Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

giải pháp về khu vui chơi giành cho trẻ em tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 70 trang )

Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
MỤC LỤC:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em là tương lai của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và toàn thế giới.Trẻ em
phải được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục toàn diện để trở thành người chủ tương lai
của đất nước. Điều này được khẳng định rõ trong công ước Quốc tế về quyền trẻ em
và luật “Bảo vệ và chăm sóc trẻ em” của Việt Nam. Trách nhiệm của cha mẹ và
toàn xã hội là tạo ra môi trường an toàn về vật chất và lành mạnh, phong phú về
tinh thần thuận lợi cho sự phát triển của các em. Song có rất nhiều nguyên nhân
khác nhau ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Trong đó ta không thể không kể đến
các hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu vui chơi - giải trí của trẻ em. Nhu cầu vui
chơi, giải trí hình thành và phát triển qua từng giai đoạn phát triển của trẻ. Ở mỗi
lứa tuổi khác nhau trẻ em có một nhu cầu về vui chơi - giải trí khác nhau.
Trẻ em dù ở thời đại nào cũng có nhu cầu được vui chơi, giải trí, được giao
tiếp với mọi người rất mạnh mẽ. Việc vui chơi - giải trí của trẻ em ảnh hưởng rất
nhiều đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em là đối tượng khá
phức tạp về tâm lý và sở thích. Vì vậy nhu cầu vui chơi của các bé cũng rất đa dạng,
muôn màu muôn vẻ. Một khu vui chơi cho trẻ em vừa phải thỏa mãn nhu cầu giải
trí, nhu cầu giao tiếp và cả nhu cầu tìm hiểu và khám phá thế giới. Bên cạnh đó, trẻ
em là lứa tuổi đang bắt đầu định hình về nhân cách nên một khu vui chơi giải trí
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 1
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
cũng phải góp phần giúp trẻ phát triển theo một định hướng đúng đắn. Đặc biệt,trẻ
em độ tuổi từ 4-11 có nhu cầu giao tiếp, tìm hiểu về thế giới bên ngoài rất cao.
Thời xa xưa, khi ở độ tuổi ấu thơ chúng ta có rất nhiều trò chơi dân gian
mang đậm dấu ấn tuổi thơ. Những buổi chiều ở đình làng, rồi những triền đê,những
cánh đồng mênh mông đều có thể trở thành sân chơi cho trẻ em. Và trẻ em học
được rất nhiều điều bổ ích từ những buổi vui chơi giữa thiên nhiên như thế. Ngày
nay, khi xã hội phát triển và nhiều trò chơi mang tính hiện đại ra đời. Có những trò
chơi đáp ứng một cách tối đa nhu cầu giải trí của trẻ. Nhưng bên cạnh đó cũng


không ít trò chơi ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển của trẻ. Với sự phát triển
của công nghệ thông tin hàng loạt loại hình game online ra đời. Trẻ em hầu như
ngoài giờ lên lớp thời gian rảnh rỗi đều ngồi bên máy tính chơi game. Cùng với đó
là sự thu hẹp của các khu vui chơi giải trí trẻ em. Trong thời buổi hiện nay, để tìm
ra một khu vui chơi để trẻ em có thể cùng bạn bè, gia đình hòa nhập với thiên nhiên
là điều rất khó khăn. Nên một số bậc phụ huynh có suy nghĩ thà để con mình chơi
game ở nhà còn hơn la cà ngoài đường. Hiện nay có một số nơi vui chơi (công
viên,biển…) nhưng trẻ em ở độ tuổi nhi đồng không thể đến đó vào buổi tối, các em
chỉ có thể vui chơi ở đó vào ban ngày. Buổi tối thường chỉ có một số nơi được dựng
lên tạm bợ trên vĩa hè với một số trò chơi đơn giản. Các bậc phụ huynh muốn đưa
con mình đi chơi, thư giãn vào buổi tối, cuối tuần thường rất khó khăn trong việc
lựa chọn một địa điểm thích hợp.
Việc thiếu thốn và xuống cấp của các khu vui chơi - giải trí dành cho trẻ em
đang được đặt ở tình trạng đáng báo động. Nhu cầu vui chơi của trẻ ngày càng gia
tăng nhưng thực tế đáp ứng thì lại đang đi theo chiều hướng ngược lại. Vì vậy mà
chúng ta cần có một biện pháp, một định hướng rõ ràng để khôi phục và phát triển
các khu vui chơi - giải trí dành cho trẻ em để góp phần thỏa mãn nhu cầu vui chơi
của trẻ, tạo điều kiện cho các em phát triển toàn diện về vật chất và tinh thần. Do
vậy mà chúng tôi chọn đề tài: “ Phát triển khu vui chơi, giải trí dành cho trẻ em
tại thành phố Đà Nẵng ” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 2
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
- Nghiên cứu về tâm sinh lý cũng như nhu cầu vui chơi của trẻ em tại thành
phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu đánh giá về thực trạng của các khu vui chơi tại thành phố Đà
Nẵng.
- Định hướng và đưa ra một số giải pháp phát triển khu vui chơi giải trí dành
cho trẻ em tại thành phố Đà Nẵng.
3. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu

Việc nghiên cứu vấn đề “ Phát triển khu vui chơi,giải trí dành cho trẻ em tại
thành phố Đà Nẵng ” có tác dụng:
- Giúp chúng ta hiểu biết – nắm được nhu cầu vui chơi-giải trí của trẻ em.
- Thực trạng về những khu vui chơi-giải trí hiện nay trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng và nhu cầu về địa điểm vui chơi-giải trí dành cho trẻ em của các bậc phụ
huynh và nhu cầu của chính các em.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để Phát triển khu vui chơi,giải trí dành cho
trẻ em tại thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng nghiên cứu,khách thể nghiên cứu,phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em từ 4-11 tuổi
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các Quận, Huyện tại thành phố Đà Nẵng:
1. Huyện Hoà Vang.
2. Quận Liên Chiểu.
3. Quận Sơn Trà.
4. Quận Thanh Khuê.
5. Quận Hải Châu.
6. Quận Ngủ Hành Sơn.
7. Quận Cẩm Lệ
5. Dự kiến cấu trúc đề tài:
Gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 3
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nhu cầu vui chơi - giải trí của trẻ em.
Chương 2: Thực trạng về các khu vui chơi - giải trí cho trẻ em tại thành phố
Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp phát triển khu vui chơi giải trí cho trẻ em tại thành phố
Đà Nẵng

6. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp lý luận
- Quan sát và tiếp cận
- Điều tra thực tiễn, chọn mẫu.
- Thống kê toán học
- Thống kê xác suất.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 4
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1.Một số khái niệm cơ bản về nhu cầu:
1.1.1.Nhu cầu:
Có rất nhiều định nghĩa về nhu cầu nhưng chúng tôi xin nêu ra một số định
nghĩa chính về nhu cầu như sau:
- Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống,
những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
- Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
- Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì
khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu
đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận
thức có sự chi phối nhất định nghĩa là nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự
thoả mãn nhu cầu).
1.1.2.Tính chất và đặc điểm của nhu cầu:
- Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính
cơ thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu của một cá nhân là
đa dạng và vô tận.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 5
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
- Nhu cầu mang tính sinh học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển

sinh học của con người. Nhưng mặt khác, nhu cầu cũng mang tính xã hội, thể hiện ở
chỗ: Những nhu cầu giống nhau nhưng ở mỗi thời đại, mỗi xã hội lại đáp ứng chúng
theo các cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội
đó. Marx đã từng nói: “Cái đói là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng thịt
nấu, và ăn bằng dao, nĩa thì khác với cái đói dùng bàn tay, móng và răng nuốt
chửng thịt sống”. Bên cạnh đó, nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ của
phong tục tập quán(văn hoá) của cộng đồng và được quy định bởi văn hoá cộng
đồng.
- Nhu cầu là nguồn gốc mọi hành động của con người. Nhu cầu càng cấp
bách thì khả năng chi phối con người càng cao. Chính khi một nhu cầu xuất hiện sẽ
hình thành trong con người một động cơ thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu
đó.
1.1.3.Phân loại nhu cầu:
Các loại nhu cầu khác nhau không tồn tại đơn lẻ, tách rời mà nằm trong mối
quan hệ ràng buộc, phụ thuộc và tương tác lẫn nhau. Chúng tạo thành một hệ thống
nhu cầu. Hệ thống nhu cầu được phân loại trên cơ sở của nhiều tiêu chí khác nhau:
+ Theo tính chất: Có nhu cầu tự nhiên (mang tính bẩm sinh như: nhu cầu ăn,
ở, mặc, an toàn tính mạng ) và nhu cầu xã hội (những nhu cầu do cuộc sống xã hội
tạo nên như: nhu cầu học tập, sáng tạo nghệ thuật, làm chính trị ).
+ Theo đối tượng thoả mãn nhu cầu: Có nhu cầu vật chất (ăn mặc, mua sắm
các tiện nghi cá nhân và gia đình ) và nhu cầu tinh thần (giao tiếp, thưởng thức
nghệ thuật, vui chơi giải trí ).
+ Theo lĩnh vực hoạt động: Có nhu cầu kinh tế, nhu cầu chính trị, nhu cầu
văn hoá, nhu cầu giáo dục, nhu cầu tâm linh
+ Theo phương thức sử dụng sản phẩm của xã hội: Có nhu cầu sản xuất và
nhu cầu tiêu dùng.
+ Theo mức độ cấp thiết phải đáp ứng: Có nhu cầu tuyệt đối (nhu cầu thiết
yếu bảo đảm sự tồn tại của con người như ăn no, mặc ấm, đồ dùng đầy đủ ) và nhu
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 6
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến

cầu tương đối (những nhu cầu được nâng cao về mặt chất lượng: ăn ngon, mặc đẹp,
đồ dùng tốt ).
+ Theo nhóm xã hội: Có thể phân chia nhu cầu theo nhóm tuổi (nhu cầu của
trẻ em, nhu cầu của thanh niên, nhu cầu của người già ); theo nhóm nghề nghiệp
(nhu cầu của nhóm nông dân, công nhân, trí thức ); theo khu vực cư trú (nhu cầu
của dân cư thành thị, nhu cầu của dân cư nông thôn )
Trong các nhóm trên, thì nhóm theo đối tượng thỏa mãn nhu cầu rất phù hợp
với đối tượng nghiên cứu là trẻ em, trẻ em rất cần nhu cầu vật chất và đặc biệt là
nhu cầu tinh thần vì đây là bàn đạp cho sự phát triển của trẻ sau này.
1.2.Tìm hiểu tâm lý và đặc điểm nhu cầu của trẻ em theo lứa tuổi:
Trong cuộc đời con người thường có 4 giai đoạn như sau:
• Giai đoạn trẻ em(0 -11 tuổi): gồm 3 chặng nhỏ.
• Giai đoạn thiếu niên(13 - 18 tuổi): gồm 3 chặng nhỏ.
• Giai đoạn trưởng thành(18 - 60 tuổi): gồm 3 chặng nhỏ.
• Giai đoạn hưu trí(trên 60 tuổi): chỉ có 1giai đoạn.
Nhưng giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời một con người chính là giai đoạn
trẻ em, giai đoạn này là nền tảng để phát triển và hình thành nên một tính cách cũng
như nhân cách của một con người.
1.2.1.Giai đoạn trẻ em:được chia làm 3 phần như sau:
1.2.1.1.Trẻ em từ (0 – 3 tuổi):
- Đặc điểm tâm lý
+ Đối với trẻ “nhũ nhi” (tuổi còn bú), mẹ là tất cả của bé. Khác với loài vật,
bé không chỉ cần được mẹ cho bú mớm, mà bé còn rất cần đến tình yêu vỗ về của
mẹ để thành người. Mẹ không chỉ là “bầu sữa” cho bé, mà còn là tất cả nguồn yêu
thương, an toàn mà bé cần đến. Một số nhà phân tâm đã phân tích sự khác biệt căn
bản giữa tư thế bú của bé so với loài vật, để nêu bật sự gắn bó đặc thù của tình mẹ
con nơi loài người. Thật vậy, chỉ có con người mới bú mẹ trong tương giao “mặt
đối mặt”: bé không chỉ bú sữa mẹ, mà “bú” cả ánh mắt, nụ cười, “bú” cả tiếng trò
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 7
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến

chuyện ê a và tình thương mẹ dành cho bé. Dòng sữa mẹ thì làm cho bé mỗi ngày
thêm đầy đặn, còn tình yêu thương nâng niu của mẹ thì “nhân hóa” bé, tập cho bé đi
vào tương quan tình người. Một trẻ bị bỏ rơi, không có được sự yêu thương của
“mẹ” (hay ai khác thay mẹ) thì không được nhân hóa, vì em không có được bài học
nhập môn tương quan căn bản nhất từ mẹ, để có thể mở ra những tương quan khác
với người ngoài. Hơn thế, chất lượng của mối tương quan đầu đời với mẹ sẽ quyết
định cách đáng kể đến khả năng tương giao của trẻ về sau. Các nhà tâm lý lứa tuổi
nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa ba lối gắn bó của trẻ với mẹ lúc còn nhỏ với cách
tương giao của trẻ ấy ở tuổi trưởng thành sau này.
+ Đối với trẻ bắt đầu “thôi nôi” trở đi: Bé bắt đầu lẫm chẫm tập đi những
bước đầu đời, đưa tay sờ nắm bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, dõi mắt khám phá
những khung cảnh tương đối xa hơn và hoàn toàn mới lạ, phạm vi tương quan tiếp
xúc với người khác cũng rộng hơn chứ không chỉ dừng lại nơi vòng tay người me.
Tóm lại, đây là thời kỳ của những giác động (sensori motrice) mở ra cho các
em những tiếp xúc vật chất và những tương quan nhân vị, chủ yếu dựa vào ngũ giác
(nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vượt trội hơn hẳn giai đoạn bé còn nằm trong nôi hoặc
được bồng ẵm trên tay của người lớn.
- Thách đố đối với phát triển nhân cách:
Nếu được hưởng đầy đủ sự chăm sóc và tình yêu của mẹ thì sẽ có cảm giác
an toàn, tin tưởng đối với ngoại cảnh. Tuy cần mẹ, nhưng bé vẫn phải có khả năng
tách khỏi vòng tay mẹ thì mới mở ra được với những tương giao khác để lớn lên.
1.2.1.2.Trẻ em từ (3– 6 tuổi):
- Đặc điểm tâm lý
Từ tuổi này, mẹ không còn ở bên trẻ suốt ngày, do vậy bé phải chuyển qua
tương quan với các đối tác khác là anh chị trong nhà và bạn lớn hơn ở vườn trẻ. Ở
tuổi này, các trẻ này chưa biết nhường nhịn nhau nên thường rất dễ xảy ra sự xích
mích giữa các bé trong khi chơi chung với nhau. Và những bé có những cá tính
mạnh mẽ hơn sẽ thường lấn áp những trẻ có tính rụt rè hơn. Lứa tuổi này các em bắt
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 8
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến

chước người lớn rất nhanh, cộng thêm trí tưởng tượng đang hình thành khá phong
phú để tự bày ra các trò chơi như: xây nhà, nấu bếp, dọn hàng, ru búp bê, và có thể
cứ thế mà chơi một mình rất lâu, ngày này qua ngày kia không biết chán. Bé thích
sự giao tiếp mang tính chất công bằng và thăm hỏi, thích chứng tỏ mình là người
lớn và thường đặt ra “yêu cầu” là mong được cha mẹ lắng nghe và tôn trọng ý kiến.
Lúc này, bé cũng phát triển khá độc lập và “rất ghét” những ý kiến phê phán kiểu
“Con thì biết cái gì”…,
- Thách đố đối với phát triển nhân cách:
Cần bảo đảm cho mọi trẻ có khả năng tương quan hài hòa với anh chị và
bạn, mà không bị “lép vế”, tự ti.Nếu một trẻ không an toàn về thể lý, cũng sẽ bị bất
an tâm lý. Ngược lại, nếu một trẻ có được tương quan hài hòa với anh chị và bạn,
tính cách tự tin và bạo dạn của trẻ sẽ ngày càng củng cố.
1.2.1.3.Trẻ em từ (6 – 11 tuổi):
- Đặc điểm tâm thể lý
+ Các em mang đậm mặc cảm Edipe:
Tự bẩm sinh, các em đã mang mặc cảm Edipe ( le complexe d’Edipe ). Thần
thoại Hy-lạp kể rằng: Edipe, do cuộc đời oan nghiệt đưa đẩy, đã ngộ sát cha mình là
Laios để lên ngôi vua và cưới luôn mẹ là Jocaste làm hoàng hậu Các nhà tâm lý
học mượn điển tích này để diễn tả hiện tượng tâm lý bẩm sinh phổ biến nơi lứa tuổi
thiếu nhi.
Các em luôn tìm sự gần gũi, yêu thương, chiều chuộng của người lớn khác
phái. Bé gái gần bố mà xa mẹ, còn bé trai lại gần mẹ xa bố. Đây không phải là một
tội lỗi ghê gớm đáng lên án và nghiêm phạt như cách nghĩ thiển cận của một số
người chủ trương đạo đức quá khắt khe cổ hủ. Cần phải biết khéo hướng dẫn để
giúp các em từ từ nhận ra sự cần thiết phải có đủ các tính cách giáo dục qua cả bố
lẫn mẹ, anh và chị trong gia đình, cả thầy lẫn cô ở trường, ở lớp. Sau này, khi bước
vào tuổi dậy thì, các em sẽ dần dần chuyển hóa sang thế quân bình về phái tính. Nếu
người lớn quá khắc nghiệt hoặc lơi lỏng thiếu quan tâm, có thể sẽ gây ra nơi các em
những ấn tượng lệch lạc, di hại suốt đời các em về mặt nhân cách tâm lý và ứng xử.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 9

Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Ngược lại cần bắc một nhịp cầu hết sức tế nhị để gặp gỡ chính tâm hồn bé bỏng non
nớt của các em, biết mở chuyện hỏi han các em bằng ngôn ngữ và cung cách của
chính các em. Khi đó, các em mới dễ bộc lộ một cách hồn nhiên những tâm sự,
những "bí mật" có khi rất ngô nghê của các em, mà không hề e dè, giấu giếm, sợ
người lớn la rầy, kết tội hoặc chế giễu.
+ Các em tin tưởng người lớn tuyệt đối:
Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc
bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì vậy,
nếu các em nhận ra nơi các người lớn như cô chú, thầy cô giáo, anh chị một sự
bảo bọc chở che, nhất là sự quan tâm, cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn
quít, tin cậy đến mức tuyệt đối.
+ Các em ôm ấm nhiều giấc mơ:
Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền
hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian được kể
trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu dệt những
mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ. Sau này, lớn hơn một chút, tính thần thoại
chuyển dần sang khía cạnh thần tượng hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp
xúc thân tình với một người lớn nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh
chóng hình thành các ước mơ sẽ có được nhân cách ấy (ví dụ: "Lớn lên em sẽ làm
cô giáo như cô ","Em sẽ là một Ronaldo của Việt Nam " ).
+ Các em rất đa cảm, dễ xúc động:
Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới
tinh. Ngay cả trường hợp một số em phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ trong gia
đình, thì chắc chắn tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ bị xúc động. Do
đó, bất cứ hành động thô bạo nào đối với chính bản thân các em, đối với các em
khác, đối với súc vật và đối với thiên nhiên đều gây tổn thương nơi các em, để lại
trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt.
+ Các em rất hiếu động:
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 10

Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó,
các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng hoảng
về ý thức cử động ( idée motrice )
Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn
chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đùa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy máy, hì
hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình. Riêng bên
nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao chiến và đua tranh
giữa hai phe (ví dụ: kéo co, cướp cờ, đánh trận giả ). Các em sẵn sàng chơi hăng
say hết mình, bởi đối với các em chuyện thắng thua rất là quan trọng, nó nhằm mục
đích tự khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân.
Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em đặc biệt thích các trò chơi tuy
nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện luân phiên thi đua giành phần thắng
cho mình (ví dụ: nhảy cò cò, đánh chuyền, nhảy lèo, chơi ô ăn quan )
Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý
tưởng và các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc
mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý tưởng như thế dần
dần sáng tỏ ra cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn theo dạng đặt vấn đề "vì
vậy", "cho nên", "do đó" như người lớn Nhưng mặt khác, các em đã không còn
thỏa mãn với dạng câu hỏi " tại sao?" mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó hơn
nhiều: "làm thế nào ?" tức là có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn.
+ Các em có thể trung tín đến cùng:
Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu các
em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào đó. Và với lời
giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức về công việc, cảm
thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả mong đợi của người lớn. Ấn
tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc đời đã hình thành một nhân cách khó gì
có thể làm biến dạng.
+ Ngoài ra thì lứa tuổi tiểu học tuy đã phát triển hơn về thể xác nhưng tâm cảm hãy
còn mỏng manh. Đặc điểm của trẻ tiểu học là chỉ chơi với bạn đồng giới: gái với

Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 11
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
gái, trai với trai. Chúng bám víu cộng sinh vào nhóm vì chưa có được nhân cách
riêng. Hơn nữa, nhờ tương tác với bạn đồng giới mà trẻ được củng cố về căn tính
giới tính của mình: trai phải hành xử cho ra trai, gái phải hành xử cho ra gái.
Thế nhưng không phải mọi trẻ đều đương nhiên được bạn đồng giới đón
nhận. Trong cả hai nhóm đều có sự “kỳ thị” và loại trừ các bạn cùng giới nhưng lại
bị xếp vào nhóm bên kia do không đủ nữ tính nếu là nữ, hay thiếu nam tính nếu là
nam. Vì vậy giữa các trẻ cùng giới luôn có sự cạnh tranh về nhiều mặt (học lực, sức
khỏe, tài khéo, sở hữu đồ chơi…). Chỉ những trẻ trên trung bình mới được nhóm
đón nhận và có được một thứ hạng. Nếu được nhóm đón nhận - dù chỉ ở thứ hạng
thấp - thì trẻ có được cảm giác an toàn tự tin. Còn những trẻ bị loại trừ và liệt vào
“nhóm bên kia” dễ bị mặc cảm tự ti, chủ bại, nghi ngờ về khả năng và giá trị của
bản thân. Cũng vậy, để được nhóm “chiếu cố”, không ít trẻ yếu thế đành chọn con
đường luồn cúi, tự ti, khiến nhân cách bị giảm thiểu.
- Thách đố đối với phát triển nhân cách:
Để có được sự an toàn về mặt tâm cảm, mọi trẻ tiểu học đều cần được nhóm
chấp nhận, cần có được một chỗ đứng cho mình trong nhóm, từ đó xây dựng sự tự
tin (self-esteem). Vì thế trong giáo dục, cần tránh để xảy ra tình trạng nhóm áp đảo
hay bài xích bất kỳ một trẻ nào. Đồng thời cũng cần tạo điều kiện cho những trẻ yếu
hơn có cơ hội khẳng định trước nhóm để có được sự tự tin.
1.2.2.Đặc điểm nhu cầu của trẻ em theo lứa tuổi:
1.2.2.1.Trẻ em từ (0 – 3 tuổi):
Trong giai đoạn này nhu cầu chính của bé rất đơn giản đó chính là được sự
quan tâm chăm sóc của mẹ và những người xung quanh, trong độ tuổi này bé cũng
bắt đầu hình thành những cử chỉ đùa giỡn với những người xung quanh đặc biệt là
mẹ của mình, bé cần không gian và môi trường an toàn, khoáng đãng, không ô
nhiễm về tiếng động và khí thở, có nhiều đồ vật tròn trĩnh nhiều hình ảnh và màu
sắc, dễ thương nhiều màu sắc hài hòa mà hấp dẫn. Ngoài ra, bầu khí tương quan
chung quanh phải nhất thiết là sự trìu mến, yêu thương, hạnh phúc. Giấc ngủ của

Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 12
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
các em có thể được nâng niu bằng âm nhạc, nhất là những điệu ru hời dân gian Việt
Nam và nhạc cổ điển êm dịu của Tây phương
1.2.2.2.Trẻ em từ (3 – 6 tuổi):
Ở độ tuổi này, các bé đã bắt đầu học được rất nhiều từ môi trường bên ngoài
như: ở nhà trẻ hoặc lớp mẫu giáo, nên nhu cầu của trẻ đã trở nên phong phú hơn so
với giai đoạn đầu chẳng hạn như bé thấy một vật hay một đồ chơi mới đẹp từ một
bạn cùng lớp trong nhà trẻ thì trẻ sẽ đòi mua cho bằng được, chứng tỏ rằng nhu cầu
quan sát và biết cái đẹp của bé đã bắt đầu được hình thành, bên cạnh sự hình thành
đó, ở lứa tuổi này sự tiếp thu của trẻ rất nhanh, nên bé rất cần được sụ chia sẻ của
người lớn, đừng bao giờ phớt lờ những câu nói của bé, hãy cho bé được phát biểu
và hãy giúp bé hình thành nên nhu cầu tự khẳng định.
Ngoài ra trong độ tuổi này các có trí tưởng tượng rất phong phú, một minh
chứng mà chúng ta có thể rất rõ ở trí tưởng tượng của trẻ đó là thông qua các trò
chơi đóng kịch của trẻ, chúng tự phân vai cho nhau và tự chơi với nhau hay thông
qua những bức tranh tự vẽ của trẻ chúng ta cũng thấy rõ được điều đó, vì vậy chúng
ta hãy giúp trẻ tự phát triển đừng cắt ngang hay ngăn cấm trẻ vì những lý do sợ bé
bị vi khuẩn bám vào hay sẽ ảnh đến sức khỏe của bé.
Tóm lại từ những điều ở trên thì nhu cầu ở lứa tuổi này, chính là những
chuyến đi dạo công viên, nghỉ mát giữa thiên nhiên bao la trong lành là những dịp
giúp các em mở rộng tâm tình và óc tò mò đến những khái niệm tốt lành, đẹp đẽ, dễ
thương. Ngoài ra Âm nhạc cổ điển hoặc hòa tấu cũng giúp một phần quan trọng để
giúp các em hình thành sự nhân ái dịu dàng,…
1.2.2.3.Trẻ em từ (6 – 11 tuổi):
Giai đoạn này trẻ tiểu học đã có thể tự tìm hiểu được cái gì là thích hợp với
mình nhất. Chẳng hạn như chọn bạn để chơi, trẻ tiểu học thường bị chi phối bởi
những người bạn xung quanh và cứ có một câu nói không tốt cũng có thể dẫn đến
những suy nghĩ không tốt. Nhưng ngược lại các em ở lứa tuổi này lại có những cách
nghĩ rất hồn nhiên. Do vậy nhu cầu vui chơi của các bé cũng dần được nâng cao

