
4) Quyết định 272/2005/TTg của Thủ tướng chính phủ về việc khuyến
khích phát triển kinh tế tập thể.
Dự án liên quan đến thị trường cho người nghèo ở Việt Nam
* Tại Đà Nẵng
- Phân tích sinh kế ở Đà Nẵng dựa trên phương pháp tiếp cận sinh kế
bền vững gắn với thị trường (năm 2004).
- Kết quả nghiên cứu năng lực tham gia thị trường của người nghèo sử
được UBND thành phố Đà Nẵng sử dụng và dẫn đến thay đổi về chính sách
có lợi cho người nghèo.
* Tại Đăk Nông (năm 2005)
- Kết quả đánh giá sinh kế có sự tham gia của người dân đã phát hiệu
quả trong việc hoạch định chính sách tại địa phương.
- Thành công ở Đăk Nông là kinh nghiệm quan trọng cho các địa
phương khác học hỏi trong việc thực hiện các chính sách nâng cao hiệu quả
thị trường cho người nghèo.
* Tại Hà Tĩnh và Trà Vinh (2006)
Quỹ phát triển Nông Nghiệp Quốc Tế (IFAD) hiện đang hỗ trợ một
chương trình đầu tư trị giá 40 triệu USD có tên gọi “Nâng cao năng lực tham
gia thị trường cho người nghèo” ở hai tỉnh Hà Tĩnh và Trà Vinh.
- 24 -
Chương trình này đã được bộ KH & ĐT phê duyệt và được ban lãnh
đạo IFAD thông qua ngày 14 tháng 9 năm 2006. Thiết kế chương trình dựa
trên khái niệm nâng cao năng lực tham gia thị trường cho người nghèo - đặc
biệt là thị trường lao động và thị trường hàng hoá. Đây là dự án mang tính khả
thi được thực hiện từ kết quả nghiên cứu PMA và được viện KH lao động và
xã hội (ILSSA) thiết kế.
* Áp dụng phát triển chương trình vay vốn mới ở Cao Bằng, Bến Tre
và nhân rộng ra sau thành công được áp dụng tại hai tỉnh Hà Tĩnh và Trà
Vinh.
Trên đây là những nghiên cứu liên quan, những kinh nghiệm cần học
hỏi và những vấn đề liên quan đến thực tiển nghiên cứu năng lực tham gia thị
trường và các giải pháp được thực hiện cần được học hỏi, rút kinh nghiệm.
- 25 -