Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đánh giá về sự tham gia của cộng đồng trong chương trình 135 thông qua tiêu chí công bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.29 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế xã hội ở nước ta có nhiều bước phát
triển, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được nâng lên, diện
mạo nông thôn mới, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa có nhiều đổi thay. Góp
phần vào sự đổi thay đó chính là việc đầu tư có hiệu quả đầu tư từ chương trình
135…là chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân
tộc thiểu số và miền núi. Chương trình với mục đích nâng cao mức sống của tầng
lớp dân cư nghèo lên để làm giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, làm giảm bất
công bằng. Để đánh giá về chương trình, một vấn đề không thể bỏ qua đó là sự
tham gia của cộng đồng. Rõ ràng một chương trình muốn thành công, muốn đạt
được mục tiêu về kinh tế xã hội như 135 thì sự tham gia của cộng đồng là rất
quan trọng. Đánh giá vấn đề này cũng có rất nhiều tiêu chí phải xét. Một trong số
đó là tiêu chí công bằng – cũng là tiêu chí mà nhóm em muốn tìm hiểu và đánh
giá về chương trình này. Với mong muốn tìm hiểu xem một chương trình với
mục tiêu xã hội là giảm bớt sự bất công bằng trong mức sống của người dân thì
tiêu chí công bằng về sự tham gia của cộng đồng đã được đảm bảo chưa, nhóm
em đã cùng nhau nghiên cứu về đề tài “ Đánh giá về sự tham gia của cộng đồng
trong chương trình 135 thông qua tiêu chí công bằng”. Trình bày về đề tài này
chúng em chia thành 3 phần chính:
Phần 1: Giới thiệu về chương trình 135
Phần 2: Đánh giá chương trình 135 theo tiêu chí công bằng
Phần 3: Giải pháp, kiến nghị để đảm bảo tính công bằng
Mặc dù rất cố gắng nhưng bài làm của chúng em không tránh khỏi những
sai sót, mong thầy cô và các bạn góp ý để bài làm của chúng em ngày càng hoàn
thiện hơn
1
NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH 135
1. Sự ra đời của chương trình 135
Đây là chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
dân tộc thiểu số và miền núi là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở


Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện, chương trình này có số hiệu văn
bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và
chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai
đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam
quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai
đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010).
2. Phạm vi và đối tượng chương trình
2.1 Phạm vi Chương trình:
Chương trình 135 được thực hiện ở tất cả các tỉnh miền núi, vùng cao; vùng
đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Nam Bộ.
2.2 Đối tượng của Chương trình:
- Các xã đặc biệt khó khăn.
- Các xã biên giới, an toàn khu.
- Thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp (gọi tắt là thôn,bản) đặc biệt khó khăn ở
các xã khu vực II.
Từ năm 2006, xét đưa vào diện đầu tư Chương trình đối với các xã chưa
hoàn thành mục tiêu Chương trình 135; xét bổ sung đối với các xã đặc biệt
khó khăn và thôn, bản đặc biệt khó khăn Ở các xã khu vực II theo quy định
tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển
và đưa vào diện đầu tư từ năm 2007.
2
2.3 Phương pháp xác định các xã thuộc khu vực khó khăn
2.3.1 Các tiêu chí đánh giá các xã thuộc diện đối tượng chương trình
- Dựa theo điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú, có thể phân thành
+ Vùng cao, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới
+ Vùng ảnh hưởng của các trung tâm phát triển: thị xã, thị trấn, thị tứ
+Vùng kinh tế hàng hoá phát triển, ven các quốc lộ, tỉnh lộ, đường ô tô liên
huyện, liên xã, …hoặc ở các vùng đệm giữa các trung tâm phát triển và vùng sâu
vùng xa.

