Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

các biện pháp đề xuất để phát triển dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.37 KB, 15 trang )

1
Contents
I. Cơ sở lý thuyết.
1. Khái niệm bao thanh toán:
Theo quyết định số 1096/2004/QĐ – NHNN(6/9/2004) của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có quy
định: “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã
được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng”.
Theo Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế ( FCI), bao thanh toán là một dịch vụ tài
chính trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi
công nợ và thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và người bán,
trong đó đơn vị bao thanh toán sẽ mua lại khoản phải thu của người bán, thường là không
truy đòi, đồng thời có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi trả của người mua. Nếu người
mua phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị bao thanh toán
sẽ thay người mua trả tiền cho người bán.
2. Lợi tích và hạn chế của Bao thanh toán:
2.1 .Đối với doanh nghiệp bán hàng:
- Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản
- Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách bán hàng trả chậm
- Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ
- Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay Ngân hàng,
không yêu cầu phải có tài sản bảo đảm.
- Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng
2.2 . Đối với doanh nghiệp mua hàng:
Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán sau:
- Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu động
- Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn
- Đơn giản hóa thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh toán về một đầu mối.
2.3. Đối với đơn vị bao thanh toán:
- Đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh, duy trì, mở rộng thị phần của ngân


hàng.
- Nâng cao uy tín của ngân hàng thương trường quốc tế.
- Thu được phí và lãi.
2
2.4. Hạn chế:
- Người mua phải chấp nhận một mức giá mua hàng hóa cao hơn so với các
phương thức khác.
- Người mua phải thanh toán cho đơn vị BTT khi hai bên không có quan hệ
hợp đồng rang buộc.
- BTT là hình thức tài trợ dựa trên hóa đơn và hợp đồng mua bán hàng hóa
nên dễ dẫn tới trường hợp giả mạo.
3. Những loại hình bao thanh toán và mức phí:
3.1 Đơn vị bao thanh toán được thực hiện các hình thức bao thanh toán sau:
- Bao thanh toán có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền
đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa
vụ thanh toán khoản phải thu.
- Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi
bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong
trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng
không đúng như thoả thuận tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không
liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng.
3.2. Đơn vị bao thanh toán được thực hiện bao thanh toán trong nước và bao
thanh toán xuất - nhập khẩu.
- Bao thanh toán trong nước: là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua, bán hàng,
trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về
quản lý ngoại hối
- Bao thanh toán xuất-nhập khẩu: là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất-
nhập khẩu.
3.3 . Phí dịch vụ Bao Thanh Toán:

Theo thông lệ quốc tế: 0.5 – 1.1 % giá trị khoản phải thu
Tại mội số Ngân hàng trong nước :0.5-0.8 % giá trị khoản phải thu
Lãi suất: căn cứ theo lãi suất cho vay ngắn hạn của Ngân hàng tại thời điểm Bao Thanh
Toán. Lãi được tính trên mức ứng trước cho bên bán và số ngày thực tế kể từ ngày ứng
tiền trước đến ngày thanh toán các khoản phải thu.
4. Phương thức bao thanh toán
- Bao thanh toán từng lần: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện các thủ tục
cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu của bên bán hàng.
- Bao thanh toán theo hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận và xác
định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
3
- Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt động bao
thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu
mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán.
5. Quy trình hoạt động bao thanh toán:
• Hoạt động bao thanh toán được thực hiện theo các bước chính như sau:
(1)
(6)
(7)
(2) (4) (5) (8) (9) (12) (3) (10) (11)
(1) HĐ mua bán hàng hóa: Bên bán và bên mua ký hợp đồng mua bán hàng hóa.
(2) Yêu cầu bao thanh toán: Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện
bao thanh toán các khoản phải thu.
(3) Thẩm định: Đơn vị bao thanh toán tiến hành thẩm định (phân tích các khoản phải
thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính) và cấp hạn mức BTT cho bên mua
(nếu bên mua hàng chưa nằm trong danh sách khách hàng đã được đơn vị BTT
cấp hạn mức).
(4) Thẩm định: Đơn vị tiến hành thẩm định, trả lời và cấp hạn mức BTT cho bên bán.
(5) Ký hết HĐ Bao thanh toán: Đơn vị BTT và bên bán tiến hành ký kết hợp đồng
BTT

