Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng bắc trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.75 KB, 17 trang )

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
Mã số đề tài: LA0161
Số
Tt
Số sơ đồ,
đồ thị
Tên sơ đồ, đồ thị Tran
g
1 1.1 Mô hình hình thoi về lợi thế cạnh tranh của M.
Porter
30
2 1.2 Vai trò Nhà nước trong phát triển công nghiệp chế
biến của địa phương
35
3 1.3 Sơ đồ kim cương của M. Porter trong phân tích và
đánh giá lợi thế cạnh tranh của một ngành
40
4 2.1 Doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản
trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn
2001 - 2005 phân theo nhóm ngành
60
5 2.2 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm
sản vùng Bắc Trung Bộ so với cả nước
64
6 2.3 Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông,
lâm sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ theo giá so
sánh 1994
66
7 2.4 Mức trang bị vốn cho 1 lao động công nghiệp
CBNLS phân theo hình thức sở hữu


76
8 2.5 Nguồn cung ứng đầu vào của các doanh nghiệp
chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa
bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
94
9 2.6 Dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh
nghiệp
chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa
bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
95
10 2.7 Lãnh đạo/ chiến lược của doanh nghiệp chế biến
gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa bàn các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ
98
11 2.8 Văn hóa doanh nghiệp ngành chế biến gỗ và sản
phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ
98
12 2.9 Marketting và dịch vụ khách hàng của doanh 99
nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên
địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
13 2.10 Tài chính, kế toán của doanh nghiệp chế biến gỗ và
sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa bàn các tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ
100
14 2.11 Kỹ thuật công nghệ sản xuất của doanh nghiệp chế
biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa bàn
các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
101
15 2.12 Hệ thống thông tin quản lý của các doanh nghiệp

chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên địa
bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
101
16 2.13 Kiểm soát cho phí và chất lượng của các doanh
nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trên
địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
102
17 2.14 Cung ứng đầu vào của doanh nghiệp chế biến thực
phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
108
18 2.15 Dịch vụ phát triển kinh doanh của doanh nghiệp chế
biến thực phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ
108
19 2.16 Lãnh đạo/ chiến lược của doanh nghiệp chế biến
thực phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
111
20 2.17 Văn hóa doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm
trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
111
21 2.18 Kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp chế
biến thực phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ
112
22 2.19 Kiểm soát chi phí và chất lượng của DN chế biến
thực phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung
Bộ
113
23 2.20 Marketting và dịch vụ khách hàng của doanh
nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn các tỉnh

vùng Bắc Trung Bộ
114
24 2.21 Hệ thống thông tin quản lý của doanh nghiệp chế 115
biến thực phẩm trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiếm gần 1/6 diện tích tự nhiên cả nước, các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ có
vị trí địa lý kinh tế, quốc phòng quan trọng, có hệ thống đường giao thông, cảng
biển thông thương. Ở đây thành phố và thị xã là các trung tâm thương mại có tác
động, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh kế của vùng. Đặc điểm tự nhiên đa
dạng với các tiểu vùng khí hậu khác nhau có hệ thống động thực vật và tài
nguyên thiên nhiên phong phú cho phép phát triển nền kinh tế đa dạng. Tuy
nhiên, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ nhìn chung còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ
tầng yếu kém, công nghiệp chậm phát triển, nông lâm, ngư, nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu GDP của các tỉnh trong vùng.
Trong những năm gần đây, trong khuôn khổ phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đề ra những
chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm
sản các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Theo đó ngành công nghiệp các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ đáng kể, góp phần
quan trọng để nền kinh tế của cả vùng giữ được mức tăng trưởng khá, đồng thời
nâng cao chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, từng bước hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tuy nhiên, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh
trong trong vùng còn nhiều yếu kém, chưa phát huy được đầy đủ lợi thế so sánh.
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản một số tỉnh trong vùng có tốc độ tăng
trưởng nhanh, nhưng thiếu bền vững; Khoảng cách trình độ phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản giữa các tỉnh trong vùng có xu hướng tăng, nhiều
nơi còn rất khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa

