Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá tại thị trấn vôi, huyện lạng giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 109 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
NGUYỄN THỊ TRANG
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HÀNG
HOÁ TẠI THỊ TRẤN VÔI, HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC
GIANG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HÀNG
HOÁ TẠI THỊ TRẤN VÔI, HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC
GIANG
Tên sinh viên: Nguyễn Thị Trang
Chuyên ngành đào tạo: Kinh tế nông nghiệp
Lớp: KT49B
Niên khoá: 2004 - 2008
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Phúc Thọ
HÀ NỘI, NĂM 2008
LỜI CAM ĐOAN
Để tiến hành nghiên cứu đề tài “Phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá
theo hưóng hoá tại thị trấn Vôi - Lạng Giang - Bắc Giang”, tôi đã thu thập
tài liệu từ các nguồn sách, báo, tạp chí, báo cáo của các phòng ban UBND
thị trấn Vôi, đồng thời thu thập số liệu qua các phiếu điều tra. Tôi xin cam
đoan những số liệu thu thập được qua điều tra phỏng vấn là có thật, chưa
được công bố trên bài viết nào.
Hà nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Thị Trang
LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập tại trường ĐH Nông nghiệp I – Hà Nội, em
đã được sự dạy dỗ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, Ban giám hiệu
nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa… Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
này.
Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp, mặc dù gặp nhiều khó
khăn nhưng được sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Kinh tế và Phát
triển nông thôn trường ĐH Nông nghiệp I – Hà Nội, cùng sự giúp đỡ động
viên của gia đình, bạn bè, đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Phúc Thọ, sự giúp đỡ của lãnh đạo, cán
bộ, nhân viên của UBND thị trấn Vôi và với sự nỗ lực của bản thân đến
nay em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp được giao đúng thời hạn.
Với tấm lòng biết ơn vô hạn, em xin gửi tới Ban giám hiệu, Ban chủ
nhiệm khoa, các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè lời cảm ơn chân thành
nhất.
Do thời gian hạn hẹp, kinh nghiệm bản thân chưa nhiều nên không
thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các
thầy cô giáo và các bạn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Thị Trang
MỤC LỤC
Phần I: ĐẬT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1 Cơ sở lý luận cơ bản sản xuất hàng hoá
2.1.1 Khái niệm về hàng hoá và sản xuất hàng hoá
2.1.2 Điều kiện để có sản xuất hàng hoá
2.1.3 Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá
2.1.4 Những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng hàng hoá
2.1.5 Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá
2.2 Cơ sơ thực tiễn
2.2.1 Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá trên thế giới
2.2.2 Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá ở Việt Nam
2.3.2 Các chỉ tiêu đáng giá kết quả và hiệu quả kinh tế phát triển sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá
2.3 Hệ thống một số chỉ tiêu đánh giá
2.3.1 Chỉ tiêu về đất đai
2.3.2 Các chỉ tiêu đáng giá kết quả và hiệu quả kinh tế phát triển sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá
1
1
3
3
3
3
3
4
5
5
5

6
7
8
10
10
13
13
19
23
23
23
Phần III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm về tự nhiên
3.1.2 Đặc điểm về kinh tế - xã hội
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu
3.2.3 Phương pháp kinh tế
Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Khái quát tình hình sản xuất ngành nông nghiệp của thị trấn Vôi.
4.1.1 Tình hình sản xuất ngành trồng trọt
4.1.2 Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi
4.2 Tình hình sản xuất nông nghiệp hàng hoá ở các nhóm hộ điều tra.
4.2.1 Tình hình sản xuất ngành trồng trọt
4.2.2 Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi ở các nhóm hộ điều tra
4.3. Kết quả xây dựng cánh đồng mẫu
4.4 Những ưu điểm và mặt tồn tại từ phát triển sản xuất nông nghiệp
của thị trấn Vôi
4.4.1 Những mặt ưu điểm

4.4.2 Những mặt tồn tại
4.5 Mục tiêu và các giải pháp chủ yếu phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá trên địa bàn
4.5.1 Những thuận lợi và khó khăn
4.5.2 Nội dung của chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng
hoá trong thời gian tới.
Phần V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
5.2 Kiến nghị
26
26
26
27
38
38
38
38
40
40
40
48
55
55
71
72
76
76
77
79
79

80
88
88
90
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 Tình hình phân bổ đất đai của thị trấn qua 3 năm 2005 - 2007
Bảng 3.2 Tình hình dân số, lao động, các hộ trong thị trấn qua 3 năm
2005 - 2007
Bảng 3.3 Tình hình cơ sở hạ tầng của thị trấn năm 2007
Bảng 3.4 Kết quả sản xuất kinh doanh của thị trấn qua 3 năm
2005 – 2007
Bảng 3.5 Thông tin cơ bản về hộ điều tra
Bảng 4. 1 Tình hình diện tích gieo trồng của thị trấn Vôi qua 3 năm
2005 - 2007
Bảng 4.2 Tình hình năng suất, sản lượng cây trồng hàng năm của thị
trấn Vôi qua 3 năm 2005 - 2007
Bảng 4.3 Quy mô ngành chăn nuôi của thị trấn Vôi qua 3 năm
2005 - 2007
Bảng 4.4 Kết quả sản xuất của ngành chăn nuôi của thị trấn Vôi
Bảng 4.5 Tình hình diện tích một số loại cây trồng ở các nhóm hộ
điều tra
Bảng 4.6 Năng suất cây trồng ở các nhóm hộ điều tra
Bảng 4.7 Tình hình tiêu thụ sản phẩm cây trồng ở nhóm hộ điều tra
Bảng 4.8 Tỷ suất hàng hoá một số cây trồng chính ở các nhóm hộ
điều tra
Bảng 4.9 Tình hình đầu tư cho một sào của một số cây trồng chính ở
nhóm hộ điều tra
Bảng 4.10 Tình hình đầu tư cho một sào của một số cây trồng chính ở
nhóm hộ điều tra
Bảng 4.11 Hiệu quả kinh tế của một số cây trồng chính ở nhóm hộ

