Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Bài tập nhóm môn học pháp luật đại cương ba quyền và sơ đồ tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.37 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
NGÀNH KINH DOANH THƯƠNG MẠI

BÀI TẬP NHĨM
Mơn học: Pháp luật đại cương
Lớp học phần: LUCS1129_25
Giảng viên: Nguyễn Hồng Vân
Nhóm: 4
Thành viên: Vũ Thị Linh Chi – nhóm trưởng
Phạm Khánh Linh
Đinh Thị Thu Duyên
Thái Trịnh Hà Vy
Nguyễn Thị Ngọc Diễm

1


MỤC LỤC
Phần I: Ba quyền và sơ đồ tổ chức, hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước. ....................................................T3
Phần II: Tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước thể hiện nguyên tắc quyền lực của nhà nước là thống nhất. T5
Phần III: Sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ................T9
Phần IV: Sự phân công của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.................T13
Phần V: Sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.................T18
Danh mục tài liệu tham khảo ...........................................T23


2


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ 1: Hiến pháp 2013 có quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta thể hiện nguyên
tắc trên như thế nào?

Bài làm
PHẦN I: Ba quyền và sơ đồ tổ chức, hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước
I/ Ba quyền
1. Quyền lập pháp
 Quyền lập pháp là quyền về toàn thể nhân dân, được trao cho hội
nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội, quyết định các vấn đề quan
trọng, cốt yếu của đất nước.
2. Quyền hành pháp
 Hành pháp là việc thi hành theo quy định tại Hiến pháp, căn cứ
theo Hiến pháp để soạn thảo hoặc ban bố các quyết định của luật
và thực hiện theo các quy định của luật. Đại diện cho hành pháp
là chính phủ, đứng đầu là chủ tịch nước.
3. Quyền tư pháp
 Quyền tư pháp: quyền lực nhà nước với mục đích là đảm bảo sự
cơng tư cơng bằng của pháp luật, bảo vệ nền công lý. Đảm bảo
thực hiện tư pháp sẽ có cơ quan tư pháp. Cơ quan tư pháp là hệ
thống tịa án xử lí hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh
chấp.


 Quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là ba quyền, tạo thành
quyền lực nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc kiểm tra,
giám sát lẫn nhau, taọ ra sự cân bằng giữa các quyền để
đảm bảo quyền lực nhà nước.
* So sánh với ba quyền ở Hoa Kỳ
Ở các nước tư bản, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể,
việc áp dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước khơng hồn tồn giống nhau. Thực tế cho thấy, có thể có
ba mơ hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tư sản, đó là mơ hình phân quyền cứng rắn,thể hiện điển
hình ở Mỹ; mơ hình phân quyền mềm dẻo, thể hiện điển hình ở Anh,
Đức; mơ hình phân quyền hỗn hợp (trung gian), thể hiện điển hình ở
Pháp, Nga. Sự khác nhau giữa ba mơ hình này thể hiện ở cơ cấu các
3


thiết chế quyền lực tối cao, địa vị của từng thiết chế cũng như mối quan
hệ giữa chúng. Ở nước ta hiện nay, ngun tắc phân quyền khơng được
chính thức thừa nhận, song những hạt nhân hợp lý của nguyên tắc này
đã được thừa nhận và áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước.
1. Quyền lập pháp
 Xã hội nào cũng cần luật pháp. Tại Hoa Kỳ, quyền làm luật được
trao cho Quốc hội.
2. Quyền hành pháp
 Quyền hành pháp do Tổng thống đứng đầu - người đóng vai trò
là nguyên thủ quốc gia trong quan hệ ngoại giao và là Tổng tư
lệnh cho tất cả các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Tổng thống chịu
trách nhiệm triển khai và thực thi các luật do Quốc hội viết ra.
 Chính phủ được thiết lập dựa trên “ Chủ nghĩa Liên bang”, là sự
chia sẻ quyền lực giữa chính quyền quốc gia và tiểu bang.

3. Quyền tư pháp
 Đứng đầu là Tòa án tối cao Hoa Kỳ, cấp cao nhất là vị trí chánh
án Hoa Kỳ. Thành viên tịa án tối cao được bổ nhiệm bởi tống
thống đương nhiệm khi trống chỗ.
 Quyền lực nhà nước được phân chia theo cả chiều ngang ( tam quyền
phân lập) và chiều dọc( giữa liên bang với tiểu bang)

II/ Sơ đồ bộ máy các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp Việt
Nam
Quốc hội

