Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục Lục
Phần mở đầu .
I. Đặt vấn đề
“ Quốc tế hoá đời sống kinh tế là xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản
xuất xã hội trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất” Theo đó, thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ( FDI ) là một trong những mục tiêu chiến lược của quốc gia trên thế giới,
trong đó có cả các nước đang phát triển tuân theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập nhằm
phát triển nền sản xuất trong nước. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của các nền kinh tế trên thế
giới đã rút ra bài học và khẳng định vai trò tích cực, tính an toàn của nguồn vốn FDI, những ưu việt
của nó so với vay nợ và đầu tư ngắn
Việt Nam với xuất phát điểm thấp hơn rất nhiều nước khác trên thế giới trong quá trình hội
nhập, đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vai trò hết sức quan trọng.Việc mở rộng thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng theo đó trở thành mục tiêu lâu dài và cơ bản không thể thiếu trong mục
tiêu phát triển đất nước
Trong những năm gần đây, tỷ lệ FDI đầu tư vào Việt Nam có xu hướng tăng cao và đóng góp
lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải lúc
nào cũng mang lại hiệu quả, các rủi ro xảy ra từ các nguyên nhân chủ quan và cả nguyên nhân
khách quan gây nên sự cản trở cho các dự án FDI hoạt động và phát triển.
Rủi ro là những sự kiện không may và bất ngờ xảy ra gây nên những thiệt hại đến lợi ích của
con người, nó luôn tồn tại song song với cuộc sống và trong mọi hoạt động của con người, hoạt
động đầu tư vào các dự án cũng không phải là ngoại lệ. Theo đó thì việc quản lý các rủi ro có thể
xảy ra cho các dự án FDI là cần thiết để giảm thiểu các thiệt hại do nó mang lại.
II. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong
hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập
kinh tế quốc tế” với đối tượng là những rủi ro của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam..
Mục đích của việc nghiên cứu đề án này nhằm phát hiện ra những rủi ro cơ bản mà các dự án
FDI ở Việt Nam thường mắc phải, các nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các rủi ro này và từ đó
đưa ra một số giải pháp quản lý Nhà Nước để hạn chế những rủi ro trong các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đưa ra quyết định đầu tư
và thu hút nhiều hơn các dự án đầu tư FDI về cả quy mô và chất lượng, đóng góp vào nền kinh tế
quốc dân trên mọi phương diện.
Phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) và các rủi ro có
thể xảy ra trong hoạt động của các dự án FDI
I. Lý luận về FDI
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI )
- Đầu tư trực tiếp cùng với đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại là ba bộ phận cơ bản
của vốn đầu tư quốc tế với hình thức là đầu tư tư nhân.
- Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về FDI:
Quỹ tiền tệ thế giới IMF :đầu tư trực tiếp nước ngoài là là đầu tư có lợi ích lâu dài của
doanh nghiệp tại một nước khác (là nước nhận đầu tư- hosting country), không phải tại nước mà
doanh nghiệp đang hoạt động ( nước đi đầu tư- source country) và với mục đích quản lý một cách
có hiệu quả doanh nghiệp.
Quan điểm về FDI ở Việt Nam được quy định trong khoản 1 Điều 2 Luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài đươc sửa đổi bổ sung năm 2000: “ đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật này” .
1.2. Dự án FDI
Dự án đầu tư về nội dung là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi phí
cần thiết được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch sử thời gian và địa điểm xác định để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã
hội nhất định.
Dự án FDI là những dự án đầu tư do các nhà đầu tư nước ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
2. Các đặc trưng cơ bản
Nguyễn Ngọc Hưng Kinh tế quốc tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một hình thức đầu tư nên các dự án FDI cũng mang
những đặc trưng cơ bản của các dự án đầu tư.
-Hoạt động bỏ vốn của các nhà đầu tư và vì vậy các quyết định đầu tư thông thường là
quyết định về tài chính và mỗi quyết định đưa ra đều phải cân nhắc giữ lợi ích trước mắt và các lợi
ích lâu dài của dự án.