điều tra
Bảng 4.12 Hiệu quả kinh tế của một số cây trồng chính ở nhóm hộ
điều tra
Bảng 4.13 Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi ở các nhóm hộ điều tra
28
30
32
34
37
41
44
49
52
56
58
60
62
65
66
69
70
71
DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT
BQ
BVTV
CN
CN - TTCN
CC
DTGT
DT

ĐVT
GO, GTSX
HTX
HTXNN
IC
LĐGĐ
MI
NN
SL
Tr.đ
TM - DV
TB
VA
Bình quân
Bảo vệ thực vật
Công nghiệp
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Cơ cấu
Diện tích gieo trồng
Diện tích
Đơn vị tính
Giá trị sản xuất
Hợp tác xã
Hợp tác xã nông nghiệp
Chi phí trung gian
Lao động gia đình
Thu nhập hỗn hợp
Nông nghiệp
Số lượng
Triệu đồng

Thương mại - dịch vụ
Trung bình
Giá trị gia tăng
Phần I: ĐẬT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Bất cứ một quốc gia nào, dù là một nước có nền kinh tế phát triển hay
kém phát triển thì đều có ý muốn không ngừng nâng cao thu nhập quốc dân
bình quân trên đầu người hàng năm, kiểm soát được lạm phát, hạn chế được
thất nghiệp, sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng kinh tế. Trên con đường nhằm đạt
được mục đích chung ấy, lối đi của mỗi nước là khác nhau. Có nước khởi đầu
sự nghiệp bằng thương mại dịch vụ hoặc tập trung vào xuất khẩu nông sản,
lương thực Việt Nam là nước có điểm xuất phát thấp lại đi lên từ một nền
nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 72% dân số sống ở nông
thôn, gần 70% lao động làm nông nghiệp, 20% GDP do nông nghiệp tạo ra và
trên 30% kim ngạch xuất khẩu có nguồn gốc từ nông nghiệp. Vì vậy phát
triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng là vấn đề hết sức cấp
của chúng ta, trong đó phát triển một nền kinh tế hàng hoá đang thực sự trở
thành một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Sau hơn 10 năm trở lại đây nền nông nghiệp nước ta đang từng bước
thay đổi cả về quy mô lẫn chất lượng, một nền nông nghiệp toàn diện bền
vững, sử dụng triệt để có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai và lao động dư
thừa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh chóng,
vững vàng bắt kịp với những nước có tốc độ phát triển kinh tế cao trong khu
vực ASEAN. Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ VII đã mở ra một hướng đi
có tính chất quyết định với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế nông nghiệp
nói riêng. Nếu như những năm trước đây, sản xuất nông nghiệp nước ta mang
tính tự cung tự cấp, tự túc là chủ yếu song cung vẫn không đủ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước vì thế hàng năm chúng ta phải nhập khẩu hàng trăm
ngàn tấn lương thực. Hậu quả lớn nhất là suốt những năm sản xuất dưới hình
thức tập thể, sản xuất nông nghiệp hầu như không có lãi mà chỉ mang tính

chất “ lãi giả lỗ thật” thậm chí cả hợp tác xã, nông trường còn bị lỗ nặng.
Nhưng từ khi nền kinh tế nước ta xoá bỏ chế độ bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nông nghiệp nước ta có những bước chuyển biến đáng kể, đặc biệt là
từ khi thực hiện khoán đất và sản phẩm đến từng hộ nông dân theo chỉ thị 100
của ban Bí thư Trung Ương Đảng và Nghị quyết 10 của Bộ chính trị mà Đảng
ta xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” thì tình hình sản xuất nông
nghiệp có nhiều khởi sắc, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện
không những đủ cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho nhu cầu nội địa mà còn
hướng mạnh ra xuất khẩu nhiều loại nông sản hàng hoá hiện nay đứng nhất
nhì thế giới.
Với cơ chế thị trường hiện nay thì để xây dựng một nền nông nghiệp ổn
định và phát triển thì các đơn vị sản xuất mà chủ yếu là các nông hộ, nông dân
phải biết sử dụng nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội sẵn có. Việc tận dụng
các nguồn lực này để bố trí phát triển kinh tế cho hợp lý chính là một trong
những những biện pháp kinh tế kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp. Vì vậy
cần xác định cây trồng gì? Nuôi con gì? Bố trí thời vụ ra sao, kết hợp các quy
trình sản xuất kinh doanh như thế nào? sao cho tạo ra nhiều sản phẩm với chất
lượng, sản lượng đáp ứng nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả kinh tế cao. Và
một nền nông nghiệp hàng hoá đã hình thành và phát triển. Mục tiêu cao nhất
của kinh tế hàng hoá là hiệu quả, góp phần thực hiện đường lối chính sách của
chính phủ.
Trong những năm qua các địa phương đã chú trọng đi vào thực hiện
các Nghị quyết của chính phủ và đã tạo ra sự phát triển vượt bậc trong sản
xuất nông nghiệp. Bên cạnh những mặt đạt được thì phát triển nông nghiệp
theo hướng hàng hoá vẫn còn nhiều tồn tại như: Chất lượng sản phẩm chưa
cao, quy hoạch phân tán, tác động của công nghiệp vào nông nghiệp chưa rõ
nét
Thị trấn Vôi là một trong những xã sản xuất thuần nông thuộc huyện
Lạng Giang có vị trí quan trọng trong việc cung cấp lương thực thực phẩm,