1. Cơ quan lập pháp

Chủ tịch quốc hội: Vương Đình Huệ

Ủy ban thường vụ
Quốc hội

Hội đồng dân tộc

2. Cơ quan hành pháp

Ủy ban Quốc hội

Chính phủ
Chủ tịch nước: Nguyễn Xuân Phúc

18 bộ

3. Cơ quan tư pháp


4 cơ quan ngang
bộ
Tòa án nhân dân
4

Viện kiểm sát
nhân dân

8 cơ quan thuộc
Chính phủ


PHẦN II: Tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước thể hiện nguyên tắc quyền lực của nhà nước là thống nhất.
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây vừa là quan điểm vừa là nguyên tắc chỉ
đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta
trong thời kỳ mới - Thời kỳ đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi mới cả
về kinh tế lẫn chính trị.
Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
I/ Quyền lực nhà nước là thống nhất
Tại Việt Nam, nhà nước được hiểu là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã
hội. Bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi
quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của
tồn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
Quyền lực nhà nước là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước,
theo đó nhà nước được áp đặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong

xã hội phải phục tùng mệnh lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy
trì trật tự xã hội.
Có một số người cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng sự
thống nhất đó tập trung vào Quốc hội. Do vậy, Quốc hội được Hiến
pháp xác nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Và với vị trí
pháp lý đó, những người này cho rằng Quốc hội là cơ quan có tồn
quyền, là cơ quan cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Một số
khác lại cho rằng, trong nhà nước kiểu mới như nhà nước ta, giai cấp
công nhân và Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của một Đảng, ngày
càng thống nhất về lợi ích, trong nội bộ khơng có sự phân chia thành
phe phái đối lập như trong nhà nước tư sản , nên thống nhất quyền lực
nhà nước là yếu tố cơ bản, duy nhất giữ vai trò quyết định trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước mà không cần thiết phải phân công
quyền lực nhà nước.
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà
nước thống nhất là ở Nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực nhà
nước là ở Nhân dân thể hiện ở nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân”. Điều 2 của Hiến pháp ghi rõ:  (1). Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.  (2). Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
5


nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Cũng trong Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong các văn bản Hiến
pháp của nước ta, chữ "Nhân dân" được viết hoa. Điều này cho thấy,
vai trị của Nhân dân đã được nhìn nhận một cách sát thực hơn. Và
điểm mới về nhận thức này khơng chỉ thể hiện qua cách "nhấn" đó, mà

cịn là quan điểm nền tảng xuyên suốt nội dung của Hiến pháp sửa đổi;
chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của quyền lực Nhà
nước ta là ở Nhân dân, thuộc về Nhân dân, Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực Nhà nước.
II/ Tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Sự thống nhất ở đây thể hiện ở hai phương diện, về phương diện chính
trị, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở Nhân dân, thể hiện qụa
nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” .Về phương diện tổ chức thực hiện,
quyền lực nhà nước thống nhất ở Quốc hội.
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Quốc hội Việt Nam được
tổ chức theo mơ hình là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện ba chức năng: lập hiến, lập
pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân và Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng các thiết chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Quốc hội
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi vì theo quy định của Hiến
pháp, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ
thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội do Nhân dân bầu ra, là cơ quan
nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của Nhân dân. Quốc hội là cơ
quyền lực nhà nước cao nhất còn thể hiện ở chức năng của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật. Bằng việc
làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội quy định các vấn đề cơ
bản nhất, quan trọng nhất về hình thức và bản chất của Nhà nước; ghi
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân; quy định các nội dung cơ bản về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, bảo vệ Tổ quốc và về tổ
chức bộ máy nhà nước. Bằng việc làm luật và sửa đổi luật, Quốc hội
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, đó là những chủ trương lớn, những vấn đề quốc kế
dân sinh, những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Không
6


một cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong xem xét, đánh giá việc thi
hành Hiến pháp, luật - những văn bản mà chỉ Quốc hội mới có quyền
ban hành. Các cơ quan do Quốc hội thành lập và người giữ các chức vụ
do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác
trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.  
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân được thể hiện ở
các mặt sau đây:
- Trước hết về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan do cử tri cả
nước bầu ra theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân cả nước,
được Nhân dân tin tưởng uỷ thác quyền lực nhà nước, thay mặt Nhân
dân quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và chịu trách
nhiệm trước Nhân dân cả nước. 
- Về cơ cấu tổ chức, đại biểu Quốc hội là yếu tố cơ bản và quan trọng
nhất cấu thành Quốc hội. Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú
trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội, đại diện cho các
tầng lớp Nhân dân và các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Quốc
hội là hình ảnh của khối đại đồn kết tồn dân, là biểu trưng sức mạnh
trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam.
- Chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội được quy định toàn diện trên
các lĩnh vực: lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước, nhằm phục vụ cho lợi ích chung của tồn

thể Nhân dân. Có thể nói,77 năm hình thành và phát triển của Quốc hội
Việt Nam là 77 năm Quốc hội tận tâm cống hiến vì lợi ích quốc gia và
dân tộc, nói lên tiếng nói của Nhân dân, hành động theo ý chí và
nguyện vọng của Nhân dân
1. Tổ chức của Quốc hội theo pháp luật hiện hành
Tổ chức của Quốc hội bao gồm cơ cấu bên trong được lập ra để giúp
Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình . Tổ
chức Quốc hội do Hiến pháp và luật tổ chức quy định.
Tổ chức của Quốc hội được quy định gồm có : Uỷ ban thường vụ Quốc
hội ( UBTVQH) , Hội đồng dân tộc (HĐDT) và các uỷ ban (UB) của
Quốc hội.
Hiến pháp năm 1992 quy định , tách Hội đồng Nhà nước thành 2 chế
định : Chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội . Chủ tịch nước
đảm nhiệm nhiệm vụ nguyên thủ quốc gia còn UBTVQH là cơ quan
thường trực của Quốc hội .
- UBTVQH gồm có : chủ tịch Quốc hội, phó chủ tịch Quốc hội và các
uỷ viên . Chủ tịch Quốc hội làm chủ tịch UBTVQH , phó chủ tịch
7