hơn. Không chỉ đơn giản là vui chơi với thiên nhiên mà đòi hỏi còn phải có giao
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 13
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
tiếp với mọi người. Các bé thích nơi vui chơi thoải mái và phải có đông đúc bạn bè,
cha mẹ…
Ở giai đoạn này trí não của bé cũng phát triển rất nhanh. Bé tiếp thu rất
nhanh những điều xảy ra xung quanh. Và giai đoạn này, bé bắt đầu hình thành nhân
cách cá tính riêng cho mình. Nhu cầu tự khẳng định bản thân cũng bắt đầu xuất
hiện.
1.3.Khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em:
1.3.1.Khái niệm, đặc điểm và chuẩn mực:
- Giải trí: là một dạng hoạt động của con người đáp ứng nhu cầu phát triển của
con người về thể chất, trí tuệ và mĩ học. Nó không chỉ là nhu cầu của mỗi cá nhân
mà là nhu cầu của đời sống cộng đồng.
- Khu vui chơi-giải trí là nơi vui chơi-giải trí giành cho người dân trong thời
gian nhàn rỗi, được xây dựng tại địa bàn dân cư thuộc phường, xã…
Hay nói cách khác khu vui chơi giải trí là nơi tổng hợp nhiều loại trò chơi
khác nhau, đa dạng về hình thức, phong phú về thể loại, thỏa mãn nhu cầu vui chơi
giải trí của nhiều đối tượng( ở đây chỉ xét đến trẻ em)
- Chức năng của Khu vui chơi-giải trí.
+ Phục vụ và hướng dẫn cho nhân dân (trong đó ưu tiên trẻ em và người cao
tuổi) tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao, các trò chơi trên các thiết bị vui chơi
của trẻ em và vui chơi-giải trí lành mạnh nhằm mục đích nâng cao sức khoẻ và đời
sống tinh thần.
+ Trẻ em là lứa tuổi đang bắt đầu định hình về nhân cách. Do đó, khu vui
chơi giải trí cũng góp phần giúp trẻ rèn luyện, phát triển, hoàn thiện nhân cách theo
định hướng tốt, đúng đắn. Hơn nữa nó còn tạo nên được một sân vui chơi sôi nổi và
thoải mái cho trẻ em và môi trường giải trí văn minh, sạch đẹp, an toàn.
+ Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ và các câu lạc bộ văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hoá, thể

thao.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 14
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
+ Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ngày một tốt hơn, đồng thời phát hiện
năng khiếu, sở thích của quần chúng để có hướng đào tạo, huy động phục vụ cho
các hoạt động văn hoá, thể thao của địa phương.
- Chuẩn mực khu vui chơi giải trí
+ Hoạt động theo đúng quy định của Chính phủ, của chính quyền địa phương
và cơ quan có liên quan
+ Phải đáp ứng được nhu cầu vui chơi của người dân (đặc biệt trẻ em và người
cao tuổi)
+ Đảm bảo được an toàn cho người dân, vấn đề an ninh trật tự luôn được coi
trọng
+ Cơ sở vật chất phải đảm bảo, giúp cho trẻ phát triển và nâng cao sức khỏe
+ Vấn đề vệ sinh và ô nhiễm môi trường được giải quyết
+ Hơn nữa đây tạo nên một sân chơi với những trò chơi giải trí hấp dẫn đáp ứng
phần nào nhu cầu vui chơi của trẻ em.
1.3.2. Các loại hình vui chơi giải trí giành cho trẻ em:
- Loại hình vui chơi giải trí nổi
- Loại hình vui chơi giải trí dưới nước
- Hỗn hợp…
1.3.3.Các loại khu vui chơi giải trí:
- Công viên: là khu vực được bảo vệ các nguồn thiên nhiên tự có hay trồng, một
nơi vui chơi, giải trí đại chúng, các hoạt động văn hóa, hưởng thụ.
Kiến trúc công viên gồm có: cây xanh, ghế ngồi nghỉ mát, các con đường
nhỏ dùng cho người tản bộ, ốc đảo, vườn hoa, các ki ốt, ban quản lý công viên,
nước, hệ thực vật và động vật và các khu vực cỏ v.v.Bảo đảm mọi người ở các lứa
tuổi đều có thể tìm được không gian trong đó cho mình, tính yên tĩnh, thư giãn của
cá nhân.


Mọi người đều có quyền vào nghỉ ngơi, tham quan và hoạt động thể dục
dưỡng sinh trong công viên bình thường, không phải trả bất kỳ một khoản thu nào
nếu không tham gia các dịch vụ giải trí có thu tiền.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 15
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Thường cũng có các công viên được làm theo các đặc thù, loại này thường
nhỏ hơn trong tổ hợp công viên như: công viên nước, công viên cây xanh, công viên
văn hóa, v.v.
- Khu du lịch sinh thái: du lịch sinh thái là du lịch mà chủ yếu là đi đến những
vùng thiên nhiên tương đối chưa ai đụng tới hay chưa bị ô nhiễm với mục đích cụ
thể là nghiên cứu, ngưỡng mộ, và thưởng thức phong cảnh cùng với các loại thực
vật và động vật hoang dã của nó, cũng như bất cứ biểu hiện về văn hóa nào (cả quá
khứ lẫn hiện tại) được tìm thấy trong các vùng này . . . . Điểm chính yếu là người đi
du lịch sinh thái có cơ hội đắm mình vào thiên nhiên theo một cách thức thường
không có sẵn trong môi trường đô thị. Định nghĩa này bao gồm du lịch văn hóa lẫn
du lịch thiên nhiên.
Các định nghĩa khác: Các nhà bình luận khác đã định nghĩa ngành du lịch này hơi
khác. Hầu hết mô tả các hoạt động du lịch được tiến hành hài hòa với thiên nhiên,
tương phản với du lịch "đại chúng" truyền thống. Những người khác tập trung vào
những lợi ích cho người bản địa.
+ Du lịch sinh thái là một cuộc du lịch có trách nhiệm đến những vùng thiên
nhiên mà bảo tồn môi trường và duy trì bền vững phúc lợi của nhân dân địa phương
(Hội Du lịch Sinh thái)
+ Du lịch sinh thái là một trải nghiệm du lịch thiên nhiên mang lại thông tin
bổ ích mà góp phần vào việc bảo tồn hệ thống sinh thái, trong khi đó tôn trọng tình
trạng nguyên vẹn của các cộng đồng chủ nhà (Hội đồng Tư vấn Môi trường
Canada).
+ Du lịch sinh thái là đi du lịch đến những vùng hoang sơ, dễ bị hư hại và
thường được bảo vệ mà cố gắng gây ra tác động rất thấp và (thường) có qui mô nhỏ.
Nó giúp giáo dục người đi du lịch; cung cấp nguồn quỹ cho việc bảo tồn, trực tiếp