các loại hoa quả đặc biệt nguồn rau sạch, rau gia vị cho địa phương nói riêng
và Hà Nội nói chung. Trong khi nghành nghề tiểu thủ công nghiệp chưa phát
triển, năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp nhưng những năm gần đây nông
nghiệp đang có xu hướng mở rộng theo hướng sản xuất hàng hoá đã và đang
dần trở thành sản xuất chính mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở các hộ nông
dân thị trấn Vôi là yêu cầu để tăng sản phẩm hàng hoá, tăng thu nhập cho các
hộ và cải thiện đời sống của họ.
Nhận thức về vai trò của sản xuất nông nghiệp đồng thời thực hiện mục
tiêu cao nhất của kinh tế thị trường là hiệu quả kinh tế, em chọn đề tài nghiên
cứu: “ Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá tại thị trấn
Vôi - Lạng Giang - Bắc Giang”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá , tìm ra những yếu tố hạn chế cũng như thế mạnh để
đề xuất một số giải pháp góp phần sử dụng có hiệu quả các tiềm năng nguồn
lực của các hộ nông dân tại thị trấn Vôi - Lạng Giang - Bắc Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhằm phát triển sản xuất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Đánh giá thực trạng tình hình kết quả phát triển nền nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá trên địa bàn nghiên cứu.
- Chỉ ra những mặt được và những yếu kếm, nguyên nhân của nó trong
phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở địa bàn nghiên cứu.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hoá nhằm sử dụng có hiệu quả, tăng lợi thế của vùng cũng như sử dụng có
hiệu quả tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động…
- Tiến hành điều tra tình hình sản xuất của một số hộ nông dân tại thị
trấn nhằm đánh gía hiệu kinh tế của cây trồng và vật nuôi. Từ đó tính toán
được mức độ của các yếu tố đầu vào đến hiệu quả kinh tế của một số loại cây
trồng và vật nuôi để từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng sản
xuất hàng hoá.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại thị trấn Vôi - Lạng Giang -
Bắc Giang.
Về thời gian: Đánh giá thực trạng trong giai đoạn 3 năm 2005 - 2007.
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận cơ bản sản xuất hàng hoá
2.1.1 Khái niệm về hàng hoá và sản xuất hàng hoá
Lịch sử phát triển sản xuất luôn vận động và tuân theo quy luật vận
động từ thấp tới cao, từ hình thức kinh tế tự nhiên đến hình thức kinh tế hàng
hoá.
Hàng hoá là sản phẩm do người lao động tạo ra hoặc chiếm dụng, là vật
phẩm hay sản phẩm vô hình có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người,
nó đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán trên thị trường.
Kinh tế học vi mô đã khẳng định: Khi tồn tại nền kinh tế thị trường thì
cũng tồn tại nền sản xuất hàng hóa. Vậy sản xuất hàng hoá là gì? Đó là việc
sản xuất ra những sản phẩm với mục đích đem bán để tái sản xuất mở rộng.
Nền kinh tế thị trường ra đời đã làm nảy sinh “Cung”, “Cầu” trên thị trường
và toàn xã hội, đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng cung là các nông
sản phẩm như lương thực, thực phẩm còn cầu của nông dân là sản phẩm của
công nghiệp như: hàng tiêu dùng, vật tư nông nghiệp Chính vì vậy mà nông
hộ muốn thoả mãn nhu cầu về hàng tiêu dùng cũng như tái sản xuất thì buộc
họ phải có sản phẩm đem bán, hiệu quả của sản xuất hàng hoá được đặt lên
hàng đầu và sản xuất hàng hóa là một tất yếu.