(6) Thông báo BTT: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản
thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan,
trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh
toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
(7) Giao hàng hóa: Bên bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua.
(8) Chuyển nhượng HĐ: Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán
hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu
cho đơn vị bao thanh toán;
(9) Ứng trước: Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo
thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(10)Thu nợ khi đến hạn: Đơn vị bao thanh toán theo dõi, thu nợ từ bên mua hàng
(11) Thanh toán: Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định
trong hợp đồng bao thanh toán
Bên bán
Bên mua
Đơn vị bao thanh toán
4
(12)TT ứng trước: Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong
hợp đồng bao thanh toán.
• Đối với hoạt động bao thanh toán xuất-nhập khẩu:
Qui trình nghiệp vụ bao thanh toán có thể được thực hiện theo các bước như trên hoặc
được thực hiện thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập
khẩu chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính
của bên mua hàng là bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất-nhập khẩu; thực hiện việc thu
nợ theo uỷ quyền của đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và cam kết sẽ thanh toán thay cho
bên nhập khẩu trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản
phải thu.
Trường hợp hoạt động bao thanh toán thực hiện qua đơn vị bao thanh toán nhập
khẩu, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán nhập khẩu phải thoả
thuận và ký kết một hợp đồng riêng phù hợp với quy định của pháp luật, trong đó quy

định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên.
6. So sánh giữa bao thanh toán và chiết khấu giấy tờ có giá:
Giống nhau:
- Là hình thức cấp tín dụng, bằng cách mua lại các chứng từ có giá.
- Có ba bên tham gia. Bên mua lại chứng từ, bên bán chứng từ, bên có trách nhiệm
thanh toán chứng từ.
- Không cần phải có tài sản đảm bảo.
- Số tiền mua lại thấp hơn mệnh giá của chứng từ.
- Là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp cho bên có trách nhiệm thanh toán chứng
từ.
Khác nhau:
Bao thanh toán Chiết khấu giấy tờ có giá
• Đối tượng của bao thanh toán là
các khoản phải thu trong thương
mại.
• Chỉ có thể mua lại các khoản phải
thu dưới 180 ngày.
• Ngoài cấp tín dụng, còn có các
dịch vụ kèm theo, như là quản lý
và thu hồi nợ.
• Được ký kết trước khi tiến hành
giao hàng.
• Khi ký kết hợp đồng, bên bán đã
có dự định sẳn là thực hiện bao
• Đối tượng là các khoản phải thu
trong thương mại, và các giấy tờ
khác trong thị trường vốn ( tín
phiếu, trái phiếu ).
• Có thể tiến hành đối với nhiều kỳ
hạn ( có thể chiết khấu chứng từ

còn thời hạn trên một năm hoặc
thấp hơn)
• Hầu như không có dịch vụ kèm
theo.
• Được thực hiện sau khi giao
hàng.
• Thường không có dự đinh trước,
hoặc có nhưng cũng chỉ đối với
5
thanh toán. thương phiếu, còn lại thường nắm
giữ các giấy tờ như một hình thức
đầu tư,hoặc cất giữ.
7. Rủi ro trong bao thanh toán:
Cũng như các hình thức cấp tín dụng khác, bao thanh toán cũng gặp phải những rủi ro
như: rủi ro tín dụng, rủi ro gian lận, rủi ro thu nợ, rủi ro thanh khoản và rủi ro ngoại hối.
7.1 Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng tronng bao thanh toán là rủi ro khách hàng, bao gồm cả người bán
và người mua mất khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Khi người bán chuyển nhượng khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán, mọi quyền và
lợi ích liên quan đến khoản phải thu đó sẽ được chuyển giao từ người bán sang đơn vụ
bao thanh toán. Đơn vị bao thanh toán sẽ có quyền được hưởng lợi từ việc người mua
thanh toán khoản phải thu Đi kèm với các quyền và lợi ích nêu trên, đơn vị bao thanh
toán đồng thời được chuyển giao mọi rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) liên quan đến
khoản phải thu đó. Khi người mua phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, đơn vị bao
thanh toán sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm của mình: thanh toán cho người bán 100%
giá trị của khoản phải thu được chuyển nhượng. Một điều đáng chú ý ở đây là ở Việt
Nam hiện nay chưa luật điều chỉnh việc chuyển nhượng các khoản phải phu trong thương
mại. Chính vì quyền đòi nợ không được quy định chặt chẽ là một rủi ro cho đơn vị bao
thanh toán trong việc thu nợ từ người mua.
Mặt khác, đơn vị bao thanh toán còn ứng trước cho người bán trước khi được nhận