Quốc hội làm phó chủ tịch UBTVQH ( theo điều 5 Luật tổ chức Quốc
hội năm 2003).
- Hội đồng dân tộc gồm : chủ tịch các phó chủ tịch và các uỷ viên do
Quốc hội bầu ra trong đại biểu Quốc hội . Số phó chủ tịch và số uỷ
viên của Hội đồng dân tộc do Quốc hội quyết định . Hội đồng dân tộc
nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về các vấn đề dân tộc, thực hiện
quyền giám sát thi hành chính sách dân tộc , các chương trình , kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc ít
người.
Uỷ ban của Quốc hội được chia thành hai loại : Uỷ ban thường trực và

uỷ ban lâm thời .
- Uỷ ban thường trực làm nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị về luật ,
dự án pháp lệnh và các dự án khác , những báo cáo được Quốc hội
hoặc UBTVQH giao, trình Quốc hội UBTVQH ý kiến vè chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn do luật quy định, kiến nghị những vấn đề thuộc
phạm vi hoạt động của uỷ ban. Theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật tổ chức Quốc hội bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 thì
Quốc hội có Uỷ ban 9 uỷ ban thường trực đó là : Uỷ ban pháp luật ; Uỷ
ban tư pháp ; Uỷ ban kinh tế ; Uỷ ban tài chính; Uỷ ban ngân sách ;
Uỷ ban quốc phịng và an ninh ; Uỷ ban văn hố, giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ
ban đối ngoại. Hiến pháp năm 1992 còn quy định mỗi uỷ ban phải có
một số uỷ viên phải làm việc theo chế độ chuyên trách.
- Uỷ ban lâm thời là những uỷ ban được Quốc hội thành lập ra khi xét
thấy cần thiết để nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn
đề nhất định . Sau khi hoàn thành nhiệm vụ uỷ ban này sẽ giải thể . Ví
dụ : Uỷ ban sửa đổi hiến pháp, Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc
hội. Uỷ ban của Quốc hội có chủ nhiệm , các phó chủ nhiệm và các uỷ
viên. Số phó chủ nhiệm và số uỷ viên do Quốc hội quyết định. Thành
viên của uỷ ban của Quốc hội do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc
hội, số thành viên hoạt động chuyên trách do UBTVQH quyết định.
2. Hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành
Xuất phát từ đặc điểm của Quốc hội nói chung , Quốc hội nước ta có
phương thức hoạt động chủ yếu : kỳ họp , phiên họp và quyết định theo
đa số. Ngoài phương thức hoạt động chủ yếu đó ,Quốc hội cịn sử dụng
các phương thức hoạt động khác thơng qua hoạt động của UBTVQH,
của văn phịng Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu
Quốc hội- đây là hoạt động thường xuyên của Quốc hội.


8


Kỳ họp và các phiên họp của Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu
của Quốc hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thảo luận những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước và nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Quốc hội học thường lệ một năm
2 kỳ, do UBTVQH triệu tập. Trong trường hợp chủ tịch nước, thủ
tướng chính phủ, hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu
hoặc theo quyết định của mình, UBTVQH triệu tập quốc hội họp bất
thường ( Điều 86 , hiến định pháp 1992). Kỳ họp thường lệ của Quốc
hội được chia thành nhiều phiên họp là các buổi họp toàn thể của Quốc
hội tại hội trường. Để đảm bảo cho kỳ họp có hiệu quả thực sự, mọi kỳ
họp phải được tiến hành theo trình tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các
kỳ họp của Quốc hội được quy định một số điểm chính trong các điều
khoản của Hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội. Tiến trình kỳ họp được
chia thành 3 giai đoạn : chuẩn bị kỳ họp, thảo luận là thơng qua các dự
án. Ngồi trình tự trên, nội quy kỳ họp có quy định các thức tiến hành
kỳ họp thứ nhất, trình tự tiến hành chất vấn và trình tự lập pháp.
Thứ hai là hoạt động của UBTVQH và các cơ quan khác của Quốc hội.
Trong thời gian giữa hai kì họp Quốc hội, UBTVQH, HDDT và các uỷ
ban Quốc hội tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Tuỳ theo sự phân cơng của Quốc hội, có những loại việc
thuộc quyền quyết định của mỗi cơ quan : thẩm quyền ban hành pháp
lệnh; nghị quyết của UBTVQH ; thẩm quyền giám sát, khảo sát thẩm
tra của Hội đồng dân tộc, các uỷ ban Quốc hội … ngoài ra các cơ quan
này phải báo cáo trước Quốc hội về công việc mình đã làm để Quốc hội
xem xét quyết định.
Thứ ba, hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội .Trong thời gian Quốc
hội khơng họp , hoạt động của đồn đại biểu là hiện thân của Quốc hội

