Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

những thách thức của môi trường thế giới và việt nam và các biện pháp quản lý nhà nước chủ yếu để giảm thiểu các thách thức đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.7 KB, 36 trang )

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
Cơ sở TP. Hồ Chí Minh
oo0oo
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
Đề tài: NHỮNG THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHỦ YẾU ĐỂ GIẢM THIỂU CÁC THÁCH THỨC ĐÓ.
GVHD: PGS.TS.NGUYỄN ĐỨC LƯƠNG
MỤC LỤC
2
Kỷ nguyên của sự thay đổi khí hậu đang đến gần, làm thế nào để con
người chúng ta có thể chế ngự và tiếp tục tồn tại. Và tới năm 2101, không biết
bằng cách nào mà loài người đã sống sót được qua thời kỳ tồi tệ nhất của tình
trạng ấm lên toàn cầu – nhiệt độ cao, mực nước biển dâng lên, hạn hán và bão
lũ khắc nghiệt, không những thế loài người còn thành công trong việc ổn định
khí hậu Trái đất. Nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính đã vượt qua đỉnh cao
nhất và có chiều hướng đi xuống trong thế kỷ 22. Sự gia tăng nhiệt độ Trái đất
đã chậm lại và thế giới tự nhiên đang dần dần được phục hồi. Xã hội được giữ
vững. Và con người lúc này thì có cuộc sống no đủ, khỏe mạnh và thịnh vượng
hơn thế kỷ trước.
Viễn cảnh tương lai này đã đặt ra một câu hỏi lớn: Chúng ta phải làm gì
trong thế kỷ 21 – đặc biệt là trong năm 2010 và những năm tiếp theo – để có
được một tương lai tươi đẹp và chế ngự hoàn toàn các thảm họa khí hậu mà các
nhà khoa học đang chỉ ra. Các nhà khoa học cảnh báo rằng, chúng ta chỉ còn
một vài năm để đảo ngược tình trạng gia tăng phát thải các khí nhà kính nhằm
tránh những biến đổi khí hậu bất ngờ và thảm khốc.
Chúng ta đang hy vọng sẽ thúc đẩy cuộc đàm phán giữa các quốc gia
về vấn đề khí hậu bằng việc nêu ra những hậu quả sâu sắc và lâu dài do những


việc loài người đã làm với khí quyển Trái đất, trong đó đặc biệt nhấn mạnh
những ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến sức khỏe con người và hệ sinh thái tự
nhiên. Đó là khả năng tạo ra những ngành công nghiệp mới, những ngành nghề
mới ở cả những nước giàu và nước nghèo.
Tình hình kinh tế xã hội nước ta trong thời gian qua, đặc biệt là từ khi
thực hiện chính sách đổi mới đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân trong 10 năm gần đây là 7 %. Cơ cấu của nền
kinh tế đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các
3
lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, giáo dục, văn hóa xã hội cũng đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng, và đặc biệt công tác bảo vệ môi trường đã thu được
những thành công bước đầu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau trong
quá trình phát triển cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường nghiêm
trọng. Môi trường đất, nước, không khí đã và đang bị suy gảm, đa dạng sinh
học bị cạn kiệt; môi trường biển, ven bờ và hải đảo đã có dấu hiệu xuống cấp,
sự cố môi trường có chiều hướng ngày một gia tăng, gây nên những thách thức
môi trường nghiêm trọng.
Thách thức môi trường đang là vấn đề sống còn của nhân loại, ảnh
hưởng lớn đến công cuộc phát triển của tất cả các nước trên thế giới và cả nước
ta. Biểu hiện cụ thể nhất là trong vài thập kỷ trở lại đây, con người đã và đang
phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do thiên tai gây ra. Đông đất ở
Trung Quốc, sóng thần ở Thái Lan, bão Catina ở Mỹ, lũ lụt, bão tố liên tục xảy
ra ở nước ta, đặc biệt là đợt rét đậm, rét hại năm 2008 đã gây thiệt hại về
người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống con người.
Thách thức môi trường không chỉ đơn thuần là vấn đề về môi trường mà còn là
vấn đề về phát triển, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa
học, nhiều nhà quản lý và các chính khách trên thế giới. Thách thức môi trường
đang từng ngày, từng giờ đe dọa đến hòa bình và an ninh tòan cầu, đe dọa
nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế
giới; trong đó có Việt Nam. Vậy môi trường là gì, nó có vai trò như thế nào đối

với con người; thách thức môi trường gây tác hại như thế nào, làm gì để giảm
thiểu thiệt hại của thách thức môi trường. Đó là những vấn đề được làm sáng tỏ
trong bài viết này với các nội dung chủ đạo như sau:
- Tìm hiểu khái quát về môi rường;
- Những thách thức về môi trường Việt Nam và thế giới;
- Một số giải pháp nhằm hạn chế thách thức về môi trường.
4
Do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu hạn chế nên người viết
khó lòng trình bày một cách tường minh các vấn đề nêu trên. Vì thế, tiểu luận
này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong sự thông cảm của thầy hướng dẫn.
5
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ MÔ TRƯỜNG
I. MÔI TRƯỜNG:
1. Khái niệm:
Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên
ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định
xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp,
trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ
thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó.
Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố
tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động
đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật,
xã hội loài người và các thể chế.
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều
kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao
quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Khái niệm chung về môi trường nói trên được cụ thể hóa đối với từng đối
tượng và mục đích nghiên cứu. Đối với cơ thể sống thì môi trường sống là tổng
hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến đời sống và phát triển của cơ