Ưu thế của phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp là nó phát
huy tốt nhất các lợi thế, các tiềm năng kinh tế xã hội của các vùng sản xuất và
khả năng chuyên môn hoá cao. Vì vậy nó có vai trò điều tiết giữa các vùng,
giữa người sản xuất và tiêu dùng.
Nhờ có sản xuất hàng hoá phát triển mà thu nhập của hộ nông dân ngày
càng được nâng cao, thị trường nông sản lưu thông, tăng giá trị của nông sản
phẩm trên thị trường. Mặt khác sản xuất nông nghiệp hàng hoá làm cho một
số hộ nông nghiệp chuyển sang ngành khác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
phát triển. Cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi nhanh chóng tạo thêm công ăn
việc làm và thu nhập cho người dân.
2.1.2 Điều kiện để có sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của đa số hình thái kinh tế
phản ánh trình độ phát triển sản xuất đó và phân công lao động càng sâu sắc
thì sản xuất hàng hóa càng phát triển, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên - kinh
tế xã hội phù hợp. Việc duy trì hay thay đổi về cơ cấu ngành trồng trọt và
chăn nuôi không phải là mục tiêu mà là phương thức cho sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế, mọi sự duy trì quá lâu hoặc thay đổi quá nhanh cơ
cấu kinh tế mà không tính đến sự biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã
hội đều gây ra thiệt hại về kinh tế. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của nền kinh tế quốc dân theo hưóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
cơ cấu kinh tế nông thôn cũng từng bước được chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo từng thời kỳ và mức độ phát triển của mỗi
ngành. Kinh tế nông thôn là khu vực kinh tế quan trọng vì nó cung cấp cho
toàn xã hội những sản phẩm cần thiết như lương thực và thực phẩm cũng như
nguồn lao động dồi dào, phong phú Trong tương lai với sự phát triển không
ngừng của khoa học kỹ thuật thì tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế nông
thôn có thể giảm, nhưng khối lượng sản phẩm cung cấp vẫn không ngừng
tăng lên. Do vậy điều kiện để có sản xuất hàng hoá là:
Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là chuyên môn hoá sản xuất nhằm sản xuất

ra nông sản theo yêu cầu của xã hội, nó xác định cho một ngành hay một vùng
sản xuất loại sản phẩm gì. Nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi phải có
nhiều loại sản phẩm vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất
khác, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động biểu hiện sự phát
triển của lực lượng sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên và việc trao
đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Phân công lao động là cơ sở của sản xuất hàng
hoá.
Thứ hai, có chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản
xuất và sản phẩm. Điều này giúp người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau và
có quyền chi phối sản phẩm của mình, có quyền đem sản phẩm của mình trao
đổi với sản phẩm của người khác. Nếu phân công lao động xã hội làm cho
người sản xuất phụ thuộc vào nhau, thì chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc
lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn, mâu thuẫn này được giải quyết thông
qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cung, tự túc và thay thế nó
trong quá trình lịch sử lâu dài. Hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hoá xuất
hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, tồn tại và phát triển ở
các phương thức tiếp theo. Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng
hoá chủ yếu là sản xuất hàng hoá giản đơn gọi là sản xuất nhỏ giữ vai trò phụ
thuộc. Sản xuất hàng hoá giản đơn là hàng hoá của nông dân và thợ thủ công
dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động cá nhân của người
lao động vốn tách biệt nhau. Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh chóng ở thời
kỳ chế độ phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra nhanh
chóng hơn. Hình thức điển hình của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa ( còn
gọi là sản xuất lớn), đó là hình thức sản xuất hàng hoá cao nhất, phổ biến nhất
trong lịch sử. Quan hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực mọi chức năng
của nền sản xuất xã hội. Đặc điểm của mọi sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa là dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động trên cơ sở bóc
lột lao động làm thuê dưới hình thức giá trị gia tăng. Sản xuất hàng hoá tiếp
tục tồn tại và phát triển dưới hình thức xã hội chủ nghĩa.Với đặc điểm là nó

không dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và nó nhằm mục đích thoả
mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên của mọi thành viên xã hội
trên cơ sở sản xuất kinh doanh.
2.1.3 Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
Sản xuất nông nghiệp đã trở thành một ngành sản xuất chính trong nền
kinh tế Việt Nam, để có thể phát triển sản xuất tốt ngành trồng trọt và chăn
nuôi cần phải nắm vững một số đặc điểm cơ bản sau:
Sản xuất nông nghiệp tiến hành trong điều kiện thời tiết khó khăn và
phức tạp. Vì vậy để phát triển sản xuất nông nghiệp, các địa phương và các hộ
phải theo dõi và nắm vững sự biến động của điều kiện tự nhiên để chủ động
tránh những biến động xấu và tranh thủ tận dụng những biến đổi theo chiều
hướng tốt một cách kịp thời bảo đảm tăng năng suất cây trồng, hạn chế chi
phí cho sản xuất đến mức tối thiểu nhằm tăng thu nhập cho hộ nông dân.
Những cây trồng ngắn ngày hay dài ngày đều có đặc tính sinh học khác
nhau, cho nên nó có yêu cầu nghiêm ngặt về điều kiện chăm sóc, thời vụ và
sâu bệnh hại.
Do sản xuất nông nghiệp hàng hoá mang tính thời vụ nên cung nông
sản hàng hoá cũng mang tính thời vụ. Vì vậy cần có biện pháp thu hoạch và
bảo quản kịp thời, vận chuyển ngay tới nơi tiêu thụ hoặc chế biến, đảm bảo
chất lượng. Những sản phẩm có thể bảo quản được lâu thì cần có biện pháp
bảo quản tốt nhằm tránh sự hao hụt, hư hỏng dẫn tới chất lượng giảm. Từ yêu
cầu đó đặt ra yêu cầu cho hộ nông dân sản xuất cần lựa chọn giống cây trồng
và vật nuôi cho phù hợp với chất đất và thích nghi với sự biến động về thời
tiết là hết sức cần thiết, trong quá trình gieo trồng và chăn nuôi các khâu công
việc phải làm đúng và kịp thời đảm bảo không ảnh hưởng tới quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây trồng và vật nuôi.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa rất phong phú và đa dạng, đòi hỏi mức
đầu tư về vốn và lao động ở cấp độ khác nhau là tương đối lớn. Nên các hộ
nông dân cần có kế hoạch bố trí các loại cây, con sao cho phù hợp với khả
năng đầu tư của mình, đáp ứng được nhu cầu thị trường nhằm tăng tỷ trọng

