Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

phân tích tình hình tài chính đối với ngân hàng thương mại cổ phần á châu – chi nhánh huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.83 KB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong các tổ chức trung gian tài
chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Với tư cách là trung gian tài chính,
NHTM là loại hình doanh nghiệp kinh doanh đặc thù vì kinh doanh loại hàng hoá
đặc biệt là tiền tệ. Tự xác định chỗ đứng cho mình là kinh doanh trên lĩnh vực
nhạy cảm nhất của nền kinh tế, mỗi ngân hàng đều nổ lực để tạo cho mình một
chỗ đứng và một tiếng nói riêng. Đó có lẽ là một trong những lý do khiến cho
phân tích tài chính đối với NHTM đóng một vai trò đặc quan trọng và trở nên là
việc làm không thể thiếu đối với bất kỳ ngân hàng nào, bởi đối với nhà quản trị
ngân hàng phân tích tài chính đối với NHTM chính là con đường ngắn nhất để
tiếp cận với bức tranh toàn cảnh tình hình tài chính của chính ngân hàng mình,
thấy được cả ưu và nhược điểm cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó để
có thể có định hướng kinh doanh đúng đắn trong tương lai.
Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá tài chính trong NHTM nhưng sử dụng chỉ
tiêu, mô hình nào là có hiệu quả nhất và phù hợp nhất với các NHTM Việt Nam?
Đó là câu hỏi cần được nhiều nhà phân tích tài chính nói chung và những nhà phân
tích tài chính quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Vì lý do này, tôi đã quyết
định lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính đối với ngân hàng thương
mại cổ phần Á Châu – chi nhánh Huế” cho bài luận văn của mình với hy vọng
sẽ đóng góp một phần nhỏ việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính ở ACB chi
nhánh Huế nói riêng và trong toàn bộ hệ thống ACB nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lại các cơ sở lý luận về phân tích tài chính trong NHTM
- Đánh giá thực trạng tình hình tài chính của NHTMCP Á Châu giai đoạn
2009-2011.
- Xác định những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của
chi nhánh trong những năm tới.
3. Đối tượng nghiên cứu


Page 1
Khóa luận tốt nghiệp
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình tài chính của NHTMCP Á
Châu- chi nhánh Huế trong giai đoạn 2009- 2011.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm viPhòng quan hệ khách hàng
doanh nghiệp thuộc NHTM cổ phần Á Châu –chinhánh Huế.
- Thời gian nghiên cứu: phân tích tình hình tài chính của NHTMCP Á
Châu qua 3 năm 2009-2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các
phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích và hệ thống sơ đồ, bảng biểu để trình
bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Các thông tin trong bài nghiên cứu có sự tham
khảo tài liệu từ sách, báo, Internet, khóa luận của các khóa trước…
- Phương pháp thu thập số liệu: thu thập số liệu thứ cấp của đơn vị nghiên cứu.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp ghi chép số liệu hoặc thu thập các
thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
Sử dụng phương pháp Dupont và một số chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính
vào quá trình phân tích. Xử lý số liệu dưới sự trợ giúp của phần mềm Excel.
Các phương pháp: phân tích so sánh, phân tích xu hướng, phân tích cơ
cấu, phân tích tỷ số tài chính, phân tích Dupont được dùng để phân tích số liệu.
6. Kết cấu khóa luận
Phần I: Đặt vấn đề.
Phần II: Nội dung và kết qủa nghiên cứu, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính trong NHTM.
Chương 2: Đánh giá tình hình tài chính tại ngân hàng TMCP Á Châu – chi
nhánh Huế.

Chương 3: Giải pháp nâng cao tình hình tài chính tại ngân hàng TMCP Á
Châu – chi nhánh Huế.
Phần III: Kết luận và kiến nghị.
Page 2
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về phân tích tình hình tài chính
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính
Phân tích tình hình tài chính là quá trình thu thập và xử lý các số liệu tài
chính thông qua các kỹ thuật và công cụ thích hợp để tạo ra thông tin tài chính có
giá trị nhằm rút ra các kết luận hoặc các quyết định tài chính. Nói ngắn gọn, phân
tích tài chính là một quá trình gồm bốn khâu cơ bản: (1) thu thập số liệu, (2) phân
tích và xử lý số liệu thu thập được, (3) tạo ra thông tin tài chính, (4) kết luận hoặc
ra các quyết định tài chính. (Nguồn: Giáo trình phân tích tài chính doanh nghiệp
của Đại học kinh tế quốc dân (2002). NXB Giáo dục, Hà Nội).
1.1.2. Thông tin sử dụng để phân tích
1.1.2.1. Bảng cân đối kế toán
a. Khái niệm và ý nghĩa của bảng cân đối kế toán
Khái niệm: Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) là báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản của DN dưới
hình thái tiền tệ tại một thời điểm nhất định (cuối tháng, cuối quý, cuối năm).
Ý nghĩa: BCĐKT có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tài sản
của ngân hàng. Số liệu trên BCĐKT cho biết giá trị tài sản hiện có của ngân hàng
theo 2 mặt rõ rệt đó là về mặt tài sản và nguồn vốn hình thành nên các tài sản đó.
Thông qua BCĐKT có thể xem xét, nghiên cứu, phân tích và đánh giá khái quát
tình hình tài chính, quy mô nguồn vốn, mức độ an toàn vốn, khả năng thanh
khoản,… của đơn vị. Đồng thời có thể phân tích tình hình sử dụng vốn, khả năng
huy động vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Qua đó đánh giá được trình