thể. Đối với con người thì môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý,
hóa học, sinh học bao quanh con người, ảnh hưởng đến sự sống và sự phát triển
của từng cá nhân, từng cộng đồng và tòan bộ loài người trên hành tinh. Luật
Bảo vệ môi trường Việt Nam ( 10/01/1994 ), đã qui định : “ Môi trường bao
gồm các yếu tố tự nhiên, yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với
6
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn
tại và phát triển của con người và thiên nhiên”. Như vậy, từ khái niệm về
môi trường, thành phần của nó bao gồm các yếu tố : không khí, nước, đất, âm
thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, hệ sinh thái, các
khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật thể khác.
Môi trường sống của con người được phân thành: môi trường thiên
nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo. Môi trường thiên nhiên bao
gồm các nhân tố tự nhiên, vật lý, hóa học ( gọi chung là một trường vật lý ),
sinh học tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người, hoặc ít chịu sự chi
phối của con người. Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa các cá
thể, cộng đồng người, hợp thành quốc gia, xã hội, từ đó tạo nên các hình thái,
tổ chức, các thể chế kinh tế xã hội. Môi trường nhân tạo bao gồm các nhân tố
vật lý, sinh học, xã hội do con người tạo nên và chịu sự chi phối của con người.
Ba loại môi trường này tồn tại đan xen với nhau và tương tác chặt chẽ cùng
nhau.
2. Một số quan niệm về môi trường:
a. Theo Khoa học về sự sống
• Trong sinh vật học, môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các
yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể
sống và xác định các hình thức sinh tồn của chúng. Vì thế, môi trường
bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi
chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng,
không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác. Xem thêm môi trường tự

nhiên.
7
• Trong kiến trúc, khoa học lao động và bảo hộ lao động thì môi trường là
toàn bộ các yếu tố trong phòng hay của tòa nhà có ảnh hưởng đến tình
trạng sức khỏe và hiệu quả làm việc của những người sống trong đó—
bao gồm kích thước và sự sắp xếp không gian sống và các vật dụng, ánh
sáng, sự thông gió, nhiệt độ, tiếng ồn, v.v. Nó cũng có thể nói đến như là
tập hợp của kết cấu xây dựng. Xem thêm môi trường kiến trúc.
• Xem thêm địa lý để biết thêm về chủ thể được nghiên cứu của môi
trường. Trong các sách báo phương Tây có thuật ngữ viết tắt như SOSE
(Studies of Society & the Environment) không chỉ là các nghiên cứu về
môi trường mà còn là của các bộ môn khoa học xã hội.
• Trong tâm lý học, môi trường luận là một học thuyết cho rằng môi
trường (trong ý nghĩa chung cũng như trong ý nghĩa xã hội) đóng vai trò
quan trọng hơn di truyền trong việc xác định sự phát triển của cá nhân.
b. Theo Khoa học tự nhiên
• Trong nhiệt động lực học, môi trường được hiểu như là bất kỳ một khách
thể nào không phải là một bộ phận của hệ thống đang nghiên cứu, và nó
có thể nhận nhiệt từ hệ thống hay cung cấp ngược lại cho hệ thống; xem
thêm môi trường (nhiệt động lực học).
• Trong hóa học và hóa sinh học, môi trường là tính chất hóa học của dung
dịch trong đó phản ứng hóa học diễn ra, chủ yếu là chỉ số pH của nó (tức
là dung dịch mang tính axít hay tính kiềm).
• Trong luyện kim và gốm sứ, môi trường thông thường được nói đến như
là đặc trưng mang tính ôxi hóa hay khử của luồng hơi đốt hay lửa chủ
đạo trong một số công nghệ sử dụng nhiệt độ cao.
8
c. Theo Nghệ thuật tự do và khoa học xã hội
• Trong ngữ cảnh phi kỹ thuật, chẳng hạn như chính trị, môi trường thông
thường được nói đến là môi trường tự nhiên, là một phần của thế giới tự

nhiên mà được coi là có giá trị hay quan trọng đối với loài người vì bất
kỳ lý do nào. Xem thêm môi trường tự nhiên.
• Trong văn học, lịch sử và xã hội học, môi trường là nền văn hóa mà trong
đó các cá nhân sinh sống hay được giáo dục cũng như là các cá nhân
khác và các thiết chế về quan hệ xã hội mà cá nhân đó tiếp xúc và tương
tác. Xem thêm môi trường xã hội.
• Trong các tổ chức và cơ quan, môi trường được coi là các điều kiện xã
hội và tâm lý mà các thành viên của các tổ chức này cảm nhận được.
Xem môi trường công việc.
• Trong bất kỳ cuộc họp mặt hay hội nghị nào, môi trường có thể coi là
biểu hiện của tâm trạng hay sở thích chủ đạo của những người tham dự.
• Trong thế giới tưởng tượng, đặc biệt là trong khoa học viễn tưởng môi
trường có thể là thế giới viễn tưởng nào đó hay những khung cảnh mà
trong đó các câu chuyện khác nhau được đưa ra. Xem thế giới viễn
tưởng.
d. Theo Khoa học máy tính và thông tin
• Trong khoa học máy tính, môi trường có nghĩa chung là các dữ liệu, tiến
trình hay thiết bị mặc dù không được đặt tên gọi một cách rõ ràng như là
các tham số của ngành khoa học tính toán, nhưng có thể ảnh hưởng tới
đầu ra của nó.
• Trong lập trình chức năng