-Hoạt động của các dự án đầu tư luôn mang tính chất lâu dài.Trước bất cứ một hoạt động
nào đều cần có chi phí hoạt động và mang lại một kết quả nhất định.
-Rủi ro chính là một trong những đặc trưng cơ bản của các dự án FDI.
Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng có những đặc trưng riêng để phân biệt với các dự án khác
không có các yếu tố nước ngoài.Các dự án FDI có sự tham gia của các bên có quốc tịch và ngôn
ngữ khác nhau, và vì vậy các dự án bị chi phối bởi nhiều hệ thống pháp luật, từ nước đầu tư, nước
nhận đầu tư đến hệ thống pháp luật quốc tế.
Các nhà đầu tư trực tiếp tham gia hoặc họ có thể tự quản lý và điều hành các dự án và tất cả
các đối tượng bỏ vốn.
Ngoài ra,đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức giao lưu giữa các nền văn hoá, tạo ra nhiều
hình thức kinh doanh mới với những pháp nhân có chứa yếu tố nước ngoài.Quan trọng hơn nữa là
góp phần chuyển giao công nghệ và các phương thức quản lý mới giữa các bên.
Mục đích cuối cùng của các dự án FDI chính là các bên tham gia hoạt động đầu tư cùng có
lợi, hoạt động sẽ mang lại lợi ích chung cho mọi chủ thể tham gia.
3. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế
Những ảnh hưởng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế,giúp cho nước
tiếp nhận đầu tư huy động mọi nguồn lực sản xuất.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế.Có thể coi đó là một
nhân tố hay cú huých lớn để phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh chuyển giao công nghệ làm khoảng cách công
nghệ giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư bị thu hẹp.Bên cạnh đó tạo phản ứng tích cực phổ biến
công nghệ và hoạt động phát minh công nghệ.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao chất lượng lao động,phát triển nguồn
nhân lực
+Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bảo vệ môi trường, khai thác có hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên và góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế .
II. Rủi ro trong các dự án FDI.
1. Khái niệm và tính chất của các rủi ro trong các dự án FDI
1.1. Khái niệm về rủi ro.
Nguyễn Ngọc Hưng Kinh tế quốc tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Rủi ro đề cập đến những sự kiện, vấn đề không may mắn, bất ngờ xảy ra gây những thiệt hại
cho lợi ích con người, tài sản, nguồn lợi và trách nhiệm
1.2. Một số tính chất.
Rủi ro là một trạng thái tiềm ẩn gây nên những mối nguy hiểm với các mức độ khác nhau gây
tổn thất cho con người nhưng lại rất khó để có thể đo lường trước nó.
- Tính bất ngờ: rủi ro bao gồm những sự kiện mà con người không thể đo lường nó một cách đầy
đủ và chắc chắn.Tất cả các rủi ro đều bất ngờ với những mức độ khác nhau dẫn đến việc con người
có thể nhận diện rủi ro hay không. Trong trường hợp con người không thể đoán trước được rủi ro
và không nhận dạng được thì nó sẽ xảy ra hoàn toàn bất ngờ với con người. Cũng có những rủi ro
mà con người nhận dạng được nhưng không thể đo lường một cách chính xác những thiệt hại mà
nó có thể mang lại.Tuy nhiên, nếu con người có thể nhận dạng và tính được chính xác các rủi ro có
thể đến với mình thì rủi ro sẽ không còn nữa mà nó trở thành những sự kiện bất lợi mà con người
không mong muốn xảy ra như thiên tai, thời tiết,...
- Tính chất ngoài mong đợi: trong cuộc sống, con người ai cũng mong muốn nhận được lợi
ích cũng như những điều tốt đẹp may mắn trong mọi lĩnh vực và hoạt động của cuộc sống.Tuy
nhiên trong cuộc sống không phải lúc nào cũng được như vậy. Những điều, những sự kiện không
may mắn, gây tổn thất cho cuộc sống của con người luôn tồn tại và trở thành điều không mong
muốn trong cuộc sống hay nói cách khác đó là những sự kiện ngoài mong đợi của con người.