thanh toán từ người mua và người bán sẽ phải trả lãi tính trên số tiền được ứng trước.
Việc ứng trước này cũng có thể được so sánh với một khoản tín dụng ngắn hạn với tài sản
đảm bảo là khoản phải thu từ người mua. Ngay cả trong trường hợp bao thanh toán miễn
truy đòi, đơn vị bao thanh toán vẫn có quyền truy đòi người bán số tiền ứng trước này
nếu xảy ra tranh chấp giữa người bán và người mua. Khi đó, người mua không phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến khi tranh chấp được giải quyết và người bán phải hoàn
trả cho đơn vị bao thanh toán số tiền đã được ứng trước cho khoản phải thu có tranh chấp.
Tuy nhiên, nếu người bán gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán, đơn
vị bao thanh toán sẽ tổn thất do không có bất kỳ một tài sản đảm bảo nào khác cho khoản
ứng trước đó.
7.2 . Rủi ro gian lận:
Rủi ro gian lận là rủi ro hóa đơn được bao thanh toán (có ứng trước) không tương
ứng với một giao dịch thương mại thực tế nào. Vì vậy, hóa đơn đó không có giá trị pháp
lý và đơn vị bao thanh toán không thể thu nợ từ người mua.
6
Như đã nói ở trên, đơn vị bao thanh toán ứng trước cho người bán trước khi được nhận
thanh toán từ người mua. Người bán sau khi giao hàng sẽ ký phát hóa đơn đòi tiền người
mua và gửi cho đơn vị bao thanh toán một bảo sao hóa đơn. Phần lớn các gian lận đều
xuất phát từ đây. Người bán có thể ký phát hóa đơn trước khi giao hàng thực tế hoặc thậm
chí ký phát những hóa đơn hoàn toàn không có thật để nhận được tiền ứng trước của đơn
vị bao thanh toán.
7.3 Rủi ro thu nợ:
Rủi ro thu nợ là rủi ro đơn vị thanh toán không thể thu được nợ đúng hạn và hiệu
quả.
Khác với các nghiệp vụ tín dụng truyề thống khác, rủi ro trong việc thu hồi nợ phụ thuộc
rất nhiều vào uy tín và năng lực tài chính của người mua hàng chưng không phải người
bán. Bên mua hàng là người chịu trách nhiệm trả nợ chính cho đơn vị bao thanh toán
nhưng vì học không phải là người trực tiếp yêu cầu khoản tín dụng từ đơn vị bao thanh
toán và do đó họ không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến khả
năng tài chính và tình hình hoạt động của mình cho đơn vị bao thanh toán. Chính vì vậy,

khó khăn lớn nhất của các đơn vị bao thanh toán trong khi thực hiện nghiệp vụ này là
không chắc chắn thu hồi được nợ.
Ngoài ra, đơn vị bao thanh toán có thể gặp rủi ro nếu học cung cấp dịch vụ bao thanh
toán cho hàng được bán theo phương thức ký gửi, hoặc hàng hóa cần được lắp đăt, hoặc
hàng hóa có điều khoản bảo hành cho phép người mu không có quyền yêu cầu người bán
muc lại hoặc giảm giá nếu hàng hóa không đáp ứng được những yêu cầu nhất định.
7.4. Rủi ro thanh khoản
ĐVBTT có thể gặp khó khăn về tính thanh khoản khi luồng tiền ra và luồng tiền vào của
đơn vị không tương xứng, cả về lượng và thời gian. Khi đó ĐVBTT sẽ không thể ứng
trước cho người bán cho đến khi thu được nợ.
7.5. Rủi ro ngoại hối
Đối với nghiệp vụ bao thanh toán xuất – nhập khẩu, khi ứng trước cho người bán hoặc
khi thu nợ từ người mua bằng ngoại tệ, lợi nhuận của đơn vị bao thanh toán có thể bị ảnh
hưởng khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
II. Thực trạng của dịch vụ bao thanh toán của Việt Nam
hiện nay.
1. Thực trang Dịch vụ bao thanh toán.
Dịch vụ bao thanh toán đã được sử dụng từ lâu tại nhiều nước phát triển trên thế
giới. Hiện nay thế giới có một hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI ) có 204 thành viên ở
7
các nước trên thế giới (chiếm hơn 50% doanh thu bao thanh toán quốc tế trên thế giới).
Bao thanh toán là phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán
truyền thống (mở L/C, nhờ thu).
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990,
nhưng chưa có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh
toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã ký Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh
toán của các tổ chức tín dụng (sau này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp
lý này bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển
dịch vụ bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao thanh toán mới chính thức được