- Dựa theo cơ sở hạ tầng hiện có
Đường giao thông, điện và các nguồn năng lượng khác, thuỷ lợi phục vụ sản
xuất và cấp nước sinh hoạt dân cư. Trong đó đặc biệt quan tâm là:
+ Đường giao thông gồm có: đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên huyện,
liên xã); đường sắt và ga đường sắt tại khu vực; sân bay; đường thuỷ.
+ Điện lưới quốc gia, thuỷ điện nhỏ, các nguồn năng lượng khác: Năng lực
tưới tiêu cho diện tích lúa, công nghiệp… kết hợp thuỷ lợi với giả quyết vấn đề
nước sạch: các công trình nước sạch, giếng khoan, bể chứa…
+ Các điều kiện hạ tầng được xem xét, đánh giá trên cơ sở quy mô, cấp hạng
kỹ thuật, năng lực của các công trình so với đò hỏi của yêu cầu sản xuất và đời
sống của đồng bào trong khu vực.
- Các yếu tố xã hội
Trình độ dân trí, các vấn đề y tế, văn hoá, xã hội. Quy mô và chất lượng các
cơ sở trường học, chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, văn hoá…
- Điều kiện sản xuất
+ Diện tích đất cho sản xuất nông lâm nghiệp tính bình quân cho hộ gia đình
hoặc cho đầu người
+ Công cụ phục vụ sản xuất, trình độ sản xuất, cơ cấu ngành nghề; kết quả
sản xuất và hoạt động kinh doanh trao đổi hàng hoá.
3
+ Trình độ thâm canh cây trồng vật nuôi. mức độ áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất
+ Cơ cấu sản xuất: nông-lâm-ngư nghiệp, công nghiệp, và dịch vụ
+ Trình độ sản xuất hàng hoá, hình thành vùng hàng hoá với những sản
phẩm hàng hoá chủ yếu, hình thành thị trường hàng hoá, trung tâm thương mại,
chợ khu vực, khả năng giao lưu hàng hoá
- Về đời sống
Phân loại hộ đói nghèo "Chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt
Nam" đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tại báo cáo
13266/LĐ-TBXH ngày 29/8/1995:

+ Đơn vị để xác định chuẩn đói nghèo là: thu nhập của hộ quy đổi ra gạo
bình quân đầu người/tháng
+ Hộ nghèo: là hộ có bình quân đầu người hàng tháng quy đổi ra gạo:
Dưới 25 kg gạo ở thành thị.
Dưới 20 kg gạo ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du.
Dưới 15 kg gạo ở nông thôn miền núi.
+ Hộ đói: là hộ có thu nhập quy đổi bình quân đầu người/tháng dưới 13 kg gạo
2.3.2 Phương pháp phân định
- Đơn vị để xác định khu vực là xã, xã nào có 4/5 tiêu chí nói trên thì xếp
vào khu vực khó khăn, từng xã căn cứ vào các tiêu chí nêu trên để tự bình
chọn và đề nghị lên các cấp xét duyệt. Các cấp huyện, tỉnh, trung ương thành lập
hội đồng xét duyệt và thực hiện xét duyệt từ huyện lên trung ương.
- Hội đồng xét duyệt ở trung ương gồm:
Một đại diện lãnh đạo của UBDT miền núi và trung ương làm chủ tịch
Đại diện của các Bộ: Kế hoạch và đầu tư, Lao động – Thương binh và Xã
hội, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban tổ chức trung ương, Tổng cục địa
chính là thành viên Hội đồng
4
- Hội đồng xét duyệt cấp tỉnh, cấp huyện do chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc
UBND cấp huyện ra quyết định thành lập gồm:
Một phó chủ tịch làm chủ tịch hội đồng cùng cấp
Các thành viên tương tự như các thành viên hội đồng xét duyệt của các cơ
quan trung ương tham gia
3. Mục tiêu
3.1 Mục tiêu tổng quát
- GĐ1
+ Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số;
+ Phát triển cơ sở hạ tầng;
+ Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường
học, trạm y tế, nước sạch

+ Nâng cao đời sống văn hoá.
- GĐ2
+ Tạo sự chuyển biến nhanh về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó
khăn một cách bền vững, giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa
các vùng trong cả nước.
+ Phấn đấu đến năm 2010, trên địa bàn cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ
nghèo xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2 (2006-2010)
- Về phát triển sản xuất: nâng cao kỹ năng và xây dựng tập quán sản xuất
mới cho đồng bào các dân tộc, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững.
5
- Phấn đấu trên 70% số hộ đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên
3,5 triệu đồng/năm vào năm 2010.
- Về phát triển cơ sở hạ tầng: các xã có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu phù hơp
quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất bảo đảm phục vụ có hiệu quả nâng cao
đời sống và phát triển sản xuất tăng thu nhập.
- Các chỉ tiêu cụ thể: phấn đấu trên 80% xã có đường giao thông cho xe cơ
giới (từ xe máy trở lên) từ trưng tâm xã đến tất cả thôn, bản; trên 80% xã có công
trình thủy lợi nhỏ bảo đảm năng lực phục vụ sản xuất cho trên 85% diện tích đất
trồng lúa nước; 100% xã có đủ trường, lớp học kiên cố, có lớp bán trú ở nơi cần
thiết; 80% số thôn, bản có điện ở cụm dân cư; giải quyết và đáp ứng yêu cầu cơ
bản về nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% xã có trạm y tế kiên cố đúng tiêu chuẩn.
- Về nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho nhân dân ở các xã đặc biệt khó
khăn. Phấn đấu trên 80% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hơp vệ sinh, trên
80% số hộ được sử dựng điện sinh hoạt; kiểm soát, ngăn chặn các bệnh dịch