, phép tính lambda

và các ngôn ngữ lập trình,
môi trường thông thường có nghĩa là các từ định danh đã được định
9
nghĩa ngoài hàm

đã cho nhưng có thể được sử dụng trong nó. Nói cách

khác, môi trường là mọi thứ có phạm vi tổng thể hay không cục bộ đối
với hàm đó.
• Trong một số hệ điều hành như Unix, DOS

và Microsoft Windows, môi
trường là một tập hợp của các biến môi trường

trong dạng var=giá trị
được sử dụng bởi các ứng dụng và thư viện để tác động tới các ưu tiên
tiêu chuẩn.
• Tổng quát hơn, môi trường còn có nghĩa là các phần cứng và hệ điều
hành mà trong đó các chương trình được thực thi; xem thêm nền tảng hệ
thống máy tính

.
II. CHỨC NĂNG CỦA MÔI TRƯỜNG:
1. Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn
tại và phát triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm,
nước, nhà ở cũng như các hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu
này đều do môi trường cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó
của con người là có giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc
gia và ở từng thời kì.
2. Môi trường là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người như đất,
đá, tre, nứa, tài nguyên sinh vật. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường
cung cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc và mức độ khan hiếm và giá trị
của nó trong xã hội. - Môi trường là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của
con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi trường. Các tài
nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các
chất thải. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy
thành các chất vô cơ, vi sinh quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức

năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường là có giới hạn. Nếu con người
10
vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi
trường.
3. Môi trường có chức năng, vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của con người cũng như thiên nhiên. Trong đó chức năng quan trọng nhất
đối với đời sống và sự phát triển của xã hội loài người là : không gian sống của
con người; nơi hình thành và tích lũy nguồn tài nguyên thiên nhiên; nơi chứa
đựng và đồng hóa chất thải. Vì vậy, con người sống hòa hợp với thiên nhiên,
bảo vệ môi trường, chính là giữ gìn và bảo vệ cuộc sống của chính mình. Tuy
nhiên, để tồn tại và phát triển, con người phải sản xuất, phải cần khai thác, sữ
dụng tài nguyên thiên nhiên; và trong sinh hoạt hàng ngày, con người đều thải
chất thải vào môi trường. Nhưng khả năng đồng hóa của môi trường thì có giới
hạn; cho nên dòi hỏi con người phải khai thác và sữ dụng tài nguyên hợp lý
cũng như hạn chế việc thải chất thải vào môi trường. Song do nhiều nguyên
nhân khác nhau của quá trình phát triển, đã phát sinh nhiều vấn đề về môi
trường hết sức nghiêm trọng, gây ra những thách thức môi trường đe dọa đến
sự sống còn của con người.
11
PHẦN II
NHỮNG THÁCH THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Trong bối cảnh chung của thế giới và Việt Nam, môi trường sống của
chúng ta đang đứng trước những thách thức sau đây:
I. TÀI NGUYÊN BỊ SUY THOÁI:
1. Diện tích rừng đang bị suy giảm nghiêm trọng:
Trước đây trên thế giới có 60 triệu Km
2
rừng. Năm 1958 còn 44 triệu
km

2
năm 1973 còn 33,37triệu km
2
, nay còn 29 triệu km
2
gồm 1/3 rừng ôn đới,
2/3 rừng nhiệt đới. Ở Việt Nam, theo số liệu của Bộ Tài nguyên - Môi trường,
sau 50 năm, diện tích rừng nước ta từ 14,2 triệu ha ( năm 1948 ), chiếm 43,5 %
diện tích tự nhiên, giảm còn 8,6 triệu ha vào năm 1993. Tỷ lệ mất rừng ở nước
ta vào loại cao nhất thế giớ. Tỉ lệ mất rừng bình quân 150.000-200.000 m. Ở
một số vùng, rừng tự nhiên đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Ở Tây nguyên, diện
tích rừng bị mất hàng năm cao hơn rừng trồng.Mặt khác chất lượng rừng tự
nhiên ngày càng giảm. Tỷ lệ rừng giàu hiện nay ở nước ta thấp, chỉ chiếm hơn
9 %. Rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn vẫn bị chặt phá nghiêm trọng, gây lũ lụt
và xói lỡ đất. Một số địa phương luôn là điểm nóng về khai thác rừng trái phép
như Bình thuận ( Tánh linh ), Đắk lăk….
2. Đất bị suy thóai:
Trong vòng 20 năm tới đất đai của khoảng 100 nước đang biến đổi thành
hoang mạc.Sa mạc Sahara hằng năm tăng 5 -7km
2
, 25 tỉ tấn đất bị xói mòn trôi
ra biển. Tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên dẫn đến cạn kiệt và ảnh hưởng
lớn đến môi trường . Chẳng hạn tình trang khai thác cát dưới lòng sông. Ước
12
tính mỗi ngày có từ 70.000 - 150.000m
3
cát bị khai thác. Tình trạng tận thu cát
sỏi lòng sông Đồng Nai đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cát, gây sạt lở hàng
trăm ngàn mét vuông đất. Tình trang hủy hoại môi trường không thể chấm dứt
nếu chính quyền các địa phương còn thờ ơ ( nguồn Báo tuổi trẻ chủ nhật số 33-