độ quản lý, chất lượng kinh doanh cũng như dự đoán triển vọng phát triển của
ngân hàng trong tương lai.
Bên cạnh các chỉ tiêu trong BCĐKT, có nhiều khoản mục khác được phản
ảnh ở ngoài bảng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh đặc biệt đối
Page 3
Khóa luận tốt nghiệp
với các TCTD. Các chỉ tiêu ngoại bảng giúp cho việc đánh giá tổng quát hoạt
động của đơn vị. Từ đó có biện pháp kiểm soát mức độ rủi ro tiềm ẩn, nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
b. Nội dung và kết cấu của bảng cân đối kế toán
Nội dung: BCĐKT thể hiện phương trình kế toán cơ bản, sự cân đối giữa
tổng tài sản và tổng nguồn vốn. Khoản mục tài sản được sắp xếp theo mức độ
thanh khoản giảm dần. Khoản mục nguồn vốn được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên
thanh toán.
Kết cấu của BCKT gồm 2 phần: phần nội bảng và phần ngoại bảng.
Phần nội bảng: bao gồm gồm 2 phần nhỏ sau:
Tài sản nợ: các chỉ tiêu ở phần tài sản Nợ phản ánh toàn bộ giá trị tiền tệ
hiện có của ngân hàng do huy động, tạo lập được, dùng để cho vay, đầu tư hay
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác tại thời điểm báo cáo. Tài sản Nợ gồm:
Vốn huy động: là những phương tiện tiền tệ mà ngân hàng huy động được
từ nền kinh tế, thông qua nghiệp vụ ký thác và các nghiệp vụ khác dùng làm vốn
kinh doanh. Đây là nguồn vốn mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng trong một
thời gian nhất định, còn quyền sở hữu thuộc về những người ký thác. Bao gồm
các loại sau: tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu,
trái phiếu,…
Vốn vay: là nguồn vốn mà các NHTM vay mượn từ thị trường liên ngân
hàng hoặc vay mượn từ NHNN và các tổ chức tài chính nước ngoài.
Vốn tự có: là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư
đóng góp khi thành lập đơn vị và được bổ sung thêm trong quá trình kinh doanh
được thể hiện dưới dạng lợi nhuận giữ lại.

Tài sản có: là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng. Các tài sản có
sinh lời của ngân hàng là phần tạo ra lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng. Tài sản
có bao gồm:
Tiền dự trữ: bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư:
Dự trữ bắt buộc: là khoản tiền NHNN yêu cầu các NHTM phải duy trì một tỷ
lệ nhất định nhằm đảm bảo cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
Page 4
Khóa luận tốt nghiệp
Dự trữ thặng dư: là khoản tiền luôn có sẵn trong các ngân hàng ngoài
khoản dự trữ bắt buộc đảm bảo cho nhu cầu rút tiền của khách hàng và cho vay
trong kỳ.
Các khoản đầu tư chứng khoán: được ngân hàng sử dụng nhằm đa dạng
hóa khoản mục kinh doanh, gồm toàn bộ giá trị những chứng khoán mà ngân
hàng sở hữu.
Các khoản mục tín dụng: là toàn bộ giá trị của khoản mà ngân hàng cho
các đối tượng trong nền kinh tế vay nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn.
Tài sản cố định: Đây là cơ sở vật chất quan trọng không thể thiếu trong
quá trình hoạt động của các NHTM.
Phần ngoài bảng
Ngoài các chỉ tiêu trong BCĐKT, còn có các chỉ tiêu ngoài bảng để bổ
sung cho các thông tin khác chưa có trên BCĐKT. Là những khoản không phải là
tài sản Nợ và tài sản Có mà là các hoạt động được ngân hàng theo dõi ngoài
bảng. Một số nghiệp vụ phản ánh chủ yếu như là:
Các cam kết bảo lãnh, tài trợ cho khách hàng, bao gồm: bảo lãnh vay vốn,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, cam kết trong nghiệp vụ L/C.
Các cam kết của ngân hàng với khách hàng trong việc thực hiện các giao
dịch trong tương lai như: các hợp đồng giao dịch lãi suất, hợp đồng giao dịch
ngoại tệ,…
Các khoản công nợ khách hàng chưa thực hiện theo hợp đồng như: các
khoản nợ gốc, nợ lãi không có khả năng thu hồi đã được đơn vị xử lý hay các

khoản lãi cho vay quá hạn chưa thu hồi được.
1.1.2.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
a. Khái niệm và ý nghĩa của BCKQKD
Khái niệm: báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản
ánh tình hình doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh thuộc một kỳ kế toán, chi tiết
theo từng loại hoạt động: hoạt động kinh doanh chính, hoạt động dịch vụ và hoạt
động kinh doanh khác. Ngoài ra, BCKQKD còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước về các khoản thuế và các khoản phải nộp.
Page 5
Khóa luận tốt nghiệp
Ý nghĩa: BCKQKD có ý nghĩa trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và
công tác quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đồng thời báo cáo còn
cung cấp những thông tin về lợi nhuận để đánh giá hiệu qủa, khả năng sinh lời và
khả năng kiểm soát của ngân hàng. Ngoài ra, nó còn cho phép đánh giá tình hình
thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
b. Nội dung và kết cấu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Kết cấu của BCKQHĐKD thông thường gồm 3 phần:
Phần I: lãi, lỗ: phản ánh tình hình kết quả kinh doanh của NH bao gồm
hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác.
Phần II: phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và
các khoản phải nộp khác (phí, lệ phí).
Phần III: Các khoản thuế.
Các khoản mục trên BCKQHĐKD bao gồm:
Thu nhập thuần từ lãi: phản ánh tổng số thu được từ lãi và các khoản thu
nhập tương tự sau khi trừ đi chi phí trả lãi trong kỳ nghiên cứu.
Thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ: là khoản thu nhập phí từ việc thực
hiện dịch vụ cho khách hàng đã trừ đi các khoản chi cho thực hiện các dịch vụ đó
trong kỳ.
Thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối: là khoản thu nhập
ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại hối trong kỳ báo cáo.