triển khai tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch
vụ này vào 01/2005. Tiếp đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ
này, như Far East National Bank (02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005),
Mizuho Corporate Bank Ltd (09/2009), Ngân hàng Calyon - Chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh (10/2009), Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên ANZ tại Việt Nam
(04/2011), Ngân hàng Shinhan Việt Nam (12/2010), Standard Chartered Việt Nam
(07/2011)…
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ
bao thanh toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB),
Ngoại thương (VCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất
nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB), Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát
triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải
(MSB), Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank), Ngân hàng TMCP Liên Việt
(LienVietBank), Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank), … . Đặt biệt vào ngày
11/5/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có công văn chấp thuận cho Công
ty tài chính cổ phần Điện Lực được thực hiện hoạt động bao thanh toán trong nước và
bao thanh toán xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam hiện có 7 ngân hàng là thành viên của
Factors Chain International.
Theo số liệu thống kê của FCI, doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2009
là 95 triệu Euro. Tuy rằng con số này còn rất nhỏ so với nhiều nước trong khu vực, nhưng
nó cũng thể hiện bước chuyển biến tích cực của thị trường bao thanh toán ở Việt Nam. Từ
năm 2004 trở về trước, doanh số bao thanh toán của Việt Nam chỉ là con số 0, nhưng đến
năm 2009 thì doanh thu này lên đến 95 triện Euro.
Biểu đồ 1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt Nam (Đơn vị: Triệu Euro)
8
Nguồn FCI:( www.factors-chain.com)
Ta thấy doanh số bao thanh toán ở Việt Nam qua các năm có biến động rất mạnh.
Doanh thu bao thanh toán xuất nhập khẩu tuy có tăng nhưng vẫn cón khá khiêm tốn so

với bao thanh toán nội địa. Sở dĩ như vậy là do các ngân hàng Việt Nam còn dè dặt trong
bước đầu triển khai nên chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi.
Tuy nhiên nghiệp vụ bao thanh toán trên lĩnh vực xuất nhập khẩu đang được các ngân
hàng trong nước rất chú trọng. (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Doanh thu bao thanh toán nội địa và quốc tế
(Đơn vị: Triệu Euro)
(Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Năm 2008, doanh thu bao thanh toán nội địa (80 triệu Euro) gấp 16 lần doanh thu
bao thanh toán quốc tế (5 triệu Euro).Đến năm 2009, doanh thu bao thanh toán quốc tế
vẫn giữ con số khiêm tốn của năm 2008 là 5 triệu Euro, trong khi đó doanh thu bao thanh
toán nội địa lại tăng thêm 10 triệu Euro, tăng 12,5% so với 2008. Điều này cho thấy, các
ngân hàng Việt Nam đã bỏ ngõ lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong khi ở các nước phát triển,
chênh lệch giữ doanh thu bao thanh toán nội địa và quốc tế chỉ từ 500% đến 700% mà
thôi.
2. Một số hạn chế của dịch bao thanh toán tại Việt Nam
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng
tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết
những ưu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ
phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực
hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cụ thể:
 Khung pháp lý:
Ngày 16 tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà nược ra Quyết định số 30/2008/QĐ-
NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các Tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày
06/9/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, về cơ bản đã khắc phục được những bất
cập trong hoạt động bao thanh toán trước đây. Nhưng bên cạnh đó, thì vẫn còn nhiều hạn
chế:
Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết
mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được

đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương
mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được
đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt
9
Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay
tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không
tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói
tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do
luật pháp của ta chưa nghiêm.
Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối
cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh
nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là
phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự
còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập…
Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng
trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.
 Khái niệm bao thanh toán còn khá mới
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ
ngày 01/10/2004, nên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán còn hạn
chế. Các doanh nghiệp lớn có một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán do được các
ngân hàng tiếp thị hoặc thông qua các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế
còn đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mơ hồ khi nghe nhắc đến
nghiệp vụ bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa
chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình.
 Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người
mua. Vì vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 – 5%
doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản
lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại
cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.