tại các địa phương. Theo quy định của quy chế hoạt động của đại biểu
Quốc hội và đồn đại biểu Quốc hội thì đồn đại biểu Quốc hội có
nhiệm vụ tổ chức để các đại biểu trong đoàn tiếp xúc cử tri ; đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân ; tham gia các hoạt động
xậy dựng pháp luật , hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở địa
phương ; phối hợp hoạt động với UBTVQH, HDDT các uỷ ban của
Quốc hội để giữ mối liên hệ của đại biểu với các cơ quan Quốc hội,
chính quyền địa phương.
PHẦN III: Sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
I/ Khái niệm về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước:
Theo nghĩa đơn giản, "phối hợp" có nghĩa là tổ chức hoạt động
cho hai hoặc nhiều thành phần cơ quan, tổ chức ban ngành. Khác
9


với khái niệm hợp tác, khái niệm phối hợp nhấn mạnh vào một
quá trình kết hợp hoạt động của hai hay nhiều cơ quan, tổ chức
một cách hài hòa và đồng bộ để cùng đạt được một mục đích và
lợi ích chung
Có thể phân loại phối hợp theo chiều ngang (phối hợp giữa các cơ
quan cùng một cấp chính quyền) và phối hợp theo chiều dọc (phối
hợp giữa các cấp chính quyền). Phối hợp cũng có thể được phân
loại theo quy trình quản lý: Phối hợp trong hoạch định chính sách,
xây dựng thể chế và phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách,
cơ chế quản lý; phối hợp ở cấp trung ương và phối hợp ở cấp địa
phương
⇒ Phối hợp giúp mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức
năng, nhiệm vụ để bảo đảm sự thống nhất, nhịp nhàng trong
quá trình thực thi quyền lực nhà nước

1. Sự phối hợp trong các cơ quan tổ chức nhà nước:
Sự phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp:
- Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:
“Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật’’. Vì
vậy, Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thơng qua các dự
án luật.
- Trong quy trình làm luật tại Quốc hội, Chính phủ đóng vai trị trình
bày và đồng thời tiếp nhận các phản hồi; thảo luận để hoàn thiện dự
án luật. Quốc hội có quyền đề xuất và quyết định các sửa đổi dự án
luật do Chính phủ trình, nhưng Chính phủ cũng có quyền thảo luận
các đề xuất, ý kiến của Quốc hội để thuyết phục cho dự án luật do
Chính phủ trình.
-Như vậy, Hiến pháp cũng quy định sự tham gia và phối hợp của
nhiều chủ thể khác nhau trong việc trình các dự án luật, cụ thể ở điều
84 Hiến pháp 2013 đã xác định:
Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức
thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội,
10


trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh
và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
- Ngoài ra, việc sửa đổi hay bổ sung các hiến pháp không thể chỉ dựa
vào quyết định của duy nhất Quốc hội mà còn dựa trên ý kiến của
“Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất

một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội”, cụ thể điều 120 của Hiến
pháp 2013 đã quy định:
1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm
Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành.
2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số
lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến
pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân
dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp.
4. Hiến pháp được thơng qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến
pháp do Quốc hội quyết định.
⇒ Như vậy, Hiến pháp mới đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp
của nhiều chủ thể, đồng thời cũng quy định rõ sự khác nhau về
quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền. Sự tham gia của Chính phủ,
Tịa án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức khác trong quá trình
soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa
Quốc hội với các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Sự phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp:
- Hiến pháp năm 2013 khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp.
11



Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
- So với Hiến pháp năm 1992 khi quy định Chính phủ chỉ có quyền
ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội
thì hiến pháp mới đã xác định chặt chẽ vai trị và khẳng định sự độc
lập của Chính Phủ trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật
- Trong việc thực hiện quyền hành pháp, sự phối hợp giữa Quốc hội
và Chính phủ cịn được thể hiện ở quyền quyết định và hoạch định
chính sách. Theo đó, Quốc hội quyết định những chính sách dài hạn,
mang tầm định hướng quốc gia cịn Chính phủ sẽ quyết định những
chính sách ngắn hạn, mang tính chất quản lý và điều hành hầu hết
các lĩnh vực của đời sống như kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đảm
bảo nền hành chính thống nhất
- Ngoài ra theo Hiến pháp 2013, Quốc hội cịn có trách nhiệm tham
gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, cụ thể đã
được quy định rõ qua khoản 7, 8, 9 và 10 của điều 70:
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu
cử quốc gia,
7.

Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc
hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính
phủ, Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành

viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
8.

Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn;

9.

Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính
phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành
chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung
12


ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ
quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10.

Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội.
Sự phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp:

- Hiến pháp mới quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp
- Đặc trưng trong sự phối hợp của quyền tư pháp nước ta có thể
được xác định trên 2 phương diện:
Cơ chế phối hợp bên ngoài: sự phối hợp của quyền tư pháp với
quyền lập pháp, với quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực

thống nhất
Cơ chế phối hợp bên trong: sự phối hợp của cơ quan tư pháp
(Toà án) với các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp (Viện
kiểm sát, cơ quan công an, cơ quan thi hành án)
-

Tuy nhiên trong trường hợp nào thì tính phối hợp của quyền tư pháp
cũng không được phép làm ảnh hưởng sự độc lập của quyền tư pháp.
Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào hoạt động
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm tơn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý
trong các phán quyết của Tịa án. Đây chính là cách thức thể hiện sự
phối hợp quan trọng nhất giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình.
PHẦN IV: Sự phân công của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
*Sự ra đời sự phân công của các cơ quan nhà nước

- Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực
nhà nước khơng phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà là quyền
lực được nhân dân ủy quyền và giao quyền.
+ Khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước có nguy cơ
thường vận động theo xu hướng bị tha hóa quyền lực nhà nước biến từ
13


của nhân dân là số đơng chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc
của một người.
+ Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ
quan nhà nước chính là những người được uỷ quyền và không thể

khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì
mà nhân dân đã ủy quyền. Vì con người ln dễ dàng bị chi phối với
mọi cám dỗ xung quanh nên khả năng sai lầm trong việc thực thi
quyền lực nhà nước là rất lớn.
+ Quyền lực nhà nước là một thể thống nhất không thể cân đong,
đo đếm, phân chia được một cách quá rạch ròi. Vậy nên hiệu quả thực
thi quyền lực nhà nước được của người được nhân dân ủy quyền
không được cao
=> Xuất phát từ các địi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước
thường được lượng hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân
công nhiệm vụ quyền hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác
nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Theo đó, trong Hiến pháp sửa đổi
năm 2013 đã tiến một bước mới trong việc phân công quyền lực nhà
nước
-Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã phân công quyền lực nhà nước.
Trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ :
+ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (khơng cịn là duy nhất có
quyền lập hiến như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69)
+ Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94)
+ Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). 
=> Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều
kiện để làm rõ vị trí, vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền.
Quyền lực nhà nước là thống nhất nên có sự “phân cơng” mà khơng
phải là “phân chia” như học thuyết “phân chia quyền lực” (hay còn gọi
là học thuyết “tam quyền phân lập”), vì vậy quan điểm của Đảng và
tinh thần Hiến pháp năm 2013 đã nhất quán Việt Nam không theo học
thuyết “tam quyền phân lập” như nhiều quốc gia trên thế giới.
14



       Quyền lực nhà nước được phân định thành ba nhánh và phân công
cho các cơ quan khác nhau thực hiện, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động bộ máy nhà nước, tránh trùng lắp, chồng chéo và
hướng tới thực hiện mục tiêu chung của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
1. Sự phân công trong việc thực hiện quyền LẬP PHÁP
- Quyền lập pháp là thẩm quyền ban hành các quy phạm luật được
thực hiện bằng hoạt động quyết định về luật của Quốc hội (nghị quyết
có chứa quy phạm pháp luật của Quốc hội) và Ủy quyền của Quốc hội
cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh (nghị quyết có chứa quy
phạm pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội)
- Bản chất: Quyền Lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý
chí chung của Nhân dân của 1 quốc gia
- Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước (theo Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định:
+ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
+ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước.
- Quốc hội đại diện cho người dân thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, thay mặt nhân dân biểu
quyết những vấn đề quan trọng của đất nước với mục tiêu bảo vệ lợi
ích của người dân, của quốc gia
- Quốc hội thực hiện quyền lập pháp bằng cách ban hành và sửa đối
Hiến pháp– luật cơ bản của nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật

dưới Hiến pháp phải được thực hiện tuân theo trình tự nghiêm ngặt,
chặt chẽ theo từng công đoạn
- Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội và Quốc hội có thể ủy quyền cho
cơ quan nhà nước khác thay mặt mình ban hành văn bản dưới luật để
quản lý xã hội
15


- Quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền chỉ làm ra luật. Quyền
biểu quyết thông qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền
đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội. 
- Ví dụ:
+ Quốc hội ban hành Bộ Luật dân sự 2015, số 91/2015/QH13
+ Chính phủ ban hành nghị định 145/2020/NĐ-CP hướng dẫn Bộ
luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động
+ Bộ giáo dục và đào tạo ban hành Thông tư 22/2021/TTBGDĐT về đánh giá học sinh THCS, THPT
+ Ủy ban thường vụ Quốc hội lập dự kiến Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh và trình Quốc hội xem xét, thông qua.
+ Ủy ban Pháp luật phối hợp với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội thẩm tra dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
do Chính phủ trình và đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại
biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức khác
2. Sự phân công trong việc thực hiện quyền HÀNH PHÁP
- Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội, quyền này được thực hiện bởi hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Bản chất: Quyền Hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung
của quốc gia do Chính phủ đảm trách.
- Quyền hành pháp của Chính phủ chịu sự giám sát của nhân dân
=> Việc tổ chức thi hành pháp luật ln phải hướng đến ý chí của nhân

dân gắn liền với lợi ích của nhân dân, lấy nhân dân làm mục tiêu để
phát triển và hướng đến
- Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết
đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất. Quyền hành pháp bao
hàm các nội dung được thể hiện trong hệ thống các thẩm quyền của
Chính phủ (Điều 96, Điều 100 Hiến pháp; Điều 6 - 25 Luật tổ chức
Chính phủ):
+ xác lập đường lối, chính sách của Chính phủ về đối nội và đối
16


ngoại
+ tổ chức thi hành Hiến pháp và các luật, trong đó có ban hành
pháp luật
+ xây dựng và duy trì hoạt động thường xun một bộ máy hành
chính nhà nước từ trung ương xuống địa phương, bảo đảm trật tự an
toàn xã hội; tổ chức và quản lý dịch vụ công
+ kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật trong hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước
+ đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều này
+ Thống nhất quản lý về mọi mặt của đời sống xã hội, quản lý
nền hành chính quốc gia; bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã
hội, quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
+ Tổ chức đàm phán, ký kết điều ước quốc tế theo thẩm quyền
-Bên cạnh hệ thống các cơ quan hành pháp, theo Hiến pháp năm 2013,
các cơ quan nhà nước khác như Quốc hội, Chủ tịch nước, Viện Kiểm
sát nhân dân, Tòa án nhân dân, các cơ quan Đảng cũng tham gia thực
hiện quyền hành pháp