Thu nhập từ hoạt động kinh doanh, đầu tư chứng khoán: là toàn bộ số thu từ
lãi đầu tư hay hay kinh doanh chứng khoán sau khi đã trừ đi chi phí hoạt động này.
Thu nhập thuần từ các hoạt động kinh doanh khác: là số tiền thu được từ
hoạt động kinh doanh khác sau khi trừ đi chi phí thực hiện hoạt động này và chi
phí quản lý ngân hàng.
Chi phí dự phòng: là số tiền chỉ cho công tác dự phòng rủi ro trong hoạt
động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng kỳ phân tích.
Lợi nhuận trước thuế: chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ lợi nhuận từ các
hoạt động kinh doanh phát sinh trong kỳ báo cáo trước nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Page 6
Khóa luận tốt nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp: là chỉ tiêu thể hiện tổng số thuế thu
nhập mà ngân hàng phải nộp tính trên phần thu nhập chịu thuế trong kỳ làm báo cáo.
Lợi nhuận sau thuế: là tổng số lợi nhuận thuần từ các hoạt động của đơn vị
sau khi trừ đi thuế TNDN phải nộp trong kỳ nghiên cứu.
1.1.2.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
a. Khái niệm: BCLCTT là môt báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu và chi tiền
trong kỳ của NHTM về hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài
chính. Mục đích của BCLCTT là nhằm trình bày tiền tệ đã sinh ra bằng cách nào
và NHTM đã sử dụng chúng như thế nào trong kỳ báo cáo.
BCLCTT giải thích sự khác nhau giữa lợi nhuận của NHTM và các dòng
tiền có liên quan, cung cấp những thông tin về những dòng tiền gắn liền với
những biến động về tài sản, công nợ và vốn chủ sở hữu. Thông qua BCLCTT
NHTM có thể đánh giá khả năng tạo ra các dòng tiền từ các loại hoạt động của
ngân hàng để đáp ứng kịp thời các khoản nợ cho các chủ nợ, cổ tức cho các cổ
đông hoặc nộp thuế cho nhà nước. Trên cơ sở BCLCTT, nhà quản trị ngân hàng
có tể dự đoán các dòng tiền phát sinh trong hoạt động kinh doanh để có các biện
pháp quản lý tương lai.
b. Nội dung và kết cấu:

BCLCTT được tổng hợp từ kết quả của 3 loại hoạt động của NHTM
tương ứng nội dung của nó gồm 3 phần:
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh.
Phần này phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp
đến hoạt động kinh doanh của NHTM như tiền thu lãi cho vay, thu từ các khoản
phải thu khác,… các chi phí bằng tiền như chi lãi tiền gửi cho khách hàng, tiền
thanh toán cho công nhân về tiền lương và BHXH…, các chi phí bằng tiền khác
(chi phí văn phòng phẩm, công tác phí,…).
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động đầu tư của NHTM. Hoạt động đầu tư bao gồm 2 phần:
Page 7
Khóa luận tốt nghiệp
+ Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân NHTM như hoạt động xây
dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.
+ Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức liên doanh, đầu tư chứng
khoán không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Dòng tiền lưu chuyển được tính gồm toàn bộ các khoản thu do bán, thanh
lý tài sản cố định, thu hồi các khoản đầu tư vào các đơn vị khác,… và các khoản
chi xây dựng, mua sắm tài sản cố định, chi đầu tư vào các lĩnh vực khác.
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến các
nghiệp vụ làm tăng, giảm vốn kinh doanh của NHTM như góp vốn liên doanh,
vay vốn trong dân chúng và các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, WB…
(không phân biệt vay dài hạn hay ngắn hạn), nhận vốn liên doanh, phát hành cổ
phiếu hay trái phiếu, trả nợ vay,…
Dòng tiền lưu chuyển được tính bao gồm toàn bộ các khoản thu chi liên
quan như tiền vay nhân được, tiền nhận được do nhận góp vốn liên doanh bằng
tiền, do phát hành cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền, thu lãi tiền gửi,…
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kết hợp với BCKQKD và BCĐKT chỉ ra một

điều cực kỳ quan trọng: chất lượng của lợi nhuận thông qua dòng ngân lưu ròng
từ hoạt động kinh doanh tạo ra. Vì một lý do lợi nhuận và khả năng thanh toán
không có liên quan gì đến nhau cả, do vậy lợi nhuận cao không có nghĩa là tình
hình tài chính của NHTM vững mạnh và khả năng thanh toán tốt.
BCLCTT không những giúp cho các nhà phân tích giải thích được nguyên
nhân thay đổi về tình hình tài sản, nguồn vốn, khả năng thanh toán của NHTM
mà còn là công cụ quan trọng để hoạch định ngân sách – kế hoạch tiền mặt trong
tương lai.
1.1.2.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
a. Khái niệm và ý nghĩa của thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là bộ phận hợp thành của hệ thống BCTC
của đơn vị.
Page 8
Khóa luận tốt nghiệp
Bảng thuyết minh được lập nhằm giải thích và bổ sung thêm những thông
tin về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như tình hình tài chính của ngân hàng
trong kỳ báo cáo mà các BCTC khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được.
Qua thuyết minh BCTC người sử dụng có cái nhìn cụ thể, chi tiết về tình hình
hoạt động của đơn vị, phân tích một cách cụ thể, chính xác từng vấn đề theo mục
tiêu đề ra nhằm đạt hiệu quả cao trong việc ra quyết định.
b. Nội dung và kết cấu của thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh BCTC trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của tổ chức
tín dụng (TCTD) bao gồm: giấy phép thành lập và hoạt động, hình thức sở hữu
vốn, thành phần Ban giám đốc, Hội đồng Quản trị, nội dung một số chế độ kế
toán được ngân hàng lựa chọn để áp dụng,… Và các báo cáo chi tiết về tình hình
hoạt động của TCTD chẳng hạn như những báo cáo dưới đây:
Báo cáo tình hình tăng, giảm TSCĐ
TSCĐ là phương tiện để thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, nhà quản lý
phải thường xuyên nắm được mức độ biến động của nó để có chính sách đổi mới
nâng cao năng lực phục vụ. Vì vậy, thông qua “tình hình tăng giảm TSCĐ” của