nguy hiểm; tăng tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh lên trên 50%; trên 95% số học sinh
tiểu học, 75% học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường; trên 95% người
dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ pháp luật miễn phí.
- Về phát triển nâng cao năng lực: trang bị, bổ sung những kiến thức về chuyên
môn nghiệp vụ, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao nhận thức pháp luật, nâng cao kiến
thức quản lý đầu tư và kỹ năng quản lý điều hành để hoàn thành nhiệm vụ cho cán
bộ, công chức cấp xã và trưởng thôn, bản. Nâng cao năng lực của cộng đồng, tạo
điều kiện cộng đồng tham gia có hiệu quả vào việc giám sát hoạt động về đầu tư và
các hoạt động khác trên địa bàn.
6
4. Nội dung chính chương trình
- Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ
sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát
triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có
năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị.
- Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn
vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy
lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp
và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở
chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây
dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt
cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết.
- Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã
hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm
việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động.
- Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ
sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ
y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng động.

5. Nguồn vốn
- Ngân sách Trung ương hỗ trợ cho các địa phương để thực hiện mục tiêu
quy định tại khoản 2 Điều 1 của Quyết định này và được bố trí trong dự toán
ngân sách nhà nước hàng năm của địa phương.
- Ngân sách địa phương hàng năm.
- Huy động đóng góp tự nguyện bằng nhiều hình thức của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức quốc tế, tổ chức và cá nhân trong và
7
ngoài nước.
6. Một số kết quả đã đạt được của chương trình 135 qua hai giai đoạn
Trong những năm qua, Chương trình 135 đã góp phần thay đổi đáng kể diện
mạo kinh tế - xã hội ở những xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
6.1 Giai đoạn I
Tính đến năm 2005, Chương trình 135 đã đầu tư cho 2412 xã đặc biệt khó
khăn, thuộc 52 tỉnh ở 230 huyện với dân số khoảng 9,8 triệu nhân khẩu (tương
đương 1,9 triệu hộ), trong đó có khoảng 1 triệu hộ với trên 5,55 triệu người dân
tộc thiểu số của cả nước. Theo đánh giá chung, Chương trình 135 trong 7 năm
( 1988- 2005) chủ yếu tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng với số vốn
8716,6 tỷ đồng NSTW, chiếm 96% vốn đầu tư của chương trình. Chương trình đã
xây dựng được 20.026 công trình hạ tầng, hoàn thành 300 TTCX đưa vào sử
dụng, hoàn thành trên 50.000 km đường các loại, 96% số xã có đường ô tô đến
trung tâm xã (cả nước hiện chỉ còn 88 xã thuộc Chương trình 135 chưa có đường
ô tô đến trung tâm xã). Đặc biệt, đã có 2.948 công trình thuỷ lợi được xây dựng
mới và sửa chữa nâng cấp làm tăng năng lực tưới tiêu cho hơn 40.000 ha đất canh
tác. A có 85% số xã có điện và khoảng 64% dân số trên địa bàn được dùng điện
lưới quốc gia, 2.072 công trình nước sạch, 4.159 công trình trường học và lớp
học được đưa vào sử dụng. Có nhiều xã đã được đầu tư khá hoàn chỉnh đồng bộ
hệ thống kết cấu hạ tầng. Thống kê của Uỷ ban Dân tộc miền núi cho thấy, có
56% số xã đã có đủ 7 loại công trình, có nghĩa đã đủ điều kiện thoát nghèo về cơ
sở hạ tầng để chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển. (Cụ thể xem phụ lục 1)