3. Sự phân công trong việc thực hiện quyền TƯ PHÁP
- Quyền tư pháp có thể hiểu là khả năng và năng lực riêng có của Tịa
án trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác
theo phương thức nhất định để tác động đến hành vi của con người và
các quá trình phát triển xã hội.
- Quyền Tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án
nhân dân thực hiện chức năng xét xử, là quyền bảo vệ ý chí chung của
quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ
phía cơng dân và cơ quan nhà nước
- Nhiệm vụ của Tồ án nhân dân là bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều
102 Hiến pháp quy định)
17


- Nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền
này là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”(Khoản 2
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định)
Ý NGHĨA: Ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân
định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
để Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực nhà nước
ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền của Nhà
nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền
của Nhà nước ngày càng được đề cao. Nội dung và tinh thần của các
quy định về việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn cho Quốc hội, Chính
phủ, Tịa án nhân dân nhìn chung đáp ứng các u cầu nói trên và là
cơ sở để tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước.

PHẦN V: Sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Bộ máy nhà nước của Việt Nam bao gồm cơ quan
Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp. Các cơ quan này ln có những tác
động ảnh hưởng lên nhau, trong đó có cả các hoạt động kiểm sốt lẫn
nhau. Trong đó, kiểm sốt là tồn bộ những hoạt động xem xét, theo
dõi, đánh giá, những biện pháp mà thơng qua đó có thể ngăn ngừa, loại
bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà
nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho
quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng mục đích mong
muốn và đạt được hiệu quả cao.
1. Giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp
Sự kiểm soát lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp là khắc phục sự
lạm quyền, sai quyền và tha hóa của quyền lực; đảm bảo quyền lập
pháp và quyền hành pháp luôn thuộc về nhân dân.. Vì thế, kiểm sốt
quyền lực Nhà nước nói chung và kiểm soát lẫn nhau giữa lập pháp và
hành pháp nói riêng là nhu cầu tất yếu trong một xã hội dân chủ pháp
quyền nhằm mục đích bảo đảm cho việc thực thi quyền lập pháp, quyền
hành pháp có hiệu quả, đúng mục đích, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực
từ phía những cơ quan được Nhân dân ủy quyền khi thực hiện các loại
quyền lực này.
18


a. Sự kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp.
Như đã phân tích, hành pháp trong chính thể cộng hịa hỗn hợp bao
gồm Tổng thống và Chính phủ. Tổng thống được thành lập độc lập với
Nghị viện, Tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu ra và về cơ bản không

chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Về cơ bản, Tổng thống chỉ phải chịu
trách nhiệm trước nhân dân chứ không phải chịu một sức ép nào hay
một trách nhiệm nào trước các nhánh quyền lực khác. Thông qua cuộc
trưng cầu ý dân, Tổng thống có thể phải từ chức.
Ví dụ: căn cứ vào Hiến pháp và thực tế chính trị, Tổng thống luôn
phải chịu sự giám sát của nhân dân và bị kiềm chế bởi các nhánh quyền
lực khác. Nghị viện Pháp có thể khơng thơng qua chính sách và chiến
lược phát triển đất nước của Tổng thống, gây khó khăn cho việc thực
thi chính sách của Tổng thống. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia,
Tổng thống được hưởng quyền miễn trừ trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên,
khi Tổng thống phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng thì Nghị viện có
thể nêu vấn đề phế truất. Điều 68 Hiến pháp Pháp quy định: “Tổng
thống không phải chịu trách nhiệm trước những hành động nhằm thực
thi nhiệm vụ, trừ trường hợp phạm tội phản quốc”. Trong trường hợp
đó, tuy khơng có quyền phế truất Tổng thống nhưng Nghị viện đóng
một vai trị quan trọng trong quy trình dẫn đến việc phế truất Tổng
thống. Cũng theo Điều 68 Hiến pháp 1958 của Pháp: “Tổng thống bị
truy tố bởi hai Viện bằng hai cuộc bỏ phiếu theo nguyên tắc đa số tuyệt
đối. Tổng thống bị Tòa án tối cao xét xử”. Tịa án tối cao là cơ quan
duy nhất có quyền xét xử Tổng thống bao gồm các thành viên là nghị sĩ
do hai viện bầu lên. Nếu Tòa án tối cao quyết định Tổng thống có tội
thì Tổng thống sẽ lập tức bị đình chỉ nhiệm vụ bằng một quyết định của
Hội đồng Bảo hiến.
b. Sự kiểm soát của hành pháp đối với lập pháp
Trong chính thể cộng hịa hỗn hợp, quyền phủ quyết luật của Nghị
viện và quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn là hai công cụ quan
trọng mà hành pháp được trang bị để kiểm soát lại lập pháp.
Ví dụ: Theo quy định của Điều 12 Hiến pháp Pháp, “Sau khi tham
khảo ý kiến Thủ tướng và Chủ tịch hai Viện, Tổng thống có thể giải tán
Hạ viện. Tổng tuyển cử sẽ tổ chức ít nhất 20 ngày và nhiều nhất 40