nông nghiệp - nông thôn. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên, một phần do
những bất cập trong hoạch định chính sách và tổ chức quản lý phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản của các tỉnh trong vùng, nhưng chủ yếu là do
những yếu kém trong xác định chiến lược phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm sản từ góc độ lợi thế so sánh, đánh giá xác định lợi thế, bất lợi thế để đề ra
định hướng và các giải pháp phát huy lợi thế trong phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm sản của các tỉnh trong vùng.
Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra những chủ
trương, chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của các tỉnh
trong vùng lãnh thổ theo yêu cầu bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng tôi chọn đề tài: "Phát triển công nghiệp
chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá và vận dụng lý luận phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của công nghiệp chế biến
nông, lâm sản đối với sự phát triển vùng địa phương; xác định nội dung và các
chỉ tiêu đánh giá phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong chiến lược
phát triển vùng; Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Việt
Nam thời gian qua; đồng thời, định hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh này
trong thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Lý thuyết về phát triển kinh tế vùng địa phương, phát triển công nghiệp gắn với
phát triển vùng địa phương đã có nhiều công trình, tài liệu trong và ngoài nước
nghiên cứu và đề cập tới. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phát triển của một ngành
công nghiệp cụ thể như công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với sự phát
triển kinh tế địa phương thì hầu như chưa có công trình nào đề cập và nghiên
cứu một cách đầy đủ. Luận án, tổng quan lại một số vấn đề liên quan như sau:
- Các lý thuyết nghiên cứu về vấn đề phát triển công nghiệp gắn với phát triển

vùng địa phương, có thể nêu ra như:
+ Lý thuyết phát triển vành đai nông nghiệp của I.G. Thunen (Đức, 1833). Lý
thuyết này cho rằng: Do ảnh hưởng của thành phố (trung tâm thị trường), dẫn đến
phân chia lãnh thổ của một quốc gia thành các vùng sử dụng đất khác nhau. Cơ sở
của mô hình này dựa trên nguyên tắc của cực tiểu hoá chi phí và cực đại hoá lợi
nhuận. Sau đó, A. Weber cũng có đóng góp nhiều cho lý thuyết này. Lý thuyết
này coi thành phố là những nút trọng điểm của lãnh thổ có sức ảnh hưởng lan toả
lớn [64].
+ Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (Mỹ, 1933). Lý thuyết này cho rằng:
Vùng nông thôn chịu cực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt
nhân của sự phát triển [32]. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác
định trên cơ sở nghiên cứu mức độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và
cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các sản phẩm của trung tâm. Trong giới
hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị trường ngoài ngưỡng giới
hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm. Lý thuyết này
được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm là
xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ
đó có thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [32].
+ Lý thuyết cực phát triển được F.Perroux (Pháp) đưa ra vào những năm 1950
[64]. Lý thuyết này cho rằng, một vùng không thể phát triển kinh tế đều đặn ở
tất cả các điểm trên lãnh thổ của nó, có những điểm phát triển nhanh trong khi ở
những điểm khác lại chậm phát triển hoặc trì trệ. Các điểm phát triển nhanh này
là những trung tâm có lợi thế so sánh với toàn vùng. Như vậy, có thể chú trọng
tác động vào những khu vực trọng điểm làm đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế
của lãnh thổ. Đó là, ngành công nghiệp và dịch vụ có vai trò to lớn đối với sự
tăng trưởng của vùng và đi kèm theo với điểm tăng trưởng là một ngành công
nghiệp then chốt. Ngành công nghiệp then chốt phát triển, lãnh thổ được phân
bố cũng phát triển [64].
+ Lý thuyết về phân bố doanh nghiệp trong phát triển lãnh thổ của A.Schoon
(Universite’ Libre de Bruxelles) [32], cho rằng, ở địa phương tồn tại một hoặc