nông sản hàng hoá, từ đó cần sử dụng đầy đủ và hợp lý các nguồn lực nhằm
tăng thu nhập cho hộ nông dân.
2.1.4 Những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng hàng hoá
* Nhóm yếu tố tự nhiên
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật - những cơ thể sống.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của nó tuân theo những quy luật riêng
đồng thời chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh như: thời tiết, khí hậu, môi
trường Những yếu tố này tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con
người. Chính vì vậy khi tiến hành sản xuất cần tìm hiểu kỹ các yếu tố để thấy
rõ mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đó tới sự sinh trưởng và phát triển của
cây trồng, vật nuôi sao cho hạn chế tới mức tối thiểu sự bất lợi và khai thác
tối đa tiềm năng của khí hậu thời tiết, phát huy hiệu quả kinh tế trong sản
xuất. Cần phải luân canh, xen canh bố trí hợp lý cây trồng vật nuôi đảm bảo
tận dụng đầy đủ các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ
* Nhóm yếu tố kỹ thuật
Với cơ chế kinh tế được đổi mới thì ngày càng có nhiều tiến bộ kỹ
thuật và phương thức sản xuất được ứng dụng vào trong sản xuất như: tiến bộ
về giống: Giống đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, giống tốt cho năng
suất tốt, khả năng chống chịu bệnh tật tốt. Hiện nay ngoài những giống cũ đã
dùng ở địa phương chúng ta đã nhập và lai tạo được nhiều giống mới có năng
suất và phẩm chất tốt. Tuy nhiên dù có áp dụng giống nào thì cũng phải căn
cứ vào điều kiện cụ thể để tìm ra các loại giống phù hợp đồng thời có biện
pháp xử lý và bảo quản giống đảm bảo năng suất cây trồng vật nuôi. Bên cạnh
đó còn có tiến bộ về kỹ thuật chăm sóc, cơ cấu cây trồng vật nuôi, công
nghiệp chế biến hiện đại
Nhưng trong thực tế thì các tiến bộ kỹ thuật này chưa thực sự đến với
nông dân một cách toàn diện cũng là một nhân tố làm cho năng suất cây
trồng, vật nuôi chưa cao như mong muốn.
* Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội

- Yếu tố thị trường: Sản xuất nông nghiệp hàng hoá hướng vào nhu cầu
của thị trường, thị trường là cơ sở để quyết định sản xuất cây trồng, vật nuôi
gì? Số lượng bao nhiêu? Chất lượng như thế nào? Bao giờ thì sản xuất?
Hơn nữa, thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua, bán và lưu thông
hàng hoá. Với sản xuất nông nghiệp thì thị trường tiêu thụ nông sản là rất
quan trọng bởi đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp là khó vận chuyển, dễ hư
hỏng vốn là nguyên nhân làm cho giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị
trường.
- Yếu tố nguồn lực, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng:
Sử dụng lao động hợp lý và đầy đủ cũng như nâng cao trình độ dân trí
cho người lao động là những yêu cầu cấp thiết của việc phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hoá, vừa là phải giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động vừa phải giải quyết tính chất thời vụ trong sử dụng lao động nông
nghiệp.
Vốn trong sản xuất nông nghiệp cũng là một yếu tố quyết định đến việc
sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Để có hiệu quả cao kinh
tế cao thì đòi hỏi phải có lượng vốn lớn, nếu không có vốn thì những giải
pháp kinh tế, kỹ thuật cũng không có tính khả thi. Mặt khác, sản xuất nông
nghiệp còn mang tính rủi ro cao nên khi rủi ro xảy ra cần phải có lượng vốn
nhất định để khắc phục hậu quả.
Cơ sở hạ tầng là tiền đề quan trọng nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tốt sẽ tạo ra phương tiện và điều
kiện thuận lợi nhằm giảm những ảnh hưởng xuất do điều kiện tự nhiên gây ra
đồng thời giúp cho việc áp dụng những biện pháp thâm canh tăng năng suất,
tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi.
2.1.5 Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá
Trước Cách mạng Tháng Tám, dưới chế độ thực dân, Việt Nam và cả
Đông Dương là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị thực dân Pháp và
Phát xít Nhật bóc lột. Sau khi giành được chính quyền, hàng loạt chính sách