6.2 Giai đoạn II
Chương trình 135 giai đoạn II (thực hiện từ năm 2006 - 2010) được triển
khai thực hiện trên 1.848 xã đặc biệt khó khăn và 3.274 thôn đặc biệt khó khăn
thuộc các xã khu vực II. Mục tiêu là phấn đấu đến năm 2010 cơ bản không còn
hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% Đến hết năm 2009, Chương trình
8
135 giai đoạn II đã đạt được một số chỉ tiêu: 100% người dân có nhu cầu trợ giúp
pháp lý được trợ giúp miễn phí; tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 31,2%. Chương
trình đã hỗ trợ cho các địa phương 14.000 tỉ đồng; xây dựng 4.125 mô hình phát
triển nông nghiệp, ngư nghiệp; mua sắm trên 42.000 máy móc phục vụ sản xuất,
chế biến; xây dựng trên 12.000 dự án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán
bộ cơ sở. ủy ban Dân tộc đã tập huấn cho 3.500 lượt cán bộ tham gia quản lý
Chương trình 135 từ cấp tỉnh đến cấp huyện. Tính trung bình, mỗi địa phương
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính, kinh tế, giám sát dự án cho 178
lượt cán bộ xã, thôn, bản. Thành lập được 1.500 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho
các xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II
(Nguồn: UB Tài chính và Ngân sách Quốc hội)
II. ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN VÀO CHƯƠNG
TRÌNH 135 THEO TIÊU CHÍ CÔNG BẰNG
1. Sơ lược sự tham gia của người dân vào chương trình 135
1.1 Tầm quan trọng của người dân khi tham gia
Người dân là chủ thực sự của dự án, do vậy, họ có quyền trực tiếp tham gia
hoặc cử đại diện cho mình tham gia vào các dự án tại xã.
- Vì người dân của xã là chủ cũng vừa là người hưởng lợi từ dự án thực hiện
tại xã. Vì dân là chủ nên mọi quyết định đều là của nhân dân trong xã. Vì thành
quả của dự án đều do dân hưởng lợi nên mọi người đều được tham gia họp hành,
cùng nhau bàn bạc, cùng nhau quyết định, cùng nhau giám sát nghiệm thu các
thành quả đó.
- Để thực hiện trong thực tế quy chế dân chủ cơ sở là: dân biết, đân bàn, dân
làm, dân kiểm tra giám sát, dân quản lý và hưởng thụ thành quả từ dự án.

- Để tăng khả năng phù hợp của các hoạt động với các nhu cầu của người
dân với điều kiện hạn chế của từng địa phương. Không ai hiểu rõ tình hình địa
phương và tích lũy được nhiều kinh nghiệm như người dân tại xã. Những kiến
9
thức và kinh nghiệm ấy được sử dụng trong dự án sẽ đem lại rất nhiều lợi ích.
- Sự tham gia của người dân là cách tốt nhất để người dân trở thành chủ của
CT 135-II tại địa phương mình. Người dân khôngcòn là đối tượng chỉ hưởng lợi
của dự ánnữa mà người dân là người chủthực sự của dự án.
- Để hạn chế các thất bại trong các hoạt động củadự án. Tất nhiên, ở đâu
cũng có sơ suất, nhưng có thể tránh được rất nhiều những sai lầm nếu chỉ dơn
giản là tạo ra sự tham gia, phát huy dân chủ cơ sở đối với người dân trong xã.
- Để làm xích lại lien hệ trao đổi thông tin giữa các bên liên quan trong dự
án. Thông tin phản hòi của người dân dễ có tác động tới chính sách, chương trình
hơn nếu thông tin đó được truyền trực tiếp cho các nhà lãnh đạo dự án mà không
phải qua vài tầng tổ chức.
- Để tận dụng và khai thác các nguồn lực của địa phương, để các dự án
thuộc chươngtrình 135-II đạt hiệu quả cao nhất, dân xã hưởng lợi nhiều nhất và
lâu dài nhất.
- Để tạo cơ hội nâng cao năng lực cho người dân
1.2 Sự tham gia của người dân vào chương trình 135 gồm các buớc
- Xây dựng dự án
- Thực hiện dự án
- Giám sát dự án
- Đánh giá thực hiện dự án
- Quản lý dự án
1.3 Tiêu chí đánh giá mức độ tham gia của người dân và chương trình 135
- Tính minh bạch công khai
- Tính công bằng
- Tính bền vững
- Tính hiệu quả