làm lợi cho việc phát triển kinh tế và việc trao quyền về chính trị của các cộng đồng
địa phương. Và thúc đẩy sự tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau và các
quyền của con người (Martha Honey – giám đốc Chương trình An ninh và Hòa bình
tại Viện Nghiên cứu về Chính sách)
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 16
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
- Sở thú: là nơi nuôi dưỡng nhiều loại động vật. Ở nơi đó ngoài việc chăm sóc bảo
tồn các loài động vật còn có cả thực vật nữa. Và là nơi thuộc quyền sở hữu của quốc
gia.
- Khu du lịch biển: Là khu vui chơi, giải trí bao gồm biển và phần đất liền gắn với
biển dành cho tất cả mọi đối tượng tham gia.
1.4. Các yếu tố tác động đến đặc điểm và sự phát triển của khu vui chơi giải trí
giành cho trẻ em (đặc điểm khí hậu của địa phương, đất nước, điều kiện tự
nhiên…)
Trong thời đại ngày nay, việc đa dạng hóa các loại hình vui chơi giải trí luôn
được chú trọng ở bất cứ quốc gia nào. Mục tiêu vì trẻ em hôm nay, thế giới ngày
mai được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, khi xây dựng loại hình vui chơi giải trí của
các địa phương không chỉ phụ thuộc vào điều kiện môi trường như khí hậu, điều
kiện tự nhiên của các quốc gia mà còn phụ thuộc vào mật độ dân cư, đặc điểm tâm
lý của người dân ở nước đó. Việc lựa chọn loại hình vui chơi phù hợp với đặc điểm
quốc gia sẽ đáp ứng được nhu cầu người dân trong mọi hoàn cảnh và tạo ra ưu thế
cạnh tranh.
1.4.1.Điều kiện tự nhiên và môi trường:
Đối với việc phát triển và xây dựng khu vui chơi giải trí thì sự phân bố các
tài nguyên(tự nhiên và nhân văn) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đặc biệt, đối với
các khu lịch sinh thái, các công viên…yếu tố tự nhiên góp phần tạo nên lợi thế cạnh
tranh và nét riêng cho khu vui chơi giải trí đó. Bên cạnh đó, khi dựa vào điều kiện
khí hậu sẽ biết được nên hay không nên xây dựng khu vui chơi trí và đặc điểm nào
là phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu người dân và đem lại lợi nhuận. Chẳng hạn như
đối với các nước xích đạo, khí hậu hầu như nóng quanh năm thì các loại hình vui

chơi giải trí dưới nước trở thành sự lựa chọn hàng đầu. Các công viên nước trở
thành điểm vui chơi lý thú của trẻ sau những giờ học ở trường. Là nơi gia đình có
thể thả mình trong dòng nước trong mát trong những ngày nóng nực…
1.4.2.Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân:
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 17
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Bên cạnh điều kiện tự nhiên và môi trường thì số dân, kết cấu tuổi, giới tính, tỉ lệ
gia tăng dân số và sức mua của dân cư sẽ đặt ra những yêu cầu về quy mô phát
triển, nhịp độ tăng trưởng và cơ cấu của các khu vui chơi giải trí. Đặc biệt, tâm lý
của các bậc phụ huynh luôn đặt sự an toàn của con em mình lên hàng đầu. Do đó họ
luôn chọn những trò chơi phát huy tính sáng tạo của trẻ nhưng không quá nguy
hiểm. Bản thân người dân cũng là đối tượng tác động nhiều đến việc hình thành đặc
điểm khu vui chơi giải trí. Mặt khác, lối sống của người dân khác nhau cũng dẫn
đến nhu cầu vui chơi khác nhau. Xu hướng ngày nghỉ cuối tuần ở tại gia đình hay
ngoài trời cũng là một minh chứng.
Ngoài ra, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của dân cư có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc xây dựng và phát triển khu vui chơi giải trí.
1.4.3.Kinh tế:
Nền kinh tế của một đất nước là yếu tố quan trọng góp phần quyết định đến
việc xây dựng và phát triển khu vui chơi giải trí. Trình độ phát triển của nền kinh tế
và năng suất lao động xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất vật chất có ảnh
hưởng rất căn bản tới sự phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có kinh doanh khu
vui chơi - giải trí. Khi năng suất lao động trong nông nghiệp, công nghiệp có cao,
thì mới có thể chuyển một phần lao động sang làm dịch vụ. Đó là một tất yếu theo
quy luật thị trường. Bởi vậy, quá trình phát triển và phân bố các ngành dịch vụ phải
luôn cân đối với trình độ chung của sự phát triển kinh tế đất nước, cân đối với các
ngành sản xuất vật chất. Mặt khác khi tốc độ đô thị hóa phát triển ngày càng nhanh,
đời sống được nâng cao, kinh tế phát triển thì đây là tiền đề để người dân quan tâm
nhiều hơn đến cuộc sống của mình, chú trọng nhiều hơn đến các loại hình dịch vụ.
Xét trên phạm vi thế giới, các nước phát triển, các ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao

hơn trong cơ cấu GDP (trên 60%) trong khi ở các nước đang phát triển, tỉ trọng của
dịch vụ thường chỉ dưới 50%. Do đó điều này tạo ra sự sai lệch trong trình độ và
cấp độ trong việc xây dựng khu vui chơi giải trí. Như vậy, cùng với sự phát triển
kinh tế, mức sống được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày càng được quan
tâm hơn để đáp ứng nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi của người dân sau những giờ lao
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 18
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
động căng thẳng. Chính điều đó đã phần nào đẩy mạnh tốc độ phát triển của loại
dịch vụ này.
1.4.4. Vốn đầu tư:
Tùy mỗi quốc gia, tùy mỗi vùng miền và các điều kiện khác đã tạo nên xu
hướng, tầm nhìn khác nhau của các nhà đầu tư. Chẳng hạn như đối với nước phát
triển, kinh tế tăng trưởng nhanh, chính vì thế dịch vụ cũng được quan tâm nhiều hơn
khi mức sống được nâng cao. Do đó, các dịch vụ khu vui chơi giải trí được đầu tư
phát triển và đem lại lợi nhuận. Bên cạnh đó, các chính sách của chính phủ cũng
phần nào trở thành vật cản, gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi muốn vươn xa.
Khi phải mất chi phí và vốn lớn đặc biệt các loại thủ tục hành chính phiền phức thì
bản thân nhà đầu tư họ trở nên dè dặt hơn và họ chủ động rút lui. Tuy nhên khi
chính sách mở cửa được thực hiện thì mở ra cho nhà đầu tư nhiểu cơ hội cũng như
cách thức đem lại lợi nhuận.
1.4.5.Địa điểm xây dựng:
Khác với các khu công nghiệp được phân bố xa các khu dân cư, thậm chí ở
những nơi xa xôi, hẻo lánh thì khu vui chơi giải trí lại được phân bố gắn bó mật
thiết với sự phân bố dân cư. Các khu vui chơi giải trí phân bố ở ngay trong lòng các
điểm dân cư (thành phố, thị xã, các thị trấn, xã, phường, làng bản…). Chính điều
này đã rút ngắn khoảng cách tiếp xúc của các loại hình vui chơi đến người dân. Mặt
khác nó còn giúp người dân thuận lợi trong đi lại, và tạo ra cảm giác an toàn cho họ.
Điều đặc biệt ở đây là khu vui chơi giải trí luôn được chú trọng phát triển ở các đô
thị hơn các xã phường. Bởi lẽ, môi trường của các thành phố là môi trường nhân
tạo, phần lớn nhu cầu của dân cư được đáp ứng nhờ các nguồn cung cấp từ bên