Ví dụ: Phí bao thanh toán của Ngân hàng Á Châu (chưa kể các khoản phí khác)
Đối với bao thanh toán trong nước:
−Lãi được tính trên số tiền mà ngân hàng Á Châu ứng trước cho bên bán hàng. Lãi mà bên
bán hàng phải trả được tính theo công thức:
Lãi = [số tiền ứng trước x lãi suất (tháng) x số ngày bao thanh toán]/30
Số ngày bao thanh toán: được tính từ ngày ngân hàng Á Châu ứng trước tiền đến
ngày bên mua hàng và/hoặc bên bán hàng thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng Á
Châu.
10
 Trường hợp bên mua hàng không thanh toán khoản phải thu đúng hạn theo hợp đồng mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì ngân hàng Á Châu sẽ tính lãi quá hạn cho khách
hàng. Lãi quá hạn được tính theo công thức:
Tiền lãi quá hạn = [số tiền ứng trước x lãi suất (tháng) x 150% x số ngày bao
thanh toán]/30
−Phí được tính trên trị giá khoản phải thu hoặc tính trên hạn mức bao thanh toán được cấp.
Với mức phí tối thiểu 200 000 đồng hoặc 0,2% giá trị các khoản phải thu.
Đối với bao thanh toán xuất khẩu:
−Lãi được tính trên số tiền ứng trước từ ngày nhà xuất khẩu được giải ngân đến ngày nhà
nhập khẩu thanh toán. Lãi được tính tương tự như trong trường hợp bao thanh toán trong
nước.
−Phí bao thanh toán xuất khẩu gồm: phí bao thanh toán xuất khẩu của ngân hàng Á Châu
và phí bao thanh toán nhập khẩu của IF (Import Factor), với:
+ Phí ACB: 0.1% – 0.15%
+ Phí IF: 0.5% - 0.7%
Thu lãi và phí:
−Phí bao thanh toán được thu một lần ngay khi ngân hàng Á Châu ứng tiền trước cho bên
bán hàng.
−Lãi bao thanh toán được thu khi bên mua hàng và/hoặc bên bán hàng thanh toán khoản
phải thu.
Ngân hàng Á Châu không hoàn lại lãi và phí cho bên bán hàng vì bất kỳ lý do gì.

Ngoài ra, còn phát sinh nhiều chi phí khác như:
- Kiểm đếm tiền: đồng Việt Nam: 0,3% (tối thiểu 10 000 đồng, tối đa 1 000 000 đồng) và
ngoại tệ (xác định thật giả) 0,2USD/tờ.
- Thanh toán trước/ ứng trước hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ 0,20% - 20%; tối
thiểu 5USD , thanh toán khác 0,20% - 20%; tối thiểu 5USD
 Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên
tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn
là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài
sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng
nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam
đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn
mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính
của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài
chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản
đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi
bản chất của dịch vụ này.
11
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các
doanh nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống
thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện
rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên
mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế
tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch
vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao
thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu)
sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu
điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận
tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và

để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này
cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm
cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách
hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng.
Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao
thanh toán.
 Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế
Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho
sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ
chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều
tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo
GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao
thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận
này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực.
Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy,
để nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính
việc không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
 Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế
12
Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở
hai quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần
phải có sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị
bao thanh toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế
tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới.
Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại
nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nước ngoài
còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát

triển ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh
toán chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen
thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch
vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng,
phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.
 Một số lý do khác:
Nhiều DN cho rằng, hiện ở Việt Nam dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng
vẫn chưa thật tiện lợi. Bởi ngân hàng thường đòi hỏi cao đối với khách hàng, ngoài phí
dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với ngân hàng về uy tín của bên mua hàng hóa.
Đây là khó khăn lớn cho nhà sản xuất, bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu của doanh
nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Các ngân hàng cũng chưa mặn mà với việc cung cấp dịch vụ này vì chúng ta có
quá ít thông tin về tình hình tài chính của người mua, nhất là khách hàng nhập khẩu. Các
thông tin nếu công bố công khai cũng không thật sự rõ ràng, minh bạch. Do đó mà khả
năng rủi ro cao, các ngân hàng sẽ ngần ngại khi thực hiện dịch vụ này hoặc nếu có thì
mức phí cũng không hấp dẫn khách hàng.
Các ngân hàng khi thực hiện bao thanh toán đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro ở
mức độ nào đó. Nhưng ở nước ta, rủi ro mất vốn đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý của
ngân hàng và cá nhân người quyết định, do đó, các ngân hàng, đặc bịêt là các ngân hàng
thương mại nhà nước không thích sử dụng dịch vụ này.
Do bản thân người cung cấp chưa mặn mà với dịch vụ này nên họ không chú trọng
công tác marketing, tuyên truyền quảng bá tới khách hàng. Các khách hàng vì vậy cũng ít
biết đến loại hình dịch vụ này.
13
III. Các biện pháp đề xuất để phát triển dịch vụ bao thanh
toán của các ngân hàng.
1. Giải pháp : hạn chế rủi ro từ người mua.
• Vấn đề mà khi các tổ chức tín dụng tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán đó là lợi
nhuận từ nghiệp vụ này sẽ mang lại cho ngân hàng là bao nhiêu và rủi ro đối với hình thức
này như thế nào, xét cho đúng bản chất, bao thanh toán cũng là một hình thức cấp tín

dụng. Vì vậy nó sẽ có những rủi ro như các hình thức cấp tín dụng. Rủi ro ở đây là xuất
phát từ phía người mua hàng và cả với người bán hàng. Đối với người bán là người trực
tiếp đến giao dịch với ngân hàng, thì doanh nghiệp rất dễ thẩm định, nhưng còn đối với
người mua, thì ngân hàng rất khó có thể nắm bắt thông tin và kiểm tra đối với người mua.
Do đó rủi ro tín dụng thường cao, dẫn đến hiện nay hình thức bao thanh toán ở Việt Nam
mình vẫn là bao thanh toán có truy đòi là chủ yếu và thường có ký quỹ.
• Để hạn chế rủi ro cho mình, các ngân hàng hiện nay đã tập hợp thông tin tín dụng của
khách hàng và đưa ra một danh sách mà theo đó, nếu bên mua là các bên có tên trong
danh sách thì ngân hàng sẽ đồng ý thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Cách giải quyết
này có thể hạn chế rủi ro trong việc cấp tín dụng xuất phát từ người mua hàng, nhưng nó
cũng làm giảm đi quy mô của việc thực hiện thanh toán của các ngân hàng, vì danh sách
của các ngân hàng đưa sẽ không bao trùm hết các người mua có uy tín.
• Giải pháp đề ra là : ở đây nếu chỉ có một ngân hàng thực hiện thì số lượng danh sách
trong nhóm sẽ rất ít, việc thực hiện đánh giá và lên danh sách này phải do một cơ quan
chức năng của nhà nước thực hiện, có khả năng tiếp cận được các thông tin tín dụng trên
CIC của hệ thống ngân hàng, sau đó sẽ đánh giá và đưa ra các xếp loại tín nhiệm đối với
các khách hàng, nó sẽ được xuất bản hàng năm để các ngân hàng có thể tham khảo thông
tin qua đó thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng. trong bản danh sách này không chỉ để sử
dụng đối với nghiệp vụ bao thanh toán mà có thể sử dụng cho nhiều hình thức cấp tín
dụng khác như chiết khấu, cho vay…, đây cũng có thể như là một tiêu chuẩn xếp hạng tín
nhiệm riêng của Việt Nam.
• Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp Việt Nam vô cùng lớn, việc phải đánh giá tất cả các
doanh nghiệp sẽ tốn rất nhiều chi phí cũng như là một vấn đề không khả thi ,nên việc
đánh giá sẽ chỉ đánh giá đối với những doanh nghiệp có quy mô nhất định, đã có thời
gian hoạt động tương đối và có báo cáo tài chính hằng năm được kiểm toán. ( đối với các
doanh nghiệp nhỏ hơn, thì khó mà đủ uy tín để tiến hành có thể tham gia vào nên không
cần tiến hành đánh giá ).
2. Giải pháp : phát triển thị trường.
• Muốn có sự phát triển của thị trường thì phải có nhu cầu thật sự về sản phẩm bao thanh
toán. Nếu xem xét những lợi ích mang lại của bao thanh toán, thì thật sự hầu hết các