2004)


3. Tài nguyên nước kiệt quệ:
Tài nguyên nước mặt bao gồm nước trong các biển, sông, suối, ao hồ.
Các nhà khoa học tính tóan rằng trong số 1.386 x 10 triệu km
3
nước bao phủ
trái đất chỉ có 2,5 % nước ngọt nhưng con người cũng chỉ sữ dụng được 2,6 %
vì còn lại ở dạng đóng băng và nước biển. Tuy nhiên do quá trình khai thác, sữ
dụng không hợp lý nên hiện nay tài nguyên nước đang bị kiệt quệ và ô nhiểm
nghiêm trọng. Trên thế giới hiện nay gần 20% dân số không có nước sạch để sử
dụng, 50 % sữ dụng nước không an tòan. Theo UNCEF, hằng năm có hơn 118,9
triệu trẻ em toàn cầu mắc bệnh có liên quan đến đường ruột do thiếu nước sạch.
Việc khai thác nguồn nước ngầm quá mức trong thời gian qua làm mực nước
ngầm hạ thấp, suy giảm trữ lượng, có thể làm mất khả năng phục hồi của nước
ngầm, tăng xâm nhập nước mặn gây sụt lở đất, hư hại công trình xây dựng, làm
trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt, ô nhiễm tầng nước ngầm. Hiện nay, hậu
quả của sự cạn kiện nước dẫn đến một số sông không còn dòng chảy, nhiều hồ
nướ c bị cạn kiệt ( Nghệ An cạn 579 hồ, Quảng Bình cạn 110 hồ, Quảng Trị cạn
85 hồ. Tình trạng này khiến 898.962 ha lúa bị hạn (chiếm 12% diện tích cả
nước), trong đó có 122.081 ha bị mất trắng Năm 2005 Đắc Lắc mất trắng
19.000 ha ngô, 10.000 ha đậu, lạc, vải, 1061 ha lúa nước, diện tích cà phê khô
hạn 68.406ha. Tổng thiệt hại hơn 200 tỉ đồng.
4. Suy giảm đa dạng sinh học:
Loài người đã làm thay đổi các hệ sinh thái một cách hết sức nhanh
chóng trong khoảng 50 năm qua, nhanh hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đây. Diện
13
tích các vùng hoang dã đã được chuyển đổi thành đất nông nghiệp, chỉ tính
riêng từ năm 1945 đến nay đã lớn hơn cả trong thế kỷ thứ 18 và 19 cộng lại.

Tất cả những điều đó đã gây nên những sự mất mát về đa dạng sinh học trên
thế giới một cách nghiêm trọng không thể nào đảo ngược được, trong đó có
khoảng 10 đến 30% số loài chim, thú và bò sát hiện đang có nguy cơ bị tiêu
diệt. Các chuyên gia cũng cảnh báo rằng sự biến đôi khí hậu, biến đổi của các
hệ sinh thái, như suy thoái rừng, sẽ gây thêm bệnh tật cho con người, như bệnh
sốt rét, bệnh tả, và cả nguy cơ bùng nổ của nhiều bệnh mới. Bảo vệ rừng không
chỉ có ý nghĩa bảo tồn đa dạng sinh học mà còn để cung cấp nước ngọt và giảm
bớt khí CO2 phát thải. (Chương trình Đánh giá thiên niên kỷ về hệ sinh thái,
Millenium Ecosystem Assessment (MA) Synthesis Report, 2005).
Sự xâm nhập của các loài ngoại lai đang tăng lên với tốc độ đáng lo ngại
do tăng nhanh các hoạt động buôn bán hàng hoá và các loài sinh vật một cách
rộng rãi trên thế giới. Sự xâm nhập của các loài ngoại lai (như ốc bươu vàng
hay cây mai dương ở nước ta) hiện đang là mối đe dọa lớn nhất lên tính ổn định
và đa dạng của các hệ sinh thái, chỉ sau nguy cơ mất sinh cảnh. Các đảo nhỏ và
các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt là nhũng nơi bị tác động nhiều nhất. Mất
đa dạng sinh học ngày nay đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có,
kể từ thời kỳ các loài khủng long bị tiêu diệt cách đây khoảng 65 triệu năm và
tốc độ biến mất của các loài hiện nay ước tính gấp khoảng 100 lần so với tốc
độ mất các loài trong lịch sử Trái đất, và trong những thập kỷ sắp tới mức độ
biến mất của các loài sẽ gấp 1.000 -10.000 lần (MA 2005) . Có khoảng 10%
các loài đã biết được trên thế giới đang cần phải có những biện pháp bảo vệ,
trong đó có khoảng 16.000 loài được xem là đang có nguy cơ bị tiêu diệt.
Trong số các loài thuộc các nhóm động vật có xương sống chính đã được
nghiên cứu khá kỹ, có hơn 30% các loài ếch nhái, 23% các loài thú và 12% các
14
loài chim (IUCN 2005), nhưng thực tế số loài đang nguy cấp
lớn hơn rất nhiều.
Tình trạng nguy cấp của các loài không phân bố đều giữa các vùng trên
thế giới. Các vùng rừng ẩm nhiết đới có số loài nguy cấp nhiều nhất, trong đo
có nước ta, rồi đến các vùng rừng khô nhiệt đới, vùng đồng cỏ miền núi. Sự