được ban hành nhằm xoá bỏ bất công trong xã hội và phát triển sản xuất nông
nghiệp. Cuộc cải cách ruộng đất là bước tiến quan trọng đầu tiên. Trong suốt
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, phong trào hợp tác hoá được đẩy mạnh. Sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng (1975), đất nước thống nhất và hoà bình, tuy có nhiều cố
gắng, nhưng sản xuất nông nghiệp do có nhiều khó khăn chủ quan và khách
quan nên vẫn “dậm chân tại chỗ”.
Trước tình hình khủng hoảng của sản xuất nông nghiệp và đời sống
nông dân, từ bài học thành công của thử nghiệm tự phát ở Hải Phòng và xu
thế lan rộng của mô hình này, ngày 22-10-1980, Ban Bí thư đã ra Thông báo
số22 công nhận khoán sản phẩm là hình thức quản lý hợp pháp trong hợp tác
xã nông nghiệp.
Đại hội VI của Đảng (1986) nhận định “cơ chế quản lý tập trung đã
không tạo động lực phát triển… Nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt
trận hàng đầu. Đại hội chính thức công nhận sự tồn tại và vai trò của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.
Năm 1989, bắt đầu triển khai quá trình cải cách doanh nghiệp nhà
nước, chỉ giữ lại các doanh nghiệp quan trọng, từng bước cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước khác. Các chính sách “cởi trói” đã tạo nên sức sống
mới trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy tăng trưởng có nhanh nhưng
vẫn chậm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn nên chủ yếu vẫn chỉ là nông
nghiệp, nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, cụ thể là trồng lúa.
Đại hội VII (1991) chỉ rõ “ Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế-
xã hội”.
Đại hội VIII của Đảng (1996) đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn và Luật hợp tác xã được Quốc hội thông qua
20-3-1996 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Giai đoạn 1989 - 1999 là giai đoạn sản xuất nông nghiệp chuyển từ tự
cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Đại hội IX (2001) đã tổng kết những thành tựu đạt được trong 15 năm
đổi mới, đặt ra mục tiêu chính của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Xuất phát từ nhận thức, sản xuất nông nghiệp hàng hoá chỉ có thể có
sức cạnh tranh cao khi quy mô hộ được mở rộng trên phạm vi nhất định để có
thể áp dụng cơ giới, thuỷ lợi,công nghệ, đủ mức giảm chi phí dịch vụ tín
dụng, bảo hiểm, tiếp thị, Nhà nước đã tiếp sức cho nông hộ bằng các chính
sách tín dụng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó là việc tiến
hành đổi mới tổ chức hợp tác xã, đổi mới doanh nghiệp nhà nước – các lâm
nông trường, sửa đổi luật lệ, áp dụng chính sách về thuế, chế độ thuê mướn
đất, nhập khẩu vật tư, thiết bị, xuất khẩu hàng hoá, khuyến khích hình thành
và phát triển doanh nghiệp ở nông thôn.
Đổi mới tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch, thuỷ lợi, phòng chống
thiên tai, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, bảo vệ thực vật, thú y và kiểm
lâm, trong hoạt động nghiên cứu khoa học, khuyến nông và đẩy mạnh hợp tác
quốc tế với các tổ chức UNDP, FAO, UNICEP, ESCAP và các tổ chức phi
chính phủ khác.
Chính sách đổi mới của Đảng ta đã đưa nông nghiệpViệt nam thoát
khỏi con đường sản xuất tự cấp, tự túc để bước vào con đường sản xuất nông
nghiệp hàng hoá với những thành công đáng kể trong thập kỷ 90. Sản lượng
xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản đứng hạng nhất nhì thế giới như gạo, cà
phê, hồ tiêu… đã đóng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của đất
nước.
Trong suốt quá trình đổi mới, cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ cả
nước chuyển đổi theo đúng quy luật, - nông nghiệp luôn giữ vai trò làm cơ sở
cho công nghiệp và dịch vụ phát triển. Trong nông , lâm nghiệp và thuỷ sản,
chuyển dịch cơ cấu diễn ra rõ rệt nhưng chưa đồng đều.
Sản xuất lúa phát triển là nền tảng đảm bảo an ninh lương thực và thu

nhập cho đông đảo nông dân. Đổi mới cơ chế quản lý trong ngành trồng lúa
đã khởi động quá trình đổi mới kinh tế cả nước.
Bên cạnh đó, đồng thời tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây hoa màu và
cây công nghiệp hàng năm, cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm, cơ cấu
trong chăn nuôi, cơ cấu trong ngành lâm nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
kinh tế và đổi mới phát triển nông thôn.
2.2 Cơ sơ thực tiễn
2.2.1 Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá trên thế giới
Đối với các nước phát triển: Tuy tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ
nhỏ trong nền kinh tế nhưng đó lại là một nền nông nghiệp thâm canh ở trình
độ cao, sức sản xuất lớn, có sự tác động rõ rệt và hiệu quả của công nghiệp và
các tiến bộ kỹ thuật, hiệu quả kinh tế cao với sức cạnh tranh lớn. Nông nghiệp
được phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng vững mạnh, trình độ kỹ thuật tiên tiến,
các quy trình kỹ thuật được tôn trọng nghiêm ngặt bởi tính công nghiệp hoá
của họ. Phát triển nông nghiệp theo kiểu công nghiệp, liên kết chặt chẽ với
nhau ở tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ là đặc trưng của nông
nghiệp ở các nước phát triển. Nông nghiệp ở các nước phát triển mang tính
hàng hoá cao, sản phẩm chủ yếu được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp.
Sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến với công nghệ cao và tính hợp lý trong
bố trí tiêu thụ sản phẩm.
Đối với các nước đang phát triển thì dân cư tập trung chủ yếu ở nông
thôn và nông nghiệp là nguồn sống chính của người dân nông thôn. Do vậy
mà trong nông nghiệp người dân quan tâm chủ yế đến sản xuất lương thực là
chính. Trình độ khai thác nguồn lực kém dẫn đến sử dụng không hợp lý làm
cho các nguồn lực bị lãng phí sức sản xuất ở các nước đang phát triển thấp,
cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lao động thủ công là chủ yếu, nông nghiệp
vào tự nhiên, rủi ro cao. Sản xuất nặng về tự sản tự tiêu, trình độ chuyên môn
hoá thâp, tỷ suất hàng hóa thấp, quy mô sản xuất nhỏ, tổ chức phân tán là
điểm nổi bật về trình độ sản xuất hàng hoá của nông nghiệp các nước đang