doanh nghiệp kinh doanh đều muốn được tham gia vào dịch vụ này phát triển. Nhưng
14
thực tế cho thấy, doanh thu từ nghiệp vụ bao thanh toán hiện nay vẫn còn rất là nhỏ so
với các dịch vụ khác của ngân hàng.
• Lý do cho vấn đề trên là tuy dịch vụ bao thanh toán đã xuất hiện từ năm 2004 đến nay,
nhưng mà số lượng doanh nghiệp có khái niệm này còn khá mới, nên chưa tiếp cận nhiều,
thứ 2 là rủi ro xuất phát từ phía người mua hàng còn lớn nên ngân hàng cũng không mặn
mà với dịch vụ này là bao nhiêu. Về việc chính sách tiếp cận của ngân hàng đối với
doanh nghiệp để hướng dẫn các doanh nghiệp bán hàng tiến hành nghiệp vụ bao thanh
toán còn khá hạn chế, cho dù có làm thì cũng khó khăn, tại vì số lượng doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong nên kinh tế thị trường rất là lớn.
• Giải pháp đề ra : với việc vận dụng được cơ chế xếp hạn tín nhiệm như trên, khi đó thì
các ngân hàng có thể biết được những người mua hàng nào có năng lực tốt, khi đó sẽ tiến
hành tư vấn hướng dẫn cho các doanh nghiệp này về nghiệp vụ bao thanh toán, sẽ làm
cho các người mua hàng hiểu được lợi ích của dịch vụ này có lợi như thế nào đối với họ.
Khi họ thấy được điều này, họ sẽ tiến hành yêu cầu các doanh nghiệp bán hàng cung cấp
hàng là bán chịu, cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp này đến thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán tại ngân hàng mình. Như vậy thì dịch vụ bao thanh toan sẽ nhanh chóng phát
triển hơn vì sẽ không còn bị giới hạn bên các doanh nghiệp bán hàng nữa. Thị trường sẽ
phát triển bền vững hơn cũng như an toàn hơn đối với các ngân hàng.
• Với các tiếp cận như trên, Ngân hàng sẽ dễ dàng hơn nhiều, tại một người mua có uy tín,
sẽ có nhiều người bán đến bán hàng, và như vậy ngân hàng sẽ tiếp cận được nhiều khách
hàng hơn với một cách nhanh hơn.
3. Giải pháp : phát triển dòng sản phẩm.
• Nếu nhìn vào các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta, thì chủ yếu vừa và nhỏ, cũng như các
kiến thức về tài chính chắc hẳn sẽ còn hạn chế. Dó đó nếu như bán chịu bình thường, thì
sau này thu nợ họ sẽ không có vướng mắc gì nhiều, nhưng giờ bán chịu và sẳn sàng mang
đến ngân hàng tiến hành nghiệp vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp sẽ đặt câu hỏi là
bán chịu với giá bao nhiêu, để khi mang đến ngân hàng bao thanh toán thì là hợp lý, nếu
không có sự tính toán hợp lý ,không chừng sẽ bị thiệt ( nhận được thấp hơn giá trị đáng ra

phải nhận ).
• Vậy giải pháp là : ngân hàng nên cung cấp cho các doanh nghiệp bán hàng một hệ thống
thông dụng có thể tính toán được mức giá hợp lý dựa trên các chi phí và lãi suất khi bao
thanh toán.
• Hệ thống này sẽ hoạt động như sau : khi doanh nghiệp xác định được giá bán mà mình
muốn nhận được ( giá này có thể khác giá bán trả tiền liền ), thì chỉ cần nhập vào hệ
thống máy tính, máy tính sẽ tính toán mức giá bán chịu là bao nhiêu là hợp lý để khi đên
ngân hàng thực hiện bao thanh toán sẽ nhận được số tiền như yêu cầu.
• Hệ thống này, người bán chỉ cần nhập số tiền mong muốn, và không cần phải làm gì
thêm, do đó các số liệu khác sẽ phải được ngân hàng cập nhật tự động. Hệ thống này
15
hoàn toàn có thể thực hiện bằng cách nhắn tin hoặc là lên web site của ngân hàng để
thực hiện.
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
1. Trang wed hiệp hội bao thanh toán quốc tế
/>2. Giáo Trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại.trang
148, Nguyễn Đăng Dờn, Nhà xuất Bản thống kê.
3. Giải pháp phát triển dịch vụ bao thanh toán của các
ngân hàng thương mai trên địa bàn thành phố đà
nẵng, Hứa Thị Thúy Diểm Lớp 30K7.3, Đại Học
Kinh Tế Đà Nẵng.

×