thuyết minh BCTC sẽ biết được tình hình biến động của từng loại TSCĐ trong
kỳ. Qua đó có thể đánh giá được tình hình đầu tư, trang bị TSCĐ nhằm nâng cao
khả năng hoạt động của ngân hàng. Đồng thời báo cáo này còn cho biết tình
trạng của TSCĐ tại thời điểm hiện tại tức giá trị sử dụng còn lại của tài sản để có
phương hướng đổi mới kịp thời.
Báo cáo tình hình tăng, giảm nguồn vốn và sử dụng vốn
Thông qua số liệu trong báo cáo “ tình hình tăng, giảm nguồn vốn và sử
dụng vốn” sẽ cho thấy sự biến động về quy mô nguồn vốn huy động được và sử
dụng trong kỳ cụ thể theo kỳ hạn, loại tiền, đối tượng hay theo một cách phân
chia nhất định mà các BCTC khác chưa đề cập một cách chi tiết.
Báo cáo tài sản và công nợ của ngân hàng theo thời gian đáo hạn
Qua số liệu trên bảng báo cáo “ tài sản và công nợ của ngân hàng theo thời
gian đáo hạn” có thể có cái nhìn chi tiết đối với từng loại tài sản và công nợ theo
thời gian đáo hạn nhằm ứng phó kịp thời với những tình huống xảy ra trong thực
Page 9
Khóa luận tốt nghiệp
tiễn. Ngân hàng phải luôn nắm rõ những thông tin này để đảm bảo khả năng
thanh toán cho ngân hàng, tránh tình trạng dây dưa mất lòng tin của khách hàng.
Đồng thời xem xét, đánh giá những khoản cho vay nào đến thời gian đáo hạn,
những khoản nào khó có khả năng thu hồi, từ đó đề ra những phương hướng,
quyết sách trong việc thu hồi nợ, đẩy nhanh vòng luân chuyển vốn, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của mình.
Các TCTD phải trình bày đầy đủ các chỉ tiêu theo những nội dung quy
định trong thuyết minh BCTC. Ngoài ra, có thể trình bày thêm các nội dung khác
nhằm giải thích chi tiết hơn tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của đơn
vị. Khi giải thích và thuyết minh cần trình bày bằng lời văn ngắn gọn, rõ ràng, dễ
hiểu. Phần giải thích cần nêu thêm những thông tin cần thiết chưa thể hiện được
ở các BCTC khác và có thể nêu phần phương hướng kinh doanh trong kỳ tới, chỉ
cần nêu những thay đổi so với kỳ báo cáo. Phần kiến nghị có thể trình bày những
kiến nghị với cấp trên, với nhà nước các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ

tài chính kế toán,…
1.1.3. Đặc điểm của NHTM ảnh hưởng đến phân tích tài chính
NHTM có những đặc điểm giống như các doanh nghiệp (DN) khác trong
nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối
tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra
dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu. Tuy nhiên, khác với các
DN khác, NHTM là loại hình DN đặc biệt, trong đó hoạt động kinh doanh thể
hiện qua các đặc điểm sau làm cho việc phân tích khác với các DN thông thường
và trở nên cần thiết hơn:
Thứ nhất, vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh
nhưng đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có
của NHTM chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh
doanh của NHTM luôn gắn liền với rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận
với một mức độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì, NHTM không những phải đảm bảo
nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi loại hình DN khác, mà còn phải đảm bảo tốt
Page 10
Khóa luận tốt nghiệp
nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho thấy việc phân tích khả năng
thanh toán của NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Thứ ba, như đã nói ở trên, hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan
đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau. Do đó, tình hình tài chính của NHTM có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt
động kinh doanh của DN, tâm lý của người dân, cũng như của cả nền kinh tế.
Chính vì vậy, việc phân tích, đánh giá thực trạng tài chính của các NHTM không
chỉ phục vụ cho nhà quản trị NHTM mà còn là bắt buộc đối với ngân hàng trung
ương (NHTW).
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro,
đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH có thể gây ảnh hưởng lớn cho
nền kinh tế vì tính chất phân tán có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế.

Do đó, trong quá trình hoạt động các NHTM phải thường xuyên nghiên cứu,
phân tích, đánh giá, dự báo và có những biện pháp phòng ngừa có hiệu quả.
(Nguồn: Theo Nguyễn Thị Hương, Đại học Đà Nẵng)
1.1.4. Phân tích vĩ mô và phân tích ngành
1.1.4.1. Phân tích vĩ mô
a/ Tác động của lãi suất
Tính đến 19/08/2011, NHNN đã điều chỉnh 3 lần lãi suất tái chiết khấu, 4
lần lãi suất tái cấp vốn và 6 lần lãi suất OMO (Open Market Operation- Nghiệp
vụ thị trường mở) với mục đích kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5, diễn ra cuộc chạy đua lãi suất huy
động giữa các NHTM do căng thẳng thanh khoản về tiền đồng. Hiện tại, NHNN
quyết tâm giảm mặt bằng lãi suất cho vay xuống 17%-19% trong tháng 9, thông
qua cuộc họp với NH lớn nhất tại Việt Nam, đồng thuận giữ lãi suất huy động ở
mức 14%. Đồng thời, NHNN đã xóa bỏ hạn chế 80% đối với tỷ lệ cho vay từ huy
động từ 01/09/2011 nhằm tạo sự liên thông giữa thị trường 1 và 2, từ đó tạo cơ sở
cho việc giảm mặt bằng lãi suất. Sự điều chỉnh này của NHNN đã tác động
không ít đến hoạt động tín dụng truyền thống của các ngân hàng nói chung và
ACB nói riêng, buộc ngân hàng phải đưa ra nhiều biện pháp để một mặt duy trì
Page 11
Khóa luận tốt nghiệp
hoạt động tín dụng, huy động hiện có và phát triển đầu tư hơn nữa trong các dịch
vụ khác nhằm duy trì và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng trong thời gian tới.
b/ Tác động của tỷ giá
Tháng 2/2011 NHNN tăng mạnh tỷ giá thêm 9,3% do sức ép lên đồng
Việt Nam từ cuối năm 2010. Đồng thời sau đó, NHNN tiếp tục đưa ra các biện
pháp nhằm ổn định thị trường ngoại hối như cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị
trường tự do, chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng, tăng dự trữ bắt buộc
ngoại tệ, quy định trần lãi suất huy động USD (2%) và yêu cầu các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho tổ chức tín dụng. Điều này cũng tác động
một phần không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng ACB do ngân hàng vẫn duy