- Tính sự cố gây ra tổn thất: những rủi ro xảy ra không thể đo lường được hoặc đo lường
một cách không chính xác dẫn đến những hậu quả cho con người trong hoạt động họ tham ra có rủi
ro.
Tổn thất mà các rủi ro mang lại tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau: hữu hình (tài sản, vật
chất...) hay vô hình (sức khoẻ, tinh thần, trách nhiệm, đạo đức...).
Rủi ro đều bao hàm trong nó sự bất ngờ, ngoài mong đợi của con người và gây nên những
tổn thất khác nhau đối với các hoạt động mà con người tham gia.
2. Phân loại rủi ro
2.1. Phân loại theo tính chất của rủi ro.
- Rủi ro thuần tuý: loại rủi ro chỉ có thể dẫn đến những tổn thất về mặt kinh tế hay khả năng kiếm
lời của hoạt động.
Rủi ro thuần tuý thường đưa đến kết quả mất mát và tổn thất khi xảy ra. Như rủi ro hoả
hoạn,cháy nổ sẽ dẫn đến việc mất mát một số tài sản nhưng nếu không xảy ra thì sẽ không gây thiệt
hại gì.
Rủi ro thuần tuý liên quan đến việc phá huỷ tài sản,động đất gây phá huỷ các toà nhà.
Theo đó,rủi ro này có nguyên nhận từ những đe doạ, nguy hiểm rình rập, và vì vậy nên biện
pháp để đối phó với nó chính là hình thức bảo hiểm.
Nguyễn Ngọc Hưng Kinh tế quốc tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Rủi ro suy tính: đây là loại rủi ro xảy ra do ảnh hưởng của các nguyên nhân khó có thể dự
đoán và có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn.
Rủi ro suy tính thường xảy ra trong thực tế như: rủi ro tình hình bất ổn về chính trị, giá cả
hay mức thuế xuất đối với đối tượng được đầu tư.
Đặc điểm cơ bản thường không được bảo hiểm nhưng lại có khả năng đối phó bằng biện
pháp rào chắn.
2.2. Theo khả năng dự đoán
- Rủi ro có thể tính được: loại rủi ro có tần số xuất hiện có thể đoán được ở mức chính xác và độ
tin cậy cao.
- Rủi ro không thể tính được: tần số xuất hiện của loại rủi ro này quá bất thường và khó để có thể
dự đoán.
2.3. Theo khả năng bảo hiểm rủi ro
- Rủi ro không thể bảo hiểm: gồm có rủi ro cờ bạc và suy tính.Các rủi ro này không tồn tại trước
đó trong khi bảo hiểm có tác dụng làm giảm rủi ro.
- Rủi ro có thể bảo hiểm được: những rủi ro nếu xảy ra có thể dẫn đến các thiệt hại. Nó có khả
năng gây thiệt hại của một tập hợp đơn vị tương tự nhau, thiệt hại có tính ngẫu nhiên không phải do
tự tạo ra hay do hiện tượng hao mòn vật chất tự nhiên gây ra.Các thiệt hại này phải được định dạng,
có thể đo lường và đủ để tạo ra những khó khăn về kinh tế và có xác xuất thiệt hại thảm hoạ thấp.
2.4. Theo nguồn gốc rủi ro.
- Rủi ro nội sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân nội tại của dự án. Những nhuyên nhân
nội sinh thường nhắc đến như: quy mô, mức độ phức tạp, tính mới lạ của dự án, các nhận tố ảnh
hưởng đến tốc độ thiết kế và xây dựng, hệ thống tổ chức quản lý dự án.
- Rủi ro ngoại sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân bên ngoài gây nên. Những nhân tố
ngoại sinh thường gặp là lạm phát, biến đổi thị trường, tính sẵn xó của lao động và nguyên liệu,độ
bất định về chính trị,những ảnh hưởng của thời tiết.
2.5. Theo phạm vi ảnh hưởng của rủi ro.
- Rủi ro cơ bản: là những rủi ro sinh ra từ những nguyên nhân ngoài tầm kiểm soát của con
người. Hậu quả mà nó mang lại thường rất nghiêm trọng, khó lường, có ảnh hưởng đến cộng đồng
và toàn xã hội.Thường thì hầu hết các rủi ro này xuất phát từ các tác động tương hỗ thuộc về kinh
tế, chính trị, xã hội...