ngoài vào. Do đó, nhìn chung dân cư thành thị có mức sống cao, có “lối sống thành
thị” và họ quan tâm đến nhu cầu phục vụ bản thân nhiều hơn. Vì vậy, nhu cầu dịch
vụ hết sức đa dạng, hoạt động dịch vụ cực kì phức tạp.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như ô nhiểm môi trường…
1.5 Một số mô hình vui chơi giải trí hiện đại hiện nay:
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 19
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
1.5.1 Khu vui chơi suối tiên:
Khu Vui Chơi Suối Tiên là một khu liên hợp vui chơi giải trí tại Quận 9.
Kiến trúc và các thể loại vui chơi được gắn lồng vào các hình ảnh lịch sử và truyền
thuyết Việt Nam như tượng Lạc Long Quân, Âu Cơ, Vua Hùng, Sơn Tinh Thủy
Tinh, Chín tầng địa ngục Đây là địa điểm thu hút khá lớn lượng khách chơi giải trí
của thành phố. Nhiều trò chơi sôi động và hấp dẫn. Đặc biệt có Vương quốc cá sấu,
biển Tiên Đồng Các công trình xây dựng mới luôn được đầu tư.
1.5.2 Khu vui chơi giải trí Suối Cát:
Khu vui chơi & Giải trí Suối Cát với diện tích trên 33ha, được bao bọc dọc
theo Sông Cát, tọa lạc ngay cửa ngõ vào TP. Phan Thiết, cách bãi biển Tiến Thành
5 phút xe chạy và bãi biển Mũi Né 15km. Đây sẽ là một Khu vui chơi giải trí lý
tưởng, một khu liên hợp được kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và con người mang
đậm phong cách hiện đại.
- Nhà hàng hải sản Đại Dương và nhà hàng công nghệ tiệc cưới với sức chứa hơn
2000 khách, được thiết kế theo mô hình một chiếc thuyền làm cho không gian đặc
sắc và lãng mạn tạo cảm giác thoải cho du khách
- Khu café bar nhạc sống được thiết kế theo mô hình một nốt nhạc khổng lồ.
- Café sân vườn nằm dọc theo sông Cát.
- Karaoke và Bida.
- Ngoài ra còn có một hệ thống xe bus phục vụ nhu cầu đi lại của người dân địa
phương và khách du lịch.
- Trò chơi trong nhà và ngoài trời.
- Khu dã ngoại với diện tích trên 5ha, nằm trong vườn Đào gần sông Cát thoáng

mát, rất thích hợp cho các buổi dã ngoại ngoài trời, những chuyến về nguồn tìm
hiểu về thiên nhiên.
- Làng nghề truyền thống.
- Khu mua sắm du lịch có diện tích một ha với hàng ngàn mặt hàng đặc sản trên
toàn quốc và những tặng phẩm độc đáo mang đậm bản sắc truyền thống của dân
tộc.
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 20
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
- Khu công viên nước với những trò chơi cảm giác mạnh.
- Khách sạn cao cấp 3 sao với đầy đủ tiện nghi.
- Một cụm resort 5ha với 100 phòng 4 sao cao cấp, nằm dọc theo sông Cát cũng
đang được thực hiện, sớm đưa vào hoạt động nhằm tạo thêm tính liên hoàn cho
quần thể du lịch, ẩm thực và vui chơi giải trí lý tưởng này.
Ngoài ra hiện nay còn có rất nhiều khu vui chơi nổi tiếng khác
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ KHẢO SÁT NHU CẦU VUI
CHƠI GIẢI TRÍ DÀNH CHO TRẺ EM TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG:
2.1 Khái quát chung về thành phố Dà Nẵng:
2.1.1 Dân sô, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
2.1.1.1 Dân số :
Đà Nẵng là một trong những thành phố trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của
miền Trung và cả nước. Với các chức năng cơ bản là một trung tâm công nghiệp,
thương mại, du lịch và dịch vụ - trung tâm bưu chính viễn thông, tài chính, ngân
hàng - là một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo - trung
tâm khoa học công nghệ của miền Trung… Đà Nẵng đang ngày càng hoàn thiện
mình hơn. Xét về dân số Đà Nẵng trong những năm gần đây có sự biến động không
lớn.
Năm 2007 2008 2009
Thành phố Đà Nẵng 806 744 822 339 876 545
I. Các quận nội thành 699 836
1. Hải Châu 195 106 196886 208.281

Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 21
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
2. Thanh Khê 167 287 169268 159.272
3. Sơn Trà 119 969 122992 /
4. Ngũ Hành Sơn 54 066 55053 /
5. Liên Chiểu 95 088 100051 /
6. Cẩm Lệ 68 320 70052 71.429
II. Các huyện ngoại thành 106 910 154.300
1. Hòa Vang 106 910 108037 154.300
2. Hoàng Sa
(Theo số liệu của cục thống kê thành phố Đà Nẵng)
Qua số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng dân số bình quân hằng năm trong
khoảng thời gian từ 1999 đến nay là 2,6%, xếp thứ 6 trên cả nước về tốc độ tăng
dân số. Mặt khác, trong vòng chưa tới 3 năm dân số Đà Nẵng đã tăng thêm hơn 60
ngàn người. Là một đô thị đang trên đà phát triển mạnh, tốc độ đô thị hóa cao, đời
sống ngày càng cải thiện tạo nên động lực thúc đẩy dân số Đà Nẵng tăng nhanh
trong những năm qua.
Trước đây thành phố Đà Nẵng có kết cấu dân số trẻ nhưng qua nhiều năm tăng
trưởng và phát triển, cơ cấu dân số đã chuyển dịch theo hướng mới. Ở giữa mức dân
số trẻ và dân số già, cơ cấu dân số đã ảnh hưởng đến nguồn cung cấp lao động. Đặt
ra thách thức về tạo công ăn việc làm, đào tạo nghề và đặc biệt là chất lượng của
nguồn lao động. Tỷ suất sinh và chết giảm, tỷ lệ tăng cơ học cao chính là nguyên
nhân chủ yếu tạo nên sự thay đổi. Đà Nẵng bước vào thời kỳ này từ khi tỷ lệ phụ
thuộc của dân số Đà Nẵng ở mức 50/100. Điển hình là tỷ lệ phụ thuộc trong năm
2008 là 56,1. Tức là có 56 người ngoài tuổi lao động trên 100 người trong tuổi lao
động. Bên cạnh đó, cơ cấu dân số theo giới tính cũng là vấn đề đáng lo ngại. Bởi
thành phố Đà Nẵng có sự gia tăng dân số nam lớn nhất cả nước. Mong muốn quy
mô gia đình nhỏ cùng với tư tưởng truyền thống thích con trai là các yếu tố góp
phần gia tăng tỷ số giới tính khi sinh. Điều tra năm 2008 cho thấy, xu hướng gia
tăng tỷ lệ giới tính khi sinh trong vòng 3 năm vừa qua từ 110 lên 112 số trẻ em trai