trì các hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng,… Điều này buộc ngân
hàng phải linh hoạt trong việc điều chỉnh các mức lãi suất huy động ngoại tệ sao
cho phù hợp với quy định của nhà nước.
c/ Tác động của tín dụng
Việc hạn chế tín dụng phi sản xuất và quy định tỷ lệ tính rủi ro của bất
động sản và chứng khoán lên tới 250% đã làm giảm dư nợ tuyệt đối của các NH,
đồng thời khiến các DN trong 2 ngành này gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận
vốn. Theo Thống đốc NHNN, các NH đang thừa vốn thì đã sử dụng hết hạn mức
20%, các NH còn dư hạn mức cho vay thì lại thiếu vốn, các NH còn hạn mức và
còn vốn không muốn cho vay thêm vì quá rủi ro, trong khi các NH còn hạn mức
nhưng thiếu vốn thì không dễ huy động. ACB cần xem xét mình đang ở trong
trường hợp nào để tìm cách giải quyết hợp lý, nhằm điều hòa nguồn vốn để giải
quyết bài toán về tăng trưởng tín dụng.
1.1.4.2. Phân tích ngành theo mô hình Porter’s 5 Forces
a/ Nguy cơ từ các ngân hàng mới (Threat of new competitors)
Nếu các ngân hàng mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh
tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các ngân hàng mới sẽ phụ thuộc
vào “độ cao” của rào cản gia nhập. Theo các cam kết khi gia nhập WTO, lĩnh
vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình bảy năm. Ngành ngân hàng đã
Page 12
Khóa luận tốt nghiệp
có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ
cổ phần của các ngân hàng Việt Nam và sự xuất hiện của các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài.
Đã có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép thành lập tại
Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn vào con số các ngân hàng nước ngoài có văn
phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong
các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhất định
sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của các ngân

hàng có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngưng
cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8-2008. Ngoài các quy định về vốn
điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị
giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, điều đó sẽ không thể ngăn
cản những doanh nghiệp, đủ điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng một khi
Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị
trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu
cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã
xây dựng được. Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả
năng tồn tại của một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương
hiệu bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt cộng
với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển đổi (switching
cost) để lôi kéo khách hàng của ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó
họ bắt buộc phải cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường hay
không. Thực tế trên thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí
chuyển đổi nhìn chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm
khác biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ.
Page 13
Khóa luận tốt nghiệp
Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút và tạo một lợi
thế cạnh tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân phối. Các
ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm một địa điểm
ưng ý để đặt văn phòng chính cũng như các chi nhánh văn phòng giao dịch bởi vì
các vị trí đẹp và tiện lợi đều đã bị các ngân hàng đang hoạt động dành mất. Tuy
vậy, các ngân hàng thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để
phát triển hệ thống kinh doanh của mình thông qua Internet-Banking hoặc hệ
thống ATM.
b/ Nguy cơ bị thay thế (Threat of substitute products or services)

Về cơ bản, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có
thể xếp vào 5 loại:
• Hoạt động nhận tiền gửi (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Hoạt động nhận tiền tiết kiệm
• Thực hiện các chức năng thanh toán
• Hoạt động tín dụng
• Hoạt động kiều hối
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không
cao lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa
đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra
trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường
chuyển sang sử dụng một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các
dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt
khiến cho người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài
khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh
nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh
toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân.
Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu
mua sắm sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Page 14
Khóa luận tốt nghiệp
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy
máy đọc thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán.
Chính sự bất tiện này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người tiêu dùng
muốn giữ và sử dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn
có khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình
thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà
đất. Đó là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc

nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng.
c/ Quyền lực của khách hàng (Bargaining power of customers)
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ
là việc các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng
không đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ
của mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng
tin của khách hàng. Nhưng không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của
khách hàng trong ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng
vốn huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của
khách hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã nói ở
phần trên, nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu
dùng, là khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất
mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào
một nơi khác.
d/ Quyền lực của các nhà cung cấp (Bargaining power of suppliers)
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là
những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty
chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam các
ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp
riêng tùy theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp
thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh
Page 15
Khóa luận tốt nghiệp
với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên, khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào
đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn
kém, điều này lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào. Không
nhắc đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ
nói đến những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh

của một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu
tư của một ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu
như họ có đủ cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra.
Ở một khía cạnh khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân
hàng được đầu tư.
e/ Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành (Intensity of
competitive rivalry)
Cường độ cạnh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện
của nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn
có một phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã
phục vụ những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách
hàng mở rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại
diện theo.
Ngân hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản mà hiện nay
nhiều ngân hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn mức cho vay chứng
khoán, nợ xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi thế làm từ đầu và có nhiều
chọn lựa trong khi với không ít ngân hàng trong nước thì điều này là không thể.
Ngoài ra, ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn,
dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống
Internet banking).
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên
nhiều nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các
ngân hàng trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ,
Page 16
Khóa luận tốt nghiệp
nhân sự khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật
thiết với khách hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay
với mức ưu đãi đối với những khách hàng quan trọng của họ.
1.1.5. Phương pháp phân tích
1.1.5.1. Phương pháp so sánh