ngày sau khi bị giải tán”. Điều 12 cũng quy định những trường hợp
không được giải tán Hạ viện nhằm hạn chế bớt sự lạm quyền của Tổng
thống trong việc giải tán Hạ viện: “Tổng thống không thể giải tán Hạ
nghị viện trong một năm sau khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức”.
Ngoài ra, Điều 16 Hiến pháp 1958 cũng quy định: “Hạ nghị viện không
thể bị giải tán khi Tổng thống sử dụng những biện pháp đặc biệt”.
Những quy định trên cho thấy, Hiến pháp của các quốc gia theo chính
19


thể cộng hịa hỗn hợp đều cho Tổng thống có quyền quyết định việc
giải tán Hạ nghị viện trước thời hạn (trong khi đó, ngun thủ quốc gia
trong chính thể đại nghị thì chỉ giải tán Nghị viện theo yêu cầu của Thủ
tướng). Đây là một thẩm quyền khá đặc biệt mà rất ít Hiến pháp cho
phép. Ở Pháp, Tổng thống có thể tự quyết định giải tán Hạ viện khi xét
thấy cần thiết. Việc hỏi ý kiến Thủ tướng và Chủ tịch mỗi Viện chỉ
mang tính chất tham khảo. Hơn nữa, việc Tổng thống ra quyết định giải
tán Hạ viện có thể vì lý do khác, ví dụ, Tổng thống có thể tuyên bố giải
tán Hạ viện nhằm củng cố một số ghế vững chắc cho đảng mình trong
Hạ viện. Thực tế cho thấy, các Tổng thống Pháp đã bốn lần sử dụng
quyền này nhằm tạo số ghế vững chắc hơn cho đảng mình ở Hạ
viện[10]. Nhà nghiên cứu chính trị học người Pháp Pierre Pactet cho
rằng, hoạt động của Nghị viện, mà dấu ấn quan trọng là đảm bảo dân
chủ qua lá phiếu, trong nhiều tình huống, trở nên hình thức, trở thành
một loại “dịch vụ bỏ phiếu” cho Chính phủ mà thơi. Cán cân quyền lực
đã khơng cịn cân bằng và ở góc độ nào đó, có thể nói cơ chế kiểm sốt
quyền lực khơng đạt được. Thậm chí, cơ quan hành pháp từ chỗ tham
gia vào quyền lập pháp, ở mức độ nhất định, đã thâu tóm, tiếm quyền
lập pháp. Điều đó cũng cho thấy một quy luật bất thành văn là con lắc
quyền lực luôn nghiêng về phía hành pháp, cho dù nhân loại đã mất bao

cơng sức nhằm làm cho nó ở trạng thái cân bằng.
2. Sự kiểm soát giữa hành pháp và tư pháp
a. Sự kiểm soát của hành pháp đối với tư pháp
Hiện nay, vì quyền tư pháp khơng tham gia hỗ trợ hay thực hiện
một mảng công việc nào của quyền hành pháp nên sự kiểm soát của cơ
quan thực hiện quyền hành pháp với cơ quan thực hiện quyền tư pháp
là rất khó xác định. Mặt khác, về mặt lý luận thì sự kiểm sốt của một
chủ thể bên ngồi đối với cơ quan tư pháp nếu không được xác định
một cách thích hợp và rõ ràng sẽ có thể ảnh hưởng tới tính độc lập của
thẩm phán và Tịa án. Chính vì vậy mà cơ chế kiểm sốt đối với quyền
tư pháp chủ yếu là cơ chế tự động chứ không phải là cơ chế chủ động
với sự xuất hiện của một chủ thể cụ thể có thẩm quyền kiểm sốt.
Như vậy, về mặt pháp lý, Tịa án hầu như khơng có sự lệ thuộc vào
Chính phủ, vì vậy, khả năng kiểm sốt của Chính phủ đối với Tịa án
khơng cao. Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, Chính phủ có thể kiểm
sốt cơ quan thực hiện quyền tư pháp thơng qua kiểm sốt việc thu chi
tài chính, ngân sách phục vụ cho hoạt động tư pháp. Vì nguồn ngân
sách của ngành Tòa án chỉ dựa vào ngân sách nhà nước do Quốc hội
phân bổ nên không loại trừ khả năng ngành Tòa án thiếu hụt ngân sách
do những khoản chi không lường trước hoặc không được lập kế hoạch
20


tốt, vì vậy, ngành Tịa án có thể sẽ lại phải đề nghị Chính phủ bổ sung
ngân sách. Chính phủ, do vậy, có quyền u cầu ngành Tịa án giải
trình tổng thể về tổ chức và hoạt động của mình, xem đó là cơ sở để
cung cấp kinh phí bổ sung, cơ sở vật chất và các điều kiện hoạt động
cho ngành Tòa án.
Trên một phương diện khác, lãnh đạo các cơ quan hành chính nhà nước
đều nắm giữ các cương vị lãnh đạo trong tổ chức Đảng tại địa phương