10
2. Đánh giá sự tham gia của người dân vào chương trình 135 theo tiêu
chí công bằng
Đánh giá sự tham gia của người dân vào chương trình 135 theo tiêu chí công
bằng có thể đứng trên nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Trong bài thảo luận
này, nhóm thực hiện sẽ phân tích về tính công bằng trong việc thực hiện chương
trình 135 có huy động sự tham gia của người dân theo những khía cạnh sau:
Thứ nhất là về cơ hội và khả năng tham gia của người dân đối với các
chương trình và dự án được thực hiện
Thứ hai là về phương pháp bình xét hộ nghèo trong việc phân định đối
tượng được thụ hưởng của chương trình
Thứ ba là về bất bình đẳng giới giữa nam và nữ trong việc thụ hưởng những
lợi ích mà chương trình 135 mang lại
Thứ tư đó là về phương pháp phân bổ nguồn lực cho các đối tượng thụ hưởng
Sau đây sẽ là đánh giá cụ thể về từng khía cạnh đã nêu.
II.1 Cơ hội và khả năng tham gia của người dân
2.1.1 Trong tiếp nhận thông tin về nguồn hỗ trợ
Hiện nay ở các vùng ĐBKK, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, đi lại khó
khăn, cơ sơ hạ tâng chưa phát triển…là một trong những nguyên nhân khiến cho
việc phổ biến thông tin về chương trình đến quảng đại người dân còn gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó, do ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, do tập
quán sinh sống, người dân nơi đây thường phân tán, sống thưa thớt, ít tập trung,
ngoài ra đa số hộ gia đình có đời sống khó khăn, không có những phương tiện
truyền thông tối thiểu, nên việc phổ biến thông tin đến từng hộ gia đình còn hạn
chế và mất nhiều thời gian. Chính vì vậy mà việc thông tin đi từ cấp trên xuống
cấp dưới cũng như từ chính quyền đến nhân dân còn chậm trễ.
Do đó, điều này gây ra một sự không công bằng cho những người nghèo khi
mà không phải ai trong số họ cũng có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp nhận thông
11
tin từ nguồn hỗ trợ, từ đó không thể biết được mình được tham gia những hoạt

động nào và mình được lợi gì từ việc tham gia đó.
Thứ hai, đó là ngay cả khi tiếp cận được với thông tin thì mức độ nắm bắt
của mỗi đối tượng khác nhau là khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và
bản thân mỗi người. Chẳng hạn, một người sống gần nơi trụ sở chính quyền địa
phương sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các cán bộ khi phổ biến thông tin cũng
như có điều kiện đi lại tìm hiểu kỹ hơn về chương trình, khác với những người
sống ở các thôn bản xa xôi, việc đi lại khó khăn là một cản trở khiến họ có thể
nắm bắt thông tin một cách không đầy đủ, chậm trễ, từ đó dẫn đến nhiều khó
khăn khi thực hiện chương trình.
2.1.2 Trong thực hiện dự án
Như chúng ta đã biết, nhiều địa phương miền núi, vùng sâu vùng xa có sự
cách biệt lớn về địa lý. Do đó nguồn kinh phí mỗi địa phương được cấp chỉ đủ để
triển khai chương trình ở các thôn bản gần mà bỏ rơi các thôn bản ở xa, nơi
những người nghèo nhất thường ở. Ngoài ra, ngay cả giữa nhóm dân tộc đa số và
thiểu số cũng có sự chênh lệch về cơ hội và khả năng tham gia chương trình, vai
trò của những nhóm dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình, dự án thường
bị hạn chế. Chính vì vậy mà không phải tất cả những người nghèo đều có cơ hội
như nhau trong việc tham gia vào các khâu nói chung cũng như từng khâu nói
riêng của dự án. Vì vậy họ không được hưởng những quyền lợi tương ứng với
hoàn cảnh của mình và không có cơ hội thể hiện mong muốn cũng như tiếng nói
của bản thân.
2.2 Phương pháp bình xét hộ nghèo
Để xác định đối tượng thuộc diện thụ hưởng của chương trình XĐGN nói
chung, hiện nay thường sử dụng 2 phương pháp đó là
-Thứ nhất, người dân tự bình xét theo đa số: Phương pháp này thường dựa
vào ý chí chủ quan và sự tự giác của người dân là chính, do đó nó mang lại sự
12
công bằng nếu mọi người có tinh thần tự giác cao và có cái nhìn khách quan với
người khác.
+ Ưu điểm: Những người dân trong một xã, thôn, bản thường biết khá rõ về