Phương pháp này được sử dụng để xác định xu hướng phát triển và mức
độ biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Việc so sánh thường được tiến hành giữa
các thời kỳ khác nhau và giữa kết quả của đơn vị so với đơn vị khác và so với
mức bình quân chung của toàn ngành.
1.1.5.2. Phương pháp phân tích cơ cấu
Phân tích cơ cấu (phân tích theo chiều dọc) là việc xác định tỷ trọng của
các bộ phận, các khoản mục trong BCTC so với tổng số hoặc so với một chỉ tiêu
có ý nghĩa nào đó. Phân tích này cho thấy mối quan hệ nội tại giữa các khoản
mục trong cùng một báo cáo, từ đó có thể đánh giá được hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
1.1.5.3. Phương pháp phân tích xu hướng
Phân tích xu hướng (phân tích theo chiều ngang) là việc so sánh các chỉ
tiêu, số liệu ở nhiều kỳ khác nhau, thông qua đó thấy được tình hình vận động
của một chỉ tiêu nào đó, cũng như có thể dự báo được xu hướng vận động của
các chỉ tiêu phân tích trong tương lai.
1.1.5.4. Phương pháp phân tích chỉ số
Phân tích chỉ số là phương pháp xác định mối quan hệ tỷ lệ giữa các chỉ
tiêu trong một báo cáo hoặc giữa các chỉ tiêu ở các báo cáo khác nhau, qua đó
vạch ra mối quan hệ nội tại giữa các khoản mục trên BCTC.
1.1.5.5. Phương pháp phân tích Dupont
Mô hình Dupont là kỹ thuật được sử dụng để phân tích khả năng sinh lời
của một doanh nghiệp bằng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình
Dupont tích hợp nhiều yếu tố của báo cáo thu nhập với bảng cân đối kế toán.
Trong phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối
liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các
Page 17
Khóa luận tốt nghiệp
chỉ tiêu tài chính, chúng ta có thể phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến
chỉ tiêu phân tích theo một trình tự nhất định.
Dưới góc độ là một nhà đầu tư, một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất

là hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do vốn chủ sở hữu là một phần
của tổng nguồn vốn hình thành nên tài sản, nên ROE sẽ phụ thuộc vào hệ số lợi
nhuận trên tổng tài sản. Mối quan hệ này được thể hiện bằng mô hình Dupont
như sau:
Hay ROE= ROA x Đòn bẩy tài chính
Vì vậy, mô hình Dupont có thể tiếp tục được triển khai chi tiết thành:
Hay ROE = Hệ số lợi nhuận ròng x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Đòn
bẩy tài chính
Trên cơ sở nhận biết ba nhân tố trên, ngân hàng có thể áp dụng một số
biện pháp làm tăng ROE như sau:
- Tác động tới cơ cấu tài chính của ngân hàng thông qua điều chỉnh tỷ lệ nợ vay và
tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho phù hợp với năng lực hoạt động.
- Tăng hiệu suất sử dụng tài sản. Nâng cao số vòng quay của tài sản, thông qua
việc vừa tăng quy mô về doanh thu thuần, vừa sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ
cấu của tổng tài sản.
- Tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ. Từ đó tăng lợi nhuận
cho ngân hàng.
1.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính trong ngân hàng thương mại
1.2.1. Phân tích khả năng cân đối vốn và tài sản
Khả năng cân đối vốn và tài sản phản ánh cơ cấu các loại vốn và tài sản
được sử dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi xem xét về vốn,
các nhà phân tích thường nghiên cứu tới quy mô vốn chủ sở hữu, khả năng tạo
vốn từ lợi nhuận để lại của ngân hàng và quan trọng nhất là xem xét sự hợp lý về
Page 18
Khóa luận tốt nghiệp
nguồn vốn trong việc bù đắp các tài sản có rủi ro qua việc xem xét mối tương
quan của vốn với tổng tài sản quy đổi theo mức độ rủi ro. Do vốn chủ sở hữu của
một chi nhánh ngân hàng được hình thành chủ yếu từ khoản vốn được ngân hàng
mẹ cấp khi thành lập, và chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn
của chi nhánh, nên nó hầu như không có ý nghĩa đối với hoạt động của chi nhánh

đó. Vì vậy, khi phân tích khả năng cân đối vốn và tài sản của chi nhánh, không
cần thiết sử dụng các chỉ tiêu liên quan đến vốn chủ sở hữu của chi nhánh đó.
Dưới đây là một số chỉ tiêu có thể được sử dụng trong phần phân tích này:
a. Tỷ số VCSH trên tổng tài sản
Ý nghĩa:
+ An toàn vốn được xác định bởi mức độ bảo hộ của vốn chủ sở hữu của
ngân hàng đối với thiệt hại là giá trị tài sản, chủ yếu là các khoản vay. Những
thiệt hại có thể ảnh hưởng đến sự hoàn trả cho người gửi tiền cũng như sự an
toàn trong đầu tư của cổ đông. An toàn vốn là tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu và tài
sản của ngân hàng, được thể hiện theo tỷ lệ phần trăm.
+ Dễ dàng để tính toán và cung cấp một dấu hiệu “sạch” về an toàn vốn
của ngân hàng.
b. Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với nguồn vốn huy động
Tỷ lệ này phản ánh tương quan giữa dư nợ tín dụng và nguồn vốn huy
động, cho biết mức độ sử dụng vốn huy động vào hoạt động tín dụng, cũng
như khả năng cân đối nguồn vốn huy động tại chỗ cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
Nếu tỷ lệ này >100%: cho biết nguồn vốn huy động tại địa bàn không đủ
để cân đối nợ phát sinh hay nói cách khác là phải sử dụng nguồn vốn hệ thống.
Nếu tỷ lệ này ≤100%: tức là nguồn vốn huy động không những cân đối đủ
mà còn hỗ trợ cho nguồn vốn toàn hệ thống.
c. Tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định
Page 19
Khóa luận tốt nghiệp
Do đặc điểm hoạt động của NHTM là cung cấp các dịch vụ về tài chính,
tiền nên tỷ lệ đầu tư vào TSCĐ của NHTM thường thấp, tuy nhiên cũng cần phải
duy trì ở mức hợp lý.
1.2.2. Phân tích hoạt động tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt
động chủ yếu nhất và cũng gặp nhiều rủi ro nhất, đòi hỏi ngân hàng phải thường