phát triển, không ổn định trong quy hoạch(ở tầm vĩ mô) và lúng túng trong
việc xác định phương hướng sản xuất ở các vùng, các địa phương, các cơ sở
sản xuất là điều thường thấy ở các nước đang phát triển.
Kinh nghiệm phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá của một số
nước:
* Ấn Độ:
Nằm ở khu vực Tây Nam Á, Ấn Độ có diện tích tự nhiên gần 33 triệu
km2, trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 141,23 triệu ha với dân số trên 1
tỷ người, có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời và thế mạnh về phát triển
nông nghiệp.
Ấn Độ đã xây dựng đuợc nền kinh tế tự cung, tự cấp nhưng khi nhu
cầu của xã hội chưa cao, cùng với quy mô dân số còn thấp thì nền nông
nghiệp Ấn Độ có thể đảm bảo được những nhu cầu trong nước. Tuy nhiên,
khi dân số tăng lên, cùng với nhu cầu xã hội ngày càng tăng, thì nền kinh tế
nông nghiệp trên đã không còn phù hợp nữa. Để đáp ứng đòi hỏi của thực tế,
Ấn Độ đã tiến hành các cuộc cách mạng trong nông nghiệp, nhằm giải quyết
những khó khăn cơ bản và tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế.
Năm 1963, Ấn Độ tiến hành cuộc “cách mạng xanh” lần thứ nhất, tập
trung vào việc tăng khối lượng lương thực. Hàng loạt giống lúa mới có năng
suất cao được đưa vào sản xuất trên toàn quốc (lúa mì Mê-xi-cô, lúa nước IR8
của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế ở Phi-li-pin). Với những cố gắng trên, đến
năm 1986, sản lượng lương thực của Ấn Độ đã đạt 148 triệu tấn. Kết quả của
cuộc “cách mạng xanh” là từ chỗ phải nhập khẩu lương thực nhiều nhất thế
giới, Ấn Độ đã vươn lên là nước đứng thứ hai về xuất khẩu lương thực.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX, Ấn Độ tiến hành cuộc “cách
mạng trắng” (chăn nuôi để lấy sữa), tạo ra sự thay đổi lớn trong chăn nuôi,
tăng cường cung cấp sữa cũng như chất đạm cho người dân. Với sản lượng
sữa tăng 6%/năm, Ấn Độ đã trở thành một trong những nước sản xuất và xuất
khẩu sữa hàng đầu trên thế giới (từ 17 triệu tấn năm 1951, lên 81 triệu tấn
năm 2000 và 96,1 triệu tấn năm 2005).

Từ năm 1983, Ấn Độ tiến hành cuộc “cách mạng xanh” lần thứ hai, với
mục tiêu tiếp tục nghiên cứu, tạo ra các giống cây trồng có năng suất cao, chất
lượng tốt, có khả năng chống chịu dịch bệnh; áp dụng đồng bộ các biện pháp
kỹ thuật tiên tiến, nhằm tạo ra năng suất và sản lượng lương thực cao hơn; mở
rộng việc cung cấp các yếu tố đầu vào và dịch vụ cho nông dân.
Từ năm 1991 Ấn Độ bắt đầu công cuộc cải cách toàn diện. Trong đó,
nông nghiệp là một lĩnh vực trọng tâm. Ấn Độ nhận thức sâu sắc rằng, chỉ có
cải cách nông nghiệp một cách toàn diện mới làm cho kinh tế tăng trưởng bền
vững thực sự. Với chủ trương này, hàng loạt những biện pháp đã được Ấn Độ
áp dụng trong quá trình cải cách.
Từ năm 1992, tất cả những kiểm soát về giá cả đối với các loại phân
bón dùng trongnông nghiệp được dỡ bỏ. Tháng 4-1995, kế hoạch bảo hiểm
toàn diện cho mùa màng đã được đưa ra; trong đó, phí bảo hiểm được phân
chia giữa các bang và trung ương, theo tỷ lệ 1/2.
Sau năm 1999, cải cách kinh tế bước vào giai đoạn II. Chủ trương về
phát triển nông nghiệp trong giai đoạn này được nêu rõ: Phát triển nhanh
nông nghiệp và các ngành công nghiệp dựa vào nông nghiệp. Tập trung vào
những nơi có nhiều thuận lợi như các vùng có nhiều mưa, có nhiều đất hoang,
tăng cường nguồn nước, nâng cao hệ thống tín dụng nông thôn. Tăng cường
quản lý sau thu hoạch và có chính sách giá cả hợp lý đối với các loại nông
sản. Tiếp theo việc xây các kho lạnh, Chính phủ đã hiện đại hoá các kho này
để nâng khả năng bảo quản thêm 80.000 tấn nữa. Riêng kho lạnh đối với các
loại hành có thể chứa được 450.000 tấn.(3) Kiểm soát giá phân bón, cân đối
việc sử dụng phân hoá học và hữu cơ. Tiếp tục cải cách các hợp tác xã. Thực
hiện bảo hiểm đối với mùa màng. Đảm bảo dự báo thời tiết chính xác cho sản
xuất nông nghiệp. Chính sách tài chính, tín dụng đối với nông thôn cũng đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Nhà nước tăng tín dụng cho nông thôn, đồng
thời với việc củng cố các cơ sở này (năm 1997, Nhà nước cấp khoảng 7 tỉ
USD, năm 1998: 8,4 tỉ USD). Đồng thời, quỹ phát triển kết cấu hạ tầng nông
thôn cũng được thành lập, với quy mô vốn ngày càng tăng lên. Các ngân hàng