- Rủi ro riêng biệt: rủi ro xuất phát từ biến cố chủ quan và khách quan từ cá nhân, tổ chức và ảnh
hưởng tới lợi ích của từng cá nhân, tổ chức như sai lầm trong lựa chọn chiến lược kinh doanh, đối
tác hay mặt hàng kinh doanh trong từng thời kì.
2.6. Phân loại rủi ro theo lĩnh vực.
Nguyễn Ngọc Hưng Kinh tế quốc tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Là cách phân loại rủi ro theo các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Các rủi ro có thể phát
sinh từ những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống: về chính trị (những thay đổi bất thường của thể
chế chính trị), về kinh tế (lạm phát, suy thoái,..) pháp lý (pháp luật, thủ tục hành chính, các hợp
đồng kinh tế), môi trường kinh doanh, văn hoá khác nhau giữa các nước, sự mất cân đối về thông
tin giữa các bên,…
3. Một số rủi ro trong các hoạt động của dự án FDI
3.1. Rủi ro về chính trị.
Là sự thay đổi bất thường của các thể chế chính trị, chiếm đoạt, quốc hữu hoá, sự phận biệt
đối xử của chính quyền địa phương,...Ngoài ra, còn lại là những tác động của chiến tranh,bạo
lực,...của các thế lực thế giới.
3.2. Rủi ro về kinh tế.
Thông thường do các nhân tố vĩ mô gây ra bất lợi cho doanh nghiệp.Bao gồm những yếu tố
như lạm phát, suy thoái kinh tế, khă năng thanh toán, dự trữ ngoại tệ,...
3.3. Rủi ro về pháp lý.
Rủi ro về pháp lý có nguồn gốc từ sự thay đổi về luật pháp, sự mập mờ, chồng chéo và không
thống nhất của các văn bản pháp quy; sự thiếu thông tin phổ biến pháp luật, thiếu chặt chẽ trong
các hợp đồng kinh tế,...
Loại rủi ro này thường xuất hiện nhiều ở những nước chuyển đổi,những nước mà nền kinh tế
đang trong quá trình từng bước hội nhập,đặc biệt là đối với Việt Nam. Hậu quả rủi ro pháp lý là
những tranh chấp, kiện tụng giữa các doanh nghiệp, tịch thu hàng hoá của chính quyền,...
3.4. Rủi ro về thông tin
Xuất hiện khi những thông tin bị sai lệch, đến chậm hoặc do quá trình phân tích, xử lý thông
tin thường dẫn đến việc chủ đầu tư có sự chậm trễ trong các quyết định và thất bại trong kinh
doanh.
3.5. Rủi ro về cạnh tranh.
Loại rủi ro này là những áp lực bất ngờ không lường trước của chủ đầu tư trước sự thay đổi
thị hiếu của người tiêu dùng, sự tăng nhanh bất thường về số lượng cũng như quy mô của các
doanh nghiệp cùng ngành, sự xâm nhập mạnh mẽ của doanh nghiệp nước ngoài khi Chính phủ mở
cửa kinh tế,...Rủi ro cạnh tranh có thể dẫn tới sự thu hẹp về thị trường, thậm chí dự án còn bị thôn
tính và bị loại ra khỏi thị trường.
3.6. Rủi ro về văn hoá.
Một trong những đặc trưng riêng cơ bản của các dự án FDI là nơi gặp gỡ,làm quen giữa các
nền văn hoá khác nhau.Vì vậy, sự khác nhau về văn hoá đã và đang là nguyên nhân làm tăng cơ hội
hiểu lầm đáng tiếc có thể dẫn công ty mất thị phần mục tiêu. Rủi ro về văn hoá bắt nguồn từ sự
không am hiểu về phong tục, tập quán, lối sống, cách sống, ngôn ngữ sử dụng...
Nguyễn Ngọc Hưng Kinh tế quốc tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368