những người trong khu vực mình sống, hơn là các cán bộ địa phương, do đó sẽ
đưa ra được những thông tin khá chính xác về hoàn cảnh của những người trên
địa bàn mình, và quyết định đưa ra sát với thực tế.
+ Nhược điểm của phương pháp này là chịu nhiều ảnh hưởng chủ quan từ
các cá nhân tham gia bình xét, bởi các cá nhân có thể bị chi phối về tình cảm,
mục đích cá nhân, và nhiều yếu tố khác nên có thể kết quả không phản ánh đúng
hiện thực mà chỉ thể hiện suy nghĩ chủ quan của họ.
-Thứ hai, lãnh đạo đưa ra quyết định: Phương pháp này coi trọng khả năng
nắm bắt và đánh giá tình hình của các cán bộ địa phương vì họ là người tổng hợp
lại những ý kiến của người dân và đưa ra những quyết định cuối cùng.
+ Ưu điểm của phương pháp này là cán bộ địa phương là người đứng ngoài
nên sẽ có cái nhình khách quan, do đó sẽ hạn chế được sự gian lận trong ý kiến
chủ quan của các nhân tham gia bình xét.
+ Nhược điểm đó là trình độ của các cán bộ địa phương còn thấp, ngoài ra
các cán bộ có thể không nắm bắt được hết tình hình, do đó không đủ khả năng
xem xét vấn đề một cách rạch ròi để đưa ra những quyết định chính xác, dẫn tới
một sự bất công bằng khi không tìm ra đúng người đúng việc.
Hai phương pháp này đều có những ưu và nhược điểm riêng, tuy nhiên đều
phụ thuộc vào ý thức và trách nhiệm của những người trực tiếp tham gia vào quá
trình bình xét. Và do vậy, phương pháp bình xét hộ nghèo tuy đảm bảo được
phần nào tính minh bạch nhưng có nguy cơ dẫn tới một sự thiếu công bằng.
Tuy nhiên, với chương trình 135, việc xác định hộ nghèo chỉ ở cấp thôn,
bản. Trên thực tế, người nghèo thường thụ động trong bình bânù các đối tượng
hưởng lợi từ chương trình và dự án. Danh sách đối tượng hưởng lợi thường chủ
13
yếu do trưởng thôn họp với các cán bộ xã đưa lên, chứ không tổ chức họp hay
thảo luận.
2.3 Về vấn đề bất bình đẳng giới
Với các đối tượng của chương trình 135,sự bất bình đẳng thể hiện rõ:
- Về hoạt động kinh tế: tham gia hoạt động kinh tế chủ yếu là nam giới. Họ

đóng vai trò trụ cột gia đình, chịu trách nhiệm về khoản thu nhập của gia đình.
Phụ nữ chỉ làm việc nhà, trông con.
- Về hoạt động chính trị: nam giới giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt đông
của xã, thôn, bản. Họ thường có uy tín cao trong các hoạt động ở địa phương.
Thống kê cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo tại những xã nghèo chiếm tỷ lệ
rất thấp (chưa đầy 10%).
- Về cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển: do hoạt động kinh tế chủ yếu
là do nam giới thực hiện, cơ hội tiếp cận nguồn lực tập trung vào tay họ. Vốn sản
xuất nằm trong tay phụ nữ rất ít. Do đó, thu nhập của phụ nữ chiếm tỷ lệ rất thấp
(khoảng 1/5)
Như vậy vấn đề bất bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng nhưng lại ít
được quan tâm. Vai trò của phụ nữ và các nhóm dân tộc thiểu số trong chương
trình còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nưa tham gia vào chương trình so với nam giới là
thấp hơn nhiều do phụ nữ có trình độ văn hoá thấp hơn nhiều. Phụ nữ dân tộc
thường không biết tiếng phổ thông nên không muốn đi họp và có đi họp cũng
không hiểu nội dung cuộc họp như thế nào. Đây có thể là một hệ quả từ phong
tục tập quán và quan niệm của những nhóm dân tộc thiểu số, phụ nữ chỉ có nhiệm
vụ chăm sóc gia đình, con cái và đôi khi là những công việc nặng nhọc trong gia
đình, tuy nhiên lại ít được tham gia vào các hoạt động xã hội. Tương tự đối với
các em gái thường ít có cơ hội đến trường hơn các em trai, nên thường dẫn đến
việc nhận thức và trình độ văn hoá thấp hơn.
14
2.4 Về phương pháp phân bổ nguồn lực
Thông tư số 666/2001/TT-LT/BKH-UBDTMN-TC-XD, có quy định về
cách thức phân bổ nguồn lực cho các xã. Theo đó, Chương trình 135 được đầu tư
bằng nhiều nguồn vốn, UBND tỉnh có trách nhiệm tổ chức huy động các nguồn
lực tại địa phương gồm vốn, vật tư, lao động do các ngành, các cấp, cơ quan, đơn
vị kinh tế, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư trong tỉnh đóng góp để hỗ trợ
đầu tư xây dựng công trình hạ tầng, đồng thời lồng ghép các chương trình, dự án
khác với Chương trình 135 trên địa bàn các xã thuộc chương trình. Việc phân bổ