phân bố của các loài nguy cấp nước ngọt chưa được nghiên cứu kỹ, nhưng kết
quả nghiên cứu ở một số vùng cho biết rằng các loài ở nước ngọt nhìn chung có
nguy cơ bị tiêu diệt cao hơn rất nhiều so với các loài ở trên đất liền (Smith và
Darwall 2006, Stein và cs. 2000). Nghề khai thác thuỷ sản đã bị suy thoái
nghiêm trọng, và đã có đến 75% ngư trường trên thế giới đã bị khai thác cạn
kiệt hay khai thác quá mức ( GEO 4, 2007 ).Nguyên nhân mất mát đa dạng sinh
học chính là mất nơi sinh sống và nơi sinh sống bị phân cách; khai thác quá
mức các loài hoang dã; xâm nhập của các loài ngoại lai; ô nhiễm; và thay đổi
khí hậu toàn cầu hiện nay được xem là một nguyên nhân nghiêm trọng chưa thể
lường trước được. Sự giảm bớt số các loài được nuôi trồng, đồng thời đã làm
giảm nguồn gen trong nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi.
Ước tính đã có khoảng 60% khả năng dịch vụ cho sự sống trên Trái đất
của các hệ sinh thái – như nguồn nước ngọt, nguồn cá, điều chỉnh không khí và
nước, điều chỉnh khí hậu vùng, điều chỉnh các thiên tai và dịch bệnh tự nhiên
đã bị suy thoái hay sử dụng một cách không bền vững. Các nhà khoa học cũng
đã cảnh báo rằng tác động tiêu cực của những suy thoái nói trên sẽ phát triển
nhanh chóng trong khoảng 50 năm sắp tới. (Hans van Ginkel, 2005).
Biến đổi khí hậu toàn cầu : Ngoài những những biến đổi lý sinh học nói
trên, hiện nay chúng ta còn đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề bức xúc gây
ra do khí hậu của Trái đất đang tăng lên một cách đột ngột do sự thay đổi thành
phần hoá học của khí quyển, trong tình trạng mất mát đa dạng sinh học và suy
15
thoái các hệ sinh thái như báo cáo của Ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
(IPCC) 2001, 2007 và MA, 2005 đã nêu lên.
Trên trái đất chúng ta có 1,4 triệu loài sinh vật nhưng hiện nay đều đang
bị đe dọa nghiêm trọng. Rừng nhiệt đới mất 17.000 loài/ năm. Chim, thú bị tiêu
diệt gấp 100-1.000 lần tự nhiên.
Ở nước ta,vùng biển Ninh Thuận chỉ còn 3 loài rùa sinh sống là vích, đồi
mồi, rùa xanh. Số lượng rùa hiện nay giảm 80-90% so với 25 năm về trước.
Năm 2001, quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) phối hợp Sở Khoa học công

nghệ- môi trường Ninh Thuận thực hiện dự án bảo vệ rùa biển dựa vào ý thức
cộng đồng ( nguồn : báo Tuổi Trẻ Chủ nhật /2003).
Sếu đầu đỏ, một loại chim quý hiếm nằm trong sách đỏ hiện nay còn rất
ít trên thế giới. Tại Việt Nam, sếu đầu đỏ thường về trú ngụ tại vuờn quốc gia
tràm chim (Đồng Tháp và Hòn Chông - Kiên Lương - Kiên Giang). Tại Kiên
Giang đang có dự án làm đầm nuôi tôm sú do đó đang báo động tình trạng sếu
đầu đỏ sẽ không có nơi trú ngụ. Vấn đề đặt ra là “Không nên vì cái lợi trước
mắt để mất môi trường sinh thái’’.
II. KHÍ HẬU TOÀN CẦU BIẾN ĐỔI:
1. Trái đất ngày càng nóng dần lên:
Theo báo cáo của IPCC, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên
gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng
25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Đến năm 2035 nhiệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng
thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% khả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C. Nhiệt độ
bề mặt trái đất sẽ tăng thêm 2 dộ và đến thế kỷ XXI sẽ tăng thêm từ 1,4 – 4 độ.
Nhiệt độ bề mặt tăng lên sẽ làm băng tan và mực nước biển dâng cao. Hệ quả
là nhiều vùng sản xuất lương thực trù phú, các khu vực đông dân cư, các đồng
bằng lớn, các đảo thấp trên trái đất có thể bị ngập chìm trong nước biển. Theo
16
đánh giá của UNDP, Việt Nam nằm trong tốp 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị
tổn thương nhất và tổn thương trực tiếp do quá trình biến đổi khí hậu. Nếu mực
nước biển tăng 1 m thì Việt Nam sẽ mất 5 % diện tích đất đai; khỏang 11 % dân
số mất nhà cửa, giảm 7 % sản lượng nông nghiệp và 10 % thu nhập quốc nội.
Gần 50 % đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ngập chìm
không còn khả năng canh tác. Vùng đồng bằng sông Hồng và tòan bộ dân cư
sống dọc theo 3.200 km bờ biển cũng bị ảnh hưởng lớn.
Báo cáo mới nhất của Tổ chức Môi trường và phát triển GermanWatch
(Đức) cho biết trong năm 2007, thiên tai đã cướp đi sinh mạng của hơn 15.000
người trên thế giới, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người và gây thiệt
hại ước tính lên tới hơn 80 tỷ USD. Ông Sven Harmeling, cố vấn cấp cao của