xuyên quản lý chặt chẽ hoạt động này. Do đó việc phân tích và đánh giá hoạt
động tín dụng của ngân hàng là rất cần thiết. Vì thế khi phân tích hoạt động tín
dụng của ngân hàng, đề tài sẽ tập trung phân tích các yếu tố vốn, cho vay, thu nợ,
dư nợ, nợ quá hạn. Qua đó đánh giá kết quả về khả năng huy động vốn và hiệu
quả sử dụng vốn của chi nhánh, đồng thời đưa ra một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng.
Một số chỉ tiêu cơ bản
a. Tốc độ tăng trưởng tín dụng
Chỉ tiêu này đánh giá năng lực mở rộng hoạt động tín dụng nhằm mang lại
nguồn thu nhập trong hiện tại và tương lai của ngân hàng. Theo quy định tại
Thông tư số 49/2004/TT-BTC, tốc độ này cần ≥10%.
b. Tỷ lệ nợ quá hạn
Trong đó: Nợ quá hạn cuối kỳ được xác định theo phân loại nợ do NHNN
quy định, ngoại trừ các khoản nợ khoanh theo quy định của chính phủ và nợ tồn
đọng cũ được xử lý theo quyết định số 149/2001 QĐ-TTg ngày 06/05/2001 của
Thủ tướng chính phủ.
Đây là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng của
ngân hàng, nhằm phản ánh mức độ tín dụng của ngân hàng đối với các khách
hàng có khả năng thanh khoản thấp. Theo quy định tại Thông tư 49/2004/TT –
BTC, tỷ lệ này nên ở mức ≤5%.
Page 20
Khóa luận tốt nghiệp
c. Tỷ lệ nợ xấu
Đây là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín dụng của ngân hàng được đánh giá
là có khả năng tổn thất một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi. Để có đánh giá chính
xác đối với tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng, có thể xem xét tỷ lệ từng nhóm nợ xấu
(nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) trên tổng dư nợ. Tỷ lệ này theo chuẩn của mô hình
CAMELS <1,5%.
d. Khả năng bù đắp nợ xấu
Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng bù đắp các khoản nợ xấu của ngân hàng

thông qua việc trích lập các khoản dự phòng tổn thất nợ. Theo tiêu chuẩn của mô
hình CAMELS thì tỷ lệ này nên lớn hơn 100% chứng tỏ khả năng bù đắp được
toàn bộ các khoản nợ xấu của ngân hàng.
e. Tỷ lệ chi phí dự phòng
Tỷ lệ này nhằm phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín dụng,
đồng thời dự báo tỷ lệ trích lập dự phòng hợp lý cho kỳ tiếp theo.
f. Danh mục cho vay trên tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đa dạng hóa trong hoạt động của ngân hàng.
Nếu cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản tức là ngân hàng có mức độ
tập trung tín dụng lớn. Ngược lại, nếu tỷ lệ này nhỏ thì ngân hàng hoặc là thiếu
khách hàng vay vốn hoặc là đa dạng hóa danh mục đầu tư.
1.2.3. Phân tích khả năng hoạt động
Page 21
Khóa luận tốt nghiệp
Để phân tích khả năng hoạt động tại ngân hàng, chúng ta có thể tìm hiểu
đến chỉ tiêu tỷ lệ hiệu quả hoạt động và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên để đánh
giá về tình hình hoạt động tại đây.
a/ Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
Tỷ lệ này thể hiện khả năng sinh lời từ các sản phẩm phi tín dụng của
ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh các sản phẩm phi
tín dụng đem lại hiệu quả cho ngân hàng.
b/ Tỷ lệ hiệu qủa hoạt động
Chỉ tiêu này phản ánh để có 1 đồng thu về ngân hàng sẽ mất bao nhiêu
đồng chi phí, do đó, một sự tăng lên trong chỉ tiêu này đồng nghĩa với hoạt động
của ngân hàng đang ngày càng kém hiệu quả hơn.
1.2.4. Phân tích khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là điều kiện cho tương lai hoạt động của ngân hàng và
có mối liên hệ chặt chẽ với tiềm năng tăng trưởng của ngân hàng đó. Khả năng
sinh lời là kết quả cụ thể nhất trong kinh doanh. Mọi doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng kinh doanh có lãi.