nguồn vốn Ngân sách Nhà nước gồm vốn Trung ương (TW) và Ðịa phương (ÐP)
hỗ trợ hàng năm phải đảm bảo tất cả các xã thuộc Chương trình 135 đều được
đầu tư, nhưng không chia đều, tùy yêu cầu cấp thiết của công trình và khả năng
chuẩn bị đầu tư của từng xã mà bố trí cho hợp lý. Công trình ghi kế hoạch chỉ nên
thực hiện trong một năm, chậm nhất cũng không quá hai năm
Tuy nhiên, thực tế đối với các hộ nghèo cùng thuộc địa bàn một xã lại
thường được hưởng mức hỗ trợ như nhau thông qua phương pháp bình quân.
Phương pháp này đảm bảo tính minh bạch công khai nhung lại thiếu tính
công bằng vì người dân trong cùng một địa bàn có hoàn cảnh khác nhau và
những khu vực địa lý khác nhau thì sự khác biệt về khó khăn rất rõ rệt. Do đó khi
tiến hành phân chia nguồn lực và hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức cho người
nghèo cũng nên tính đến các yếu tố về địa lý, sức khoẻ, khả năng lao động, số
người ăn theo… Qua đó mới có thể tạo ra sự công bằng với những người có hoàn
cảnh khó khăn khác nhau.
III. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐẢM BẢO TÍNH CÔNG BẰNG
1. Về phía chính quyền địa phương
- Chính quyền địa phương phải nhận thức đúng đắn về mục đích, ý nghĩa
của chương trình và có sự chỉ đạo quyết liệt trong thực hiện
15
- Phải chú ý bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý,
các ban quản lý, chủ đầu tư tham gia thực hiện dự án từ Chương trình 135.
- Nâng cao công tác quản lý chương trình
- Thực hiện xem xét sát xao đối tượng thụ hưởng chương trình
- Xử lý nghiêm đối với những tình trạng thụ hưởng sai
2. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo tính công bằng và hợp lý cho
người dân khi tham gia chương trình 135
2.1 Giải pháp nhằm tăng khả năng và cơ hội tham gia của người dân
- Cần quan tâm chú trọng tới việc đầu tư cho trang thiết bị truyền thông
chung trong địa bàn từng xã, thôn, bản.
- Cán bộ chính quyền phải đến từng thôn, bản tổ chức các cuôc tham gia nói