GermanWatch và tác giả của báo cáo nhấn mạnh: “Kết luận rút ra từ báo cáo
này là các nước nghèo chịu tác động của thiên tai nhiều hơn các nước giàu” và
“người dân nước nghèo có ít khả năng đối phó với thiên tai bất thường hơn
người dân các nước giàu”.
Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng kết : Khỏang 10 năm trở lại đây, Việt
Nam đã phải gánh chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu. Bằng chứng là các
hiện tượng thời tiết cực đoan; thiên tai liên tục xảy ra, gia tăng về cường độ,
qui mô và mức độ, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Tính riêng năm 2006,
thiệt hại do bão gây ra ở Việt Nam lên đến 1,2 tỉ USD. Đặc biệt, mùa đông năm
2007 – 2008, thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày đã làm chết hơn 53.000
gia súc, khỏang 34.000 héc ta lúa xuân đã cấy và hàng chục nghìn héc ta mạ ở
tất cả các tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ bị mất trắng; thiệt hại ước
tính hơn 11.6000 tỉ đồng và 723.900 lượt hộ với hơn 3 triệu nhân khẩu rơi vào
cảnh thiếu ăn. Dịch cúm gia cầm, bệnh lợn tai xanh… đã bùng phát ở nhiều nơi
và tái diễn dai dẵng.
17
Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên với tốc độ như vậy
với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Nguyên nhân trực tiếp của sự biến
đổi khí hậu còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng các nhà khoa học cho rằng :
nguyên nhân trực tiếp của sự biến đổi khí hậu là do phát thải quá mức khí nhà
kính, đặc biệt là khí cácbonic từ việc khí đốt một khối lượng lớn chưa từng có
các nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt trong quá trình phát triển
công nghiệp. Tình trạng phá rừng và khai thác gỗ thiếu bền vững cũng là
nguyên nhân tạo ra hơn 20 % phát thải nhà kính trên tòan cầu. Một số hình
thức canh tác, chăn nuôi, giao thông vận tải, thói quen sữ dụng năng lượng
nhiên liệu không tái tạo và các sản phẩm từ rừng đã làm tăng đáng kể lượng khí
nhà kính, làm cho nhiệt độ trái đất nóng lên, tạo ra sự biến đổi khí hậu trên
tòan cầu
Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, mực nước biển khả năng sẽ
dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21, nếu Việt Nam không nhanh chóng xây dựng

và nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống đê biển để ứng phó, thì hàng năm có đến
40.000km2 vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, trong đó 90% diện tích
đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, thiệt hại về tài sản lên tới 17 tỷ
USD. Đây là nhận định của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC)
của Liên Hiệp quốc.
TS. Lê Xuân Tuấn (Bộ Giáo dục&Đào tạo) cho biết: Xây dựng hệ thống
đê biển luôn được các quốc gia có biển trên thế giới coi đó là giải pháp hữu
hiệu nhất để phòng, chống và thích nghi với bão lụt, ngăn chặn nước biển dâng
và xâm nhập mặn, vừa là phương thức "quai đê lấn biển" mở rộng diện tích đất
ở và canh tác. Điển hình như Hà Lan là quốc gia có địa hình thấp hơn mực
nước biển, song nhờ tạo lập được hệ thống đê biển bao quanh nên đã đối phó
rất hiệu quả với mọi sự tác động của đại dương. Hiện những công trình có tuổi
thọ dài hạn xây dựng ven biển, chính phủ nước này đều bắt buộc trong thiết kế
18
phải tính thêm 50cm do nước biển dâng, nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu
trong những năm tới. Hoặc ở Anh, ngoài việc chuẩn bị xây dựng 9 đê bao bảo
vệ 337km đường ven biển, họ còn lên kế hoạch cụ thể quản lý lũ bảo vệ thủ đô
London và cửa sông Thames trong 100 năm tới, những công trình này tần suất
lũ đều được điều chỉnh thiết kế tăng 20%. Còn đối với Việt Nam, ngay từ đầu
thế kỷ 15, ông cha ta đã xây dựng hệ thống đê biển và nó không ngừng được bổ
sung, nâng cấp qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước. Nhờ đó, đến nay cả
nước đã có 2.800km đê biển thuộc 28 tỉnh, thành phố bao gồm 110 huyện, thị
xã đã và đang phát huy hiệu quả trong công tác phòng chống thiên tai, tạo điều
kiện thuận lợi cho các địa phương có biển phát triển kinh tế xã hội. Song do hệ
thống đê biển của Việt Nam hầu hết đắp bằng đất, nền đất yếu, người dân chủ
động xây dựng thiếu hẳn sự quy hoạch một cách thống nhất và khoa học, nên
nhiều tuyến đê phải đập đi để di dời đắp lại và hiện mới chiếm 42,3% tổng
chiều dài bờ biển nước ta. Do đó, hệ thống đê biển hiện nay mới có khả năng
chống đỡ được những cơn bão từ cấp 9 trở xuống, chưa kể 2 tỉnh Ninh Thuận
và Bình Thuận hầu như chưa có đê biển. Vì vậy, năm 2006 Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 58 phê duyệt Chương trình đầu tư củng cố, bảo vệ và nâng
cấp đê biển hiện có tại các tỉnh có đê từ Quảng Ninh-Quảng Nam đến năm
2010. Với nguồn vốn này, cộng với nguồn đầu tư của các tổ chức quốc tế, nước
ta đã nâng cấp được 815km đê biển ở miền Bắc và miền Trung với tổng chi phí
66 triệu USD. Điển hình như tuyến đê biển tại huyện Giao Thủy (Nam Định),
từ những nguồn vốn tài trợ nói trên, huyện khôi phục và nâng cấp được 10 km
đê xung yếu, trong đó có trên 7 km đê làm kè lát mái bảo vệ phía biển. Nhờ đó
hiện tượng sạt lở đất ở đây cơ bản được chỉnh trị, tạo điều kiện cho địa phương
phát triển kinh tế -xã hội bền vững, góp phần làm giảm áp lực của cộng đồng
dân cư đối với tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ.
Nhưng nhìn chung, hệ thống đê biển nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
tiêu chuẩn thiết kế. So với yêu cầu cao trình đỉnh thì hầu hết các tuyến đê còn
19
thiếu khoảng 0,5-1m, độ rộng mặt đê thiếu từ 2-3m. Đặc biệt, nhiều tuyến đê
thiếu hẳn rừng ngập mặn do các địa phương tùy tiện chặt phá để nuôi tôm, hoặc
lấn chiếm mặt đê làm vườn canh tác, xây cất nhà cửa trong phạm vi tuyến đê
biển, tạo nên những tiềm ẩn dẫn đến vỡ đê khi bão tố cường độ mạnh và triều
cường dâng cao.
GS.TS Ngô Đình Tuấn (Hội Bảo vệ thiên nhiên&môi trường Việt Nam)
kiến nghị: Chiến lược đê biển cần xét theo quan điểm phát triển lâu bền kinh tế
vùng, kết hợp hữu cơ giữa kinh tế biển và chiến lược an ninh quốc phòng, và
phải được coi là sự tồn vong của quốc gia. Do đó, các tuyến đê biển hiện nay
cần phải được nhanh chóng đầu tư củng cố, nâng cấp tạo thành tuyến khép kín.
Chiều rộng mặt đê tối thiểu từ 5-6m, thiết kế đủ điều kiện chống chọi với bão
cấp 9, cấp 10, riêng đê bảo vệ khu dân cư đảm bảo cấp 12 với mức triều tần
suất 5%. Chính phủ cần có quy hoạch đê biển với tầm nhìn xa 20 năm, 50 và 70
năm kể cả phạm vi xem xét rộng lớn hơn, để hệ thống đê biển Việt Nam có
khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là hiện tượng "biển tiến"
trong hiện tại và tương lai. Các Bộ, ngành chức năng cần tiếp tục nghiên cứu
tiêu chuẩn và giải pháp kỹ thuật đê biển. Trước hết, ưu tiên đầu tư quy hoạch

và xây dựng mới hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang bảo đảm các
tuyến đê xuôi thuận, nền móng vững, vật liệu phù hợp, kỹ thuật xây dựng hiện
đại an toàn. Vì đây là hệ thống đê biển có độ an toàn thấp nhất, nhưng lại đang
bảo vệ những vùng bị ngập nhiều nhất ở nước ta hiện nay. Mặt khác, phải xây
dựng hệ thống đê biển kèm theo việc khôi phục lại rừng ngập mặn phòng hộ,
trở thành hệ thống giao thông quốc gia ven biển, đảm bảo cho an ninh quốc
phòng. Những vùng "đầu sóng ngọn gió" nên được xây dựng thêm tuyến đê 2
dự phòng để sơ tán dân, nếu như có sự cố ở tuyến đê I.
Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm,
thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra
20
hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165
nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Các công trình nghiên cứu quy mô
toàn cầu về hiện tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi
tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do
Liên hiệp quốc triệu tập tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định
khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi”
nhanh chóng của bầu khí quyển Trái đất, vốn được coi là nguyên nhân chủ yếu
của sự gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí
hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của hàng
ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định thư
Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc
gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005. Việt Nam
đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, hội nghị lần thứ
12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về khí hậu, phiên họp thứ 2 của các
bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên hiệp quốc tổ chức tại Nairobi,
thủ đô Kenya.
2. Sự suy giảm của tầng ozon:
Ozone là lớp khí quyển mỏng, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong thành phần
không khí bao quanh trái đất song các phân tử ozone lại có đặc tính riêng biệt