nông nghiệp địa phương cũng được cải cách, cơ cấu lại. Chính phủ khuyến
khích thành lập các nhóm tự nguyện đầu tư vào nông nghiệp, nhờ vậy số lư-
ợng các nhóm này đã tăng lên nhanh chóng (năm 1998-1999 có 15.000 nhóm,
năm 1999-2000 đã có 50.000 nhóm).(4)
Tiếp theo đó, ngày 28 - 7 - 2000, Chính phủ Ấn Độ đã công bố chính
sách nông nghiệp mới, với mục tiêu tăng trưởng 4%/năm (lúc đó nông nghiệp
chỉ tăng 1,5%/năm).
Tiếp tục tiến trình cải cách nông nghiệp, tháng 2-2002, Chính phủ Ấn
Độ đưa ra “Luật về hàng hoá thiết yếu”, bỏ những hạn chế về vận chuyển
nông sản giữa các bang, để nông dân có thể bán được nông sản ở mức giá tốt
nhất, củng cố các hợp tác xã ở nông thôn, tăng cường vai trò các hợp tác xã
tín dụng, cung cấp đủ và kịp thời nguồn tín dụng, đáp ứng nguồn nước tưới.
Một khoản ngân sách 16 tỷ USD/năm để thực hiện các biện pháp giảm thiệt
hại sau thu hoạch cũng đã được đưa ra. Uỷ ban quốc gia về chăm sóc gia súc
đã được thành lập. Hệ thống các ngân hàng thương mại phục vụ nông nghiệp
cũng ngày càng tốt hơn: Đến cuối năm 2004, Ấn Độ có 67.283 chi nhánh các
ngân hàng thương mại, trong đó 32.178 chi nhánh ở khu vực nông thôn,
chiếm 47,8%. Đây là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho cải cách nông nghiệp
của Ấn Độ trong những năm qua. Tháng 5-2005, đã có thêm một kế hoạch
đầu tư khoảng 3 tỷ USD để phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, qua đó sẽ tạo
thêm nhiều việc làm. Lần đầu tiên một số vốn lớn như vậy được đầu tư vào
kết cấu hạ tầng nông thôn.
Cải cách nông nghiệp của Ấn Độ, về cơ bản, đã đi đúng hướng, đạt
được những thành tựu rất quan trọng:
- Sản lượng lương thực năm 2005-2006 đạt khoảng 210 triệu tấn (7);
diện tích trồng lương thực đã tăng lên 124,2 triệu ha; sản xuất mía đường
đứng thứ hai thế giới; trở thành nước sản xuất và tiêu dùng chè nhiều nhất
(chiếm 28% sản lượng và 13% về buôn bán trên thế giới); đứng thứ 6 về sản
xuất cà-phê, đóng góp 4% vào sản lượng của thế giới; năng suất cao su thuộc
loại cao nhất thế giới; đứng thứ 3 về sản xuất thuốc lá, thứ nhất về sản xuất

rau, thứ 2 về hoa quả.
- Ngành chăn nuôi khá phát triển. Ấn Độ là quốc gia sản xuất sữa hàng
đầu thế giới, với sản lượng 91 triệu tấn (năm 2005). Từ chỗ phải nhập khẩu
sữa và các loại sản phẩm chăn nuôi, Ấn Độ đã trở thành nước xuất khẩu: đứng
thứ 5 về sản xuất trứng, thứ sáu về sản xuất cá. Đầu tư nước ngoài vào ngành
sản xuất và chế biến sữa trong 6 năm qua đã lên tới 80 triệu USD (8). Nông
nghiệp của Ấn Độ đã đóng góp 22% vào GDP và gần 16% vào doanh thu
xuất khẩu. Những thành tựu về cải cách nông nghiệp trong thời gian qua đã
giúp cho Ấn Độ giải quyết được nhiều vấn đề về kinh tế và xã hội, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
* Nhật Bản:
Trước khi trở thành một trong vài nước công nghiệp hàng đầu thế giới,
Nhật Bản cũng là một nước nông nghiệp với tỉ lệ nông dân trong tổng dân số
tương đương với Việt Nam. Trước Minh Trị Duy Tân vào năm 1868, tới 80%
dân số Nhật Bản làm nghề nông và lúa là nông sản chính. Các phương pháp
thâm canh cần nhiều lao động được phát triển vì mỗi hộ gia đình chỉ có một
diên tích ruộng hạn chế.
Nông nghiệp Nhật Bản bắt đầu cùng với việc trồng lúa. Và trong số các
loại cây nông nghiệp được trồng ở Nhật Bản từ thời xa xưa còn có lúa mì, lúa
mạch, kê, đỗ tương, củ cải. Các nông cụ cổ nhất làm bằng gỗ hoặc đá. Khi kỹ

×