(như: chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thường là phó bí thư huyện
ủy hoặc ủy viên thường vụ huyện ủy) trong khi Tòa án chịu sự lãnh đạo
của tổ chức đảng đó. Mặc dù chính quyền địa phương khơng có thẩm
quyền quyết định về tổ chức và nhân sự của Tịa án nhưng cấp ủy địa
phương lại có vai trị quan trọng trong cơng tác tổ chức và cán bộ của
các cơ quan địa phương, trong đó có Tòa án. Do vậy, về mặt tổ chức
trong hệ thống đảng thì chánh án thơng thường thuộc “cấp dưới” của
những người lãnh đạo cơ quan hành chính nhà nước. Đây có thể được
xem là cơ chế cho phép hoạt động hành pháp kiểm soát hoạt động tư
pháp một cách “kép” và gián tiếp qua vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng.
b. Sự kiểm soát của tư pháp đối với hành pháp
Hoạt động kiểm soát quyền lực từ cơ quan Tòa án đối với cơ quan
thực hiện quyền hành pháp nói chung chủ yếu được nhận diện thơng
qua hoạt động xét xử các vụ án hành chính; đối với các khiếu kiện
quyết định hành chính hay hành vi hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước. Theo đó, thực trạng hoạt động của Tịa hành chính
bước đầu đã tạo ra cơ chế kiểm sốt có hiệu quả, nâng cao tính pháp
chế trong hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân. Trong q trình xét xử, Tịa hành chính có
thể xem xét tính hợp pháp của các văn bản mang tính pháp quy của các
cơ quan nhà nước, nếu văn bản đó là ngun nhân của những quyết
định hành chính bất hợp pháp bị khiếu kiện thì kiến nghị, sửa đổi, bổ
sung hoặc hủy bỏ.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các chế tài kiểm soát quyền lực nhà
nước của tư pháp với hành pháp chưa đủ mạnh. Do nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước là quyền tư pháp không thể lấn sân sang quyền
hành pháp, các quan tịa khơng thể can thiệp sâu vào hoạt động của cơ
quan hành chính nên trong các vụ khiếu kiện hành chính, quyền của
Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ phán xét tính hợp pháp của một quyết
định hành chính, hành vi hành chính mà khơng thể chỉ định một

phương thức xử sự cụ thể cho cơ quan hành chính.
Hiện nay, người bị kiện thường là người có chức vụ quyền hạn ở địa
phương, nơi thẩm phán công tác và là những người có thể có ý kiến đối
21


với việc bổ nhiệm thẩm phán nên còn xuất hiện tư tưởng ngại va chạm
trong đội ngũ thẩm phán hành chính, dẫn tới đánh giá chứng cứ cịn
phiến diện, áp dụng pháp luật chưa chặt chẽ. Mặc dù số lượng các vụ án
hành chính ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải quyết, xét xử các
vụ án hành chính chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản án, quyết
định về vụ án hành chính bị hủy, sửa chưa giảm mạnh; thời hạn giải
quyết, xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật trong một số
trường hợp vẫn bị vi phạm. Việc thi hành các bản án, quyết định của
Tịa án về vụ án hành chính chưa thực sự hiệu quả, ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thực tế cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với
hành pháp cịn mang tính thụ động: kiểm tra của Tịa hành chính đối
với quyền lực hành pháp chỉ là kiểm tra khi có tranh chấp hành chính,
trong lĩnh vực quản lý hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan,
công chức nhà nước khi có khiếu kiện của người dân. Vì vậy, sự kiểm
sốt quyền lực nhà nước này cịn mang tính thụ động, bởi nếu khơng có
khiếu kiện của cơng dân, tổ chức thì khơng thể hình thành hoạt động
kiểm sốt quyền lực nhà nước của hành pháp.
Bên cạnh đó, hoạt động của Chính phủ thuộc thẩm quyền kiểm sốt
từ Tịa án nhân dân (TAND) tối cao là ở lĩnh vực ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Chính phủ khi được Hiến pháp quy định là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là
soạn thảo các dự án luật trình Quốc hội. Nội dung các dự án luật đó là
các chính sách quốc gia được thể chế dưới dạng các quy phạm pháp

luật. Để tránh sự tùy tiện, lạm quyền thì cần phải có sự kiểm soát. Việc
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước ở trung ương (trong đó có Chính phủ) thuộc về thẩm
quyền của Chánh án TAND tối cao. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hoạt
động kiểm soát này chưa từng được thực hiện trong quan hệ kiểm soát
của TAND tối cao đối với Chính phủ.

22


Danh mục tài liệu tham khảo
1. “ Giáo trình Đại cương về nhà nước và pháp luật” – NXB trường
Đại học Kinh tế Quốc dân -Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ
2. “Văn bản quy phạm pháp luật dành cho học phần Pháp luật đại
cương” – NXB trường Đại học Kinh tế Quốc dân

23


24


25


×