là hấp thụ bức xạ tia cực tím (UV) của mặt trời. Chính vì vậy, nó trở thành tấm
lá chắn quan trọng giúp bảo vệ con người và các loài sinh vật trên trái đất khỏi
tác hại của tia cực tím, giúp con người tránh được bệnh ung thư và các bệnh
liên quan đến hệ thống miễn dịch.
Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, theo số liệu nghiên cứu
của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) và Chương trình môi trường Liên hợp
quốc (UNEP) tầng ozone đã suy giảm mạnh với lỗ thủng đầu tiên được phát
hiện vào năm 1986 và đến năm 2003 đã lên tới 11,2 triệu dặm vuông.
21
Suy giảm tầng ôzôn mà hệ quả của nó là con người bị đục thủy tinh
thể, ung thư da, ung thư phổi, gan. Tại Việt nam, các nhà máy sản sinh ra hằng
năm nhiều triệu tấn CO
2
ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường sống.
Nhận thức được những hiểm họa do tầng ozone suy giảm gây ra, cộng
đồng quốc tế đã kêu gọi tất cả các nước hạn chế sản xuất và sử dụng các chất
phá hủy tầng ozone (ODS). Năm 1987, Hiệp ước quốc tế Montreal đã được ký
kết dưới sự ủng hộ của Liên hợp quốc, bởi 191 quốc gia nhằm cụ thể hóa các
giải pháp và những cam kết của các bên Công ước Viên, bảo đảm cho công ước
được thi hành có hiệu quả. Nghị định thư Montreal cũng đưa ra các biện pháp
hạn chế thương mại đối với các chất gây hại cho môi trường. Cho tới thời điểm
này, Nghị định thư Montreal đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào các năm
1990 và 1992 nhằm tăng cường kế hoạch loại trừ các chất ODS theo từng giai
đoạn.

Với nỗ lực không mệt mỏi từ phía các bên tham gia Nghị định thư, lỗ
thủng của tầng ozone đã giảm 0,3% mỗi năm và trong một vài năm qua, đã đạt
được những sự biến đổi lớn không ngờ. Mới đây, Tổ chức khí tượng thế giới
(WMO) đã chính thức thông báo: năm nay, lỗ thủng tầng ozone đã giảm nhẹ so
với 17,6 triệu km2 vào năm 2006 ở phía trên Nam cực.

III. DÂN SỐ TĂNG NHANH :
Trong thế kỷ qua,dân số thế giới tăng nhanh chưa từng có. Nếu như đầu
thế kỷ XX dân số chỉ có 2 tỷ người thì đến nay tăng lên trên 6 tỷ. Đối với nước
ta, những thách thức về nhân khẩu là rất nghiêm trọng đối với tất cả các vấn đề
môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao và di dân nội
bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên thiên nhiên và kinh tế kém phát triển vẫn
đang tăng lên, không kiểm soát được. Trung bình trong 10 năm qua (1989 -
1999) tỷ lệ tăng trưởng dân số là 1,7%. Với mức tăng trưởng như vậy thì theo
22
các dự báo đến năm 2020 số dân nước ta sẽ xấp xỉ 100 triệu người, tức là phải
bảo đảm cuộc sống cho thêm gần 25 triệu người, tương ứng với một số dân
nước ta trước năm 1945, trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng
tài nguyên khác có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu vùng xa
chưa được giải quyết triệt để (hiện có 1750 xã ở diện đói nghèo). Tất cả những
vấn đề trên là những thách thức nghiêm trọng, gây ra sức ép to lớn đối với cả
tài nguyên và môi trường trên phạm vi toàn quốc.
IV. Ô NHIỄM XẢY RA TRÊN QUY MÔ RỘNG :
Do tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia
tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong
vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng
nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các
thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm
môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô
nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công
nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có
độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô
xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất
rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-)
vượt đến 84 lần, H

2
S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH
3
vượt 84 lần tiêu chuẩn
cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng
dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ
Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng
nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt.
23
ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất
giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng
nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông
Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH
4
là 4mg/1,
hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt
nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua
xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có
hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh,
mương) như việc xã nước thải sa sông Thị Vải của công ty VEDAN. Mặt khác,
còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và
cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn
trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô
nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành
phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố

lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống
xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất
có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng
1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội
thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH
4
, NO
2
, NO
3
ở các sông, hồ,
mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì
lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử
lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
24
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá
tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy
hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là
nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc
không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung
bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông
Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực
vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến

môi trường nước và sức khoẻ nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng
diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước
là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo
quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước.
Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi
trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho
môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật
gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ
triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người
dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt
động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ
25

×