được sinh ra trên 100 số trẻ em gái. Điều đó đã ảnh hưởng đến nguồn cung cấp lao
động cho các doanh nghiệp.
Tình trạng dân nhập cư trong những năm gần đây cũng ngày càng gia tăng và
phần lớn trong độ tuổi lao động. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, số lượng các
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 22
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và các khu công nghiệp mở ra
ngày càng nhiều đã thu hút một số lượng lớn dân cư từ các vùng khác đến. Tạo điều
kiện và động lực cho kinh tế địa phương phát triển. Nhưng cũng đồng thời đặt ra
thách thức về vấn đề quản lý đô thị, an ninh trật tự và giao thông…
2.1.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
-Địa hình:
Thành phố Đà Nẵng có diện tích: 1.257,3 km². Gồm 6 quận và 2
huyện(quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ
và huyện Hoà Vang, Hoàng Sa). Đà Nẵng nằm ở trung độ đất nước, phía bắc giáp
tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển
Đông. Địa hình thành phố Đà Nẵng khá đa dạng: phía bắc là đèo Hải Vân hùng vĩ,
vùng núi cao thuộc huyện Hòa Vang (phía tây bắc của tỉnh) với núi Mang 1.708m,
núi Bà Nà 1.487m. Phía đông là bán đảo Sơn Trà hoang sơ và một loạt các bãi tắm
biển đẹp trải dài từ bán đảo Sơn Trà đến bãi biển Non Nước. Phía nam có núi Ngũ
Hành Sơn. Ngoài khơi có quần đảo Hoàng Sa với ngư trường rộng lớn. Điều đó tạo
nên lợi thế cho Đà Nẵng trong việc vận chuyển và phân phối hàng hóa. Tạo tiềm
năng lớn trong việc phát triển kinh tế và du lịch
Bên cạnh đó, Đà Nẵng có khu vực cảng Đà Nẵng với cảng biển Tiên Sa (cảng sâu)
và 9 cầu cảng dọc sông Hàn, có sân bay quốc tế Đà Nẵng, có hệ thống thông tin liên
lạc hiện đại. Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục đường bộ, đường sắt, đường thủy và
đường hàng không của cả nước và khu vực. Đây còn là nơi hội tụ các xí nghiệp lớn
của các ngành dệt, sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ
khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Đà Nẵng còn là nơi được thiên nhiên
ưu đãi với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như núi Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, đèo

Hải Vân, bán đảo Sơn Trà và có thể bơi lội thoả thích ở các bãi biển đẹp, cát trắng
mịn kéo dài hàng chục ki lô mét. Tiềm năng du lịch của vùng đất Đà Nẵng thật to
lớn. Nguồn tài nguyên khoáng sản thì vô cùng đa dạng và phong phú.
- Khí hậu:
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 23
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao
khắc nghiệt và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí
hậu miền Bắc và miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới điển hình ở phía Nam.
Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ
tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và
không kéo dài. Bên cạnh đó, còn có những trận bão chủ yếu vào tháng 9 và 10 gây
thiệt hại lớn cho thành phố. Điều kiện khí hậu còn ảnh hưởng lớn đến công nghiệp
chế biến hải sản và tính mùa vụ của sản phẩm.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,90C; cao nhất vào các tháng 6, 7,
8, trung bình từ 28-30
0
C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình từ 18-23
0
C.
Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500m, nhiệt độ trung bình khoảng 20
0
C.
Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%; cao nhất vào các tháng 10, 11, trung
bình từ 85,67 - 87,67%; thấp nhất vào các tháng 6, 7, trung bình từ 76,67 - 77,33%.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.504,57 mm/năm; lượng mưa cao nhất vào
các tháng 10, 11, trung bình từ 550 - 1.000 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 1, 2,
3, 4, trung bình từ 23-40 mm/tháng. Số giờ nắng bình quân trong năm là 2.156,2
giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6, trung bình từ 234 đến 277 giờ/tháng; ít nhất là
vào tháng 11, 12, trung bình từ 69 đến 165 giờ/tháng.

2.1.2 Điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội:
2.1.2.1 Về kinh tế:
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm
2009
1. Dân số trung bình-1000 người 806 744 822.300
2. Lực lượng lao động xã hội-1000
người
399,5 225,003
3. Thu nhập bình quân đầu người
4. Tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn
GDP (giá thực tế)-%
11,35 11,04 11,2
5. Giá trị sản xuất công nghiệp (Giá
94)-Tỷ đồng
9 682,1 11368 14486
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 24
Bài Nghiên Cứu Khoa Học GVHD: Hồ Tấn Tuyến
6. Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
(Giá 94)-tỷ đồng
654,3 639,76 634
7. Thực hiện vốn đầu tư phát triển-Tỷ
đồng
11 416,5 13219 15300
8. Tổng mức bán hàng hóa, dịch vụ xã
hội-Tỷ đồng
14 818 18487 21.500
9. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn-
Triệu USD
469,6 905,4 1005
Nhìn chung sự biến đổi của GDP và GNP của nền kinh tế trong ba năm 2007,

2008, 2009 ít biến động. Kinh tế thành phố vẫn duy trì được sự tăng trưởng nhưng
tốc độ tăng không cao. Năm 2008, với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu phần nào
đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế thành phố Đà
Nẵng nói riêng. Sự đổ vỡ của các công ty tài chính hàng đầu của Mỹ và tình hình
các nước Châu Á duy trì việc áp thuế chống bán phá giá với mặt hàng giày da của
nước ta đã một phần làm ảnh hưởng đến việc xuất khẩu và sản xuất trong nước, đến
cán cân thanh toán quốc tế, trong đó có Đà Nẵng. Thu nhập bình quân, GDP bình
quân đầu người cũng biến động theo tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. Mặc dù tăng so
với các năm trước nhưng so với các nước trong khu vực và thế giới thì khoảng cách
vẫn khá xa và không được đồng bộ trong bộ phận người dân.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia. Là chỉ số
đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Theo Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ,
năm 2007, các dòng vốn đầu tư FDI đổ vào Việt Nam, tăng trưởng tín dụng khá cao
cùng với thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ đã gây ra diễn biến phức
tạp trong nền kinh tế. Ở các nước khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là
nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương
thực cũng tăng do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào.
Tình hình lạm phát 2008 ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến
nhiều tiêu cực trong nền kinh tế nước ta . Số người nghèo gia tăng tỷ lệ thuận với tỷ
Phát triển khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại TP Đà Nẵng Trang 25

×