Các nhân tố chủ yếu được xem xét khi đánh giá khả năng sinh lời là:
 Mức độ, xu hướng tăng trưởng, và ổn định của thu nhập, đặc biệt là lợi
nhuận trên tài sản bình quân
 Chất lượng và thành phần thu nhập
 Triển vọng thu nhập trong tương lai dưới sự thay đổi các điều kiện kinh tế
 Lợi nhuận ròng từ lãi
 Vốn chủ sởhữu
 Nhân tố vật chất ảnh hưởng đến khả năng thu nhập của ngân hàng như
TSCĐ và bất động sản
Để đánh giá khả năng sinh lời có thể sử dụng các chỉ tiêu sau trong mô
hình CAMEL.
a. Hệ số lãi ròng biên
Page 22
Khóa luận tốt nghiệp
Hệ số này đo lường khả năng sinh lời từ hoạt động cơ bản của ngân hàng
(huy động vốn để cho vay và đầu tư, theo mức tổng tài sản có của BQ):
Hệ số này càng cao thì càng tốt vì nó chứng tỏ khả năng sinh lời của tài
sản Có cao, lãi thu được từ hoạt động tín dụng cao, và ngược lại. Theo thông lệ
quốc tế, tỷ lệ tham khảo vào khoảng 2% - 5%.
b. Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản bình quân (ROA)
Đây là một chỉ tiêu về tính hiệu quả quản lý, nó chỉ ra khả năng quản lý
của ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng.
Nó cho biết trung bình 100 đồng tài sản sinh lợi đưa vào hoạt động sẽ tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho ngân hàng.
Nếu ROA <0.5% => hiệu quả kinh doanh của ngân hàng yếu kém
Nếu 0.5% <ROA < 1% => hiệu quả kinh doanh của ngân hàng ở mức
trung bình
Nếu 1%<ROA < 2% => hiệu quả kinh doanh của ngân hàng ở mức độ tốt
Nếu ROA > 2% => hiệu quả kinh doanh của ngân hàng rất tốt
(Nguồn: Quản Trị NHTM hiện đại – Nguyễn Đăng Dờn)

Page 23
Khóa luận tốt nghiệp
c. Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE đo lường tỷ lệ thu nhập của các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện
thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vốn vào ngân hàng. Trong các
NHTM, tổng tài sản có so với vốn tự có thường gấp từ 15 – 20 lần, từ đó có thể
phân cấp ROE như sau:
Nếu ROE từ khoảng dưới 10% thì hiệu quả sử dụng vốn thấp
Nếu ROE từ trên 10% đến 20% thì hiệu quả sử dụng vốn trung bình
Nếu ROE từ trên 20% đến 30% thì hiệu quả sử dụng vốn cao
Nếu ROE đạt trên 30% thì hiệu quả sử dụng vốn rất cao.
(Nguồn: Quản Trị NHTM hiện đại – Nguyễn Đăng Dờn)
1.2.5 Phân tích khả năng thanh khoản
Thanh khoản trong quản trị ngân hàng là cần thiết bởi 2lí do: (i) để thoả
mãn yêu cầu đối với các khoản nợ mới mà không cần thu hồi các khoản đang cho
vay hoặc bán đi các khoản đầu tư có kì hạn; (ii) để đáp ứng các khoản rút tiền
theo ý muốn của người gửi tiền bất kỳ lúc nào.
Ngân hàng vốn là tổ chức kiếm tiền chủ yếu thông qua đường cong lãi
suất, đó là: huy động tiền gửi ngắn hạn với lãi suất thấp và cho vay trung và dài
hạn với lãi suất cao hơn. Việc thanh khoản không ăn khớp này tiềm ẩn những
nguy hiểm. Do đó, các ngân hàng phải nắm giữ một tỉ lệ tài sản có tính thanh
khoản cao (lý tưởng là 20% đến 30% tổng tài sản) để đáp ứng các nhu cầu thanh
khoản thông thường của khách hàng.
Thanh khoản của ngân hàng phải được xem xét dưới góc độ là khả năng
của ngân hàng trong việc tài trợ các khoản nghĩa vụ của nó. Thanh khoản liên
quan đến các yếu tố
 Tính bất ổn của các khoản tiền gửi
 Mức độ tín nhiệm của các khoản tài trợ nhạy cảm với lãi suất
 Khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của tài sản
 Ảnh hưởng của thị trường tiền tệ

 Hiệu quả của chiến lược và chính sách quản trị tài sản – nguồn vốn
 Sự tuân thủ chính sách thanh khoản nội bộ
 Bản chất, quy mô và các dự đoán trước về cam kết tín dụng
Page 24
Khóa luận tốt nghiệp
Đối với một chi nhánh thì khả năng vay tức thời từ ngân hàng mẹ là gần
như không hạn chế. Tuy nhiên không phải vì thế mà các chi nhánh có thể xem
nhẹ việc quản lý thanh khoản, vì nếu xảy ra tình trạng mất khả năng thanh khoản
đồng loạt từ các chi nhánh thì cũng sẽ làm suy giảm khả năng thanh khoản của hệ
thống ngân hàng đó.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được đánh giá theo những quy mô
và nội dung khác nhau nhưng thông thường được lượng hóa qua các chỉ tiêu sau:
a. Tỷ số trạng thái tài sản động
Tỷ lệ này thể hiện tỷ trọng các tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh
thành tiền, trong đó tài sản động bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi tại các tổ
chức tín dụng và chứng khoán thanh khoản. Theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ này
tham khảo ở mức 20%-30%.
b. Tỷ lệ về khả năng chi trả
Trong đó, tài sản Có có khả năng thanh toán ngay là những tài khoản NH có
khả năng huy động ngay vào việc chi trả cho khách hàng như các khoản dự trữ, tiền
gửi tại các TCTD và khoản tiền gửi thanh toán tập trung tại hội sở chính, còn tài sản
Nợ dễ biến động là những khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng vào NH.
c. Hệ số đảm bảo tiền gửi
Hệ số này phản ánh khả năng của ngân hàng đáp ứng các khoản rút tiền
không được dự báo của khách hàng bằng khả năng thanh khoản của chính ngân
hàng mà không phải sử dụng đến nguồn lực bên ngoài.
Theo thông lệ quốc tế thì hệ số này nên ở mức tham khảo tối ưu là 30%
-45%. Nếu hệ số này ở mức dứoi 30% hay trên 45% đều không tốt vì nếu hệ số
này quá thấp thì sẽ có thể dẫn đến mất khả năng đáp ứng của ngân hàng với các
khoản rút tiền không dự báo trước của khách hàng. Còn nếu tỷ lệ này quá cao thì

Page 25

×