chuyện với người dân để truyền đạt toàn bộ thông tin cần thiết đến từng người
dân. Ngoài ra, cần có biện pháp để người dân đến tham gia cuôc họp đông đủ
không vi lí do đi làm nương, rẫy… để không tham gia cuộc họp giữa cơ quan
chính quyền với người dân.như thế, thì các cán bộ cơ quan chính quyền lại phải
có các giải pháp để thu hút sự tham gia của dân. Nhóm thực hiện có 1 số đề xuất
như sau :
• Cuộc họp phải tổ chức vào thời gian hợp lí, ko ảnh hưởng tới thời gian
sinh hoạt của người dân (ví dụ: tầm 1h chiều,cuôc họp chỉ nên diễn ra trong
vòng 1- 2h để ko ảnh mấy đến giờ tham gia hoạt động sản xuất của người dân và
ko thời gian ko quá dài để người dân có thể tiếp thu thông tin đầy đủ, ko gây cho
người dân cảm giác chán nản-> sự truyền đạt thông tin sẽ thất bại )
• Tạo hứng thú cho người dân tham gia vào cuộc họp. ví dụ : đưa ra các
thông tin về sự được lợi từ việc tham gia cuộc họp cũng như chương trình. Các
cán bộ có thể dùng các biện pháp khuyến khich sự tham gia của người dân. Ví
dụ: những nguời tham gia tích cực sẽ có thưởng (cán bộ nên điểm danh khi diễn
ra cuộc họp để có biết được còn hộ gia đình nào chưa tiếp cận được thông tin)
16
• Khi cuộc họp đã được diễn ra thì các cán bộ chính quyền phải làm thế
nào để người dân có thể hiểu và nắm bắt được thông tin 1 cách đầy đủ.
• Cán bộ nên dùng các từ ngữ dễ hiểu đối với người dân trong khi phân
tích. Và cuốn hút sự tham gia của người dân bằng các câu hỏi thân mật ( ví
dụ: bác đã hiêủ vấn đề này chưa?anh thấy vấn đề này thế nào ? ) ->biết được
quan điểm của dân để hướng chương trình theo 1 hướng tốt hơn.
• Cán bộ nên đặt mỗi vấn đề gần với cuộc sống của dân để người dân
hiểu và nhớ lâu hơn -> sự muốn tham gia chương trinh.
• Một số trường hợp đặc biệt không thể tham gia cuộc họp thì cán bộ
chính quyền nên đến tận gia đình để phô biến thông tin với gia đình. Sự nhiệt tình
của cán bộ cũng làm cho người dân muốn tham gia chương trình.
2.2 Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực
Nên phân chia các đội tượng hưởng lợi cụ thể hơn nữa như là theo địa lí, sức

khỏe, khả năng lao động, số người ăn theo…như vậy thì các đối tượng hưởng lợi
sẽ không chung chung nên sự công bằng sẽ rõ ràng hơn.
2.3 Tăng cường vai trò và sự tham gia của phụ nữ
- Nâng cao trình độ văn hoá cũng như tăng cường hoạt động tuyên truyền
giáo dục cho người dân nói chung và phụ nữ nói riêng. Cần tăng cường hoạt động
tuyên truyền giáo dục cho người dân nói chung và phụ nữ nói riêng.
- Tăng cường phổ biến các kiến thức về bình đẳng giới cho phụ nữ. Để thực
hiện tốt công tác này cần có sự tham gia của Hội phụ nữ và các tổ chức xã hội
trên địa bàn.
17
KẾT LUẬN
Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc thiểu số và miền núi - Chương trình 135 giai đoạn 1 (1998-2005) và giai đoạn
2 (2006-2010) với quy mô 50 tỉnh, 354 huyện, 1.946 xã khu vực 3 và 3.274 thôn,
bản đặc biệt khó khăn của xã khu vực 2. Chương trình đã góp phần làm thay đổi
cơ bản bộ mặt của nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, đời sống đồng bào
dân tộc từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, giáo dục đào
tạo, sức khỏe của người dân được chăm lo, kết cấu hạ tầng được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên các nguyên nhân khách quan (như trình độ dân trí còn quá thấp, nhiều
xã ở vùng sâu, vùng xa), cùng với các nguyên nhân chủ quan như công tác quản
lí, sự tham gia của cộng đồng, các hủ tục lạc hậu là những cản trở to lớn việc đảm
bảo công bằng của chương trình. Điều này đòi hỏi công tác quản lí hiệu quả,chế
độ tham gia dân chủ…
Trên đây là bài tiểu luận về đánh giá sự tham gia của người dân vào
chương trình 135 theo tiêu chí công bằng của nhóm 2. Tuy nhiên, do còn những
hạn chế khách quan và chủ quan nên khó tránh khỏi những điểm cần sửa đổi, bổ
sung, chúng em rất mong nhận được ý kiến của cô giáo để giúp bài tiểu luận
được hoàn chỉnh hơn.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thông tư số 41/UB-TT (8/1/1996) của UBDT
Thông tư liên tịch 666
Quyết định 164/2006/QĐ-TTg
Quyết định 113/2007/QĐ-TTg
Quyết định 135/1998/QĐ-TTg
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
Trang web của Uỷ ban dân tộc miền núi; Bộ Kế hoạch đầu tư; Bộ Tài chính
Một số tạp chí kinh tế
Một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên Đại học KTQD
19
MỤC LỤC
20

×