nhiều doanh nghiệp coi như động lực phát triển và quanh đó người ta tập
trung một số doanh nghiệp khác thường là nhỏ hơn trong mối quan hệ kỹ
thuật hay quan hệ chủ thầu - gia công (được gọi là các thị trường tăng
trưởng). Nhà nước tác động đến phát triển các doanh nghiệp thông qua các bộ
luật, đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, Quá trình
phát triển nhằm tạo ra trung tâm tăng trưởng trong vùng, đồng thời sẽ tác
động đến các vùng khác, và các vùng không được hưởng sự quan tâm đầu tư
sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng kém phát triển. Sau những năm thập kỷ 80,
vai trò doanh nghiệp trong vùng có sự thay đổi, phát triển vùng lãnh thổ có
tính ưu tiên cao hơn và vai trò của vùng lãnh thổ theo đúng tên gọi của thực
địa, của môi trường. Làm thế nào để lãnh thổ phù hợp với sự phát triển kinh
tế ? Mục tiêu bây giờ không còn tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh
nghiệp mà là tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp vào
lãnh thổ mong muốn. Tức là, phải xác định các điểm mạnh và điểm yếu của
lãnh thổ đó và tìm cách quy hoạch để các doanh nghiệp đến tổ chức sản xuất
kinh doanh theo lãnh thổ. Từ đó, vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương
ngày càng trở nên quan trọng. Chính quyền cũng phải sáng tạo để hỗ trợ, cổ
vũ sự sáng tạo của doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp lại đặt các
vùng vào tình thế cạnh tranh với nhau theo các tiêu chí như nhân công tại
chỗ, dịch vụ cho các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng,
- Trong thực tế, một số quốc gia trên thế giới đã thành công với việc phát triển
công nghiệp gắn với phát triển vùng và đã đem lại những thành công cho vùng
và cả các quốc gia đó, như Vùng Emillie - Romagne (Italia); Vùng Baden -
Wurttemberd, Đức; Thành phố công nghiệp Worcester, Masachusett (Mỹ); Đặc
khu kinh tế Thâm Quyến và Hải Nam (Trung Quốc).
- Ở Việt Nam, về lý thuyết đề cập tới vấn đề phát triển kinh tế vùng địa phương,
phát huy lợi thế so sánh trong phát triển vùng địa phương đã được đề cập trong
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020”; và nhiều bài viết được đăng tải trên nhiều tạp chí và báo chuyên ngành.
Đến nay, cũng đã có một số địa phương trong nước áp dụng thành công mô hình

phát triển kinh tế vùng, như Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương
- Nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cũng có nhiều cuộc
hội thảo, đề án, công trình, bài báo của các cơ quan nghiên cứu và các học giả
đề cập đến, như:
+ Qui hoạch phát triển các ngành công nghiệp theo vùng lãnh thổ đến năm 2010,
tầm nhìn đến 2020, đã làm công tác qui hoạch tổng thể phát triển các ngành
công nghiệp cho 6 vùng lãnh thổ (theo cách phân vùng của Bộ Công nghiệp),
trong đó có ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
+ Sách của Đặng Văn Phan (chủ biên) (1991), Đánh giá hiện trạng kinh tế
(công nghiệp, nông - lâm nghiệp, công nghiệp chế biến các tỉnh giáp biển miền
Trung), Nxb Chính trị Quốc gia. Tác giả thu thập và xử lý số liệu từ các niên
giám thống kê của Trung ương và địa phương, từ tài liệu điều tra cơ bản, từ các
dự án qui hoạch của 7 tỉnh giáp biển miền Trung, hệ thống theo 4 lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến. Mỗi lĩnh vực đều có
đánh giá hiện trạng. Đáng lưu ý nhất là báo cáo hiện trạng nông nghiệp về: diện
tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng, gia súc, đất đai, thuỷ lợi, hệ thống
trạm trại, vốn đầu tư, vùng chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, các dự án
phát triển nông nghiệp và một số chỉ tiêu chung. Ngoài ra, còn có phần phụ lục
kết quả nghiên cứu, trong đó nêu: đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất vùng Bắc Trung Bộ,
quan điểm, phương hướng phát triển và phân bố lực lượng sản xuất khu vực thời
kỳ 1991-2005.
+ Đề tài của TS. Lê Thế Tiệm - Viện Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn (2001) “Nghiên cứu chính sách và giải pháp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bảo quản, chế biến và tiêu thụ một số sản phẩm
nông nghiệp”. Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện
quá trình bảo quản và chế biến các loại nông sản chủ yếu.
+ Đề tài nghiên cứu cấp bộ (Bộ Thương mại) (2005) của GS.TSKH. Lương
Xuân Quỳ “Chính sách và giải pháp nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam đến năm 2005”. Đề tài đã nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận

về giá trị gia tăng. Trong đó, tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng giá trị
gia tăng của một số nông sản xuất khẩu chủ yếu như gạo, chè, cà phê, thuỷ
sản. Từ đó, đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm nâng cao giá trị gia tăng
cho những ngành hàng tương ứng. Đây được coi là một hướng tiếp cận lý
luận mới trong phát triển ngành hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Kim Anh “Phương hướng và các
giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh
Khánh Hòa” (2002). Đề tài nghiên cứu một nhóm ngành cụ thể trên một địa bàn
cụ thể là tỉnh Khánh Hoà - tỉnh có nhiều lợi thế về phát triển công nghiệp chế
biến thuỷ sản. Tác giả cho rằng, công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu là một
trong các ngành được nhiều quốc gia quan tâm đầu tư phát triển (nhất là các
quốc gia có lợi thế về biển) vì các ưu thế về vốn đầu tư không quá lớn, tận dụng
được nguồn nhân công trong nước và tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ thương
mại và giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu có
những đặc trưng rất cơ bản, nó chi phối và tác động trực tiếp đến kết quả sản
xuất kinh doanh của ngành kinh tế - kỹ thuật này, buộc các nhà sản xuất và quản
lý phải quan tâm đến nó.
+ Đề tài “Định hướng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp chế biến phục
vụ mục tiêu xuất khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” của Viện Nghiên cứu
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh Hằng làm chủ nhiệm. Đề
tài đã đề xuất những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc định hướng phát triển
ngành công nghiệp chế biến phục vụ mục tiêu xuất khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí
Minh và các giải pháp thực hiện, các chính sách và biện pháp hỗ trợ cần thiết.
+ Bài viết “Lao động ngành chế biến nông, lâm sản Việt Nam trước hội nhập
kinh tế” của tác giả Nguyễn Mạnh Dũng, đăng trên Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, đã nêu quá trình phát triển và những thành tựu đạt được của
ngành chế biến nông, lâm sản Việt Nam trong nền kinh tế hàng hoá. Tác giả đi
vào phân tích thực trạng lao động trong ngành chế biến nông, lâm sản; đồng
thời, đề xuất định hướng phát triển của ngành chế biến nông, lâm sản trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nghiên cứu của GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm sản xuất khẩu”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 82, tr.68. Bài
viết trên cơ sở đánh giá khái quát tình hình phát triển một số nhóm sản phẩm
công nghiệp chế biến Việt Nam, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu Việt Nam thời gian tới.
Ngoài ra còn có nhiều hội thảo, hội nghị, liên quan đến vấn đề phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản nói chung, như: “Hội thảo về phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản - năm 1994”; “Đề án phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm sản đến năm 2010” của Cục Chế biến nông, lâm sản và nghề
muối; và các bài viết khác của các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang
web, trong nước và quốc tế có liên quan đến phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm sản nước ta. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, sâu sắc cả về lý luận phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản
gắn với phát triển kinh tế địa phương (cấp tỉnh) thuộc vùng, như vùng Bắc
Trung Bộ; Với công trình này, chúng tôi nhằm đi sâu nghiên cứu đề tài đó. Qua đó
đánh giá thực trạng tình hình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ; và đề xuất định hướng, giải pháp nhằm phát triển ngành công
nghiệp này gắn với phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ trong quá
trình công nghiệp hoá, hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề kinh tế trong phát triển
công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với phát triển kinh tế của địa phương
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ,
thời gian từ 2001 - 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp nghiên cứu cơ bản. Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp
tiếp cận và phân tích hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp,

Luận án cũng đã sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế và trao đổi, đối
thoại với lãnh đạo các địa phương, nhà khoa học, quản lý doanh nghiệp và nông
dân trên địa bàn các tỉnh trong vùng, để thực hiện việc nghiên cứu thực trạng
nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn từ 2001 đến 2006. Nghiên cứu đã dựa trên phân
tích môi trường chung các tỉnh trong vùng về chính trị, kinh tế, xã hội và công
nghệ (mô hình phân tích PEST) để phân tích cơ hội và thách thức đối với một số
ngành lựa chọn xem xét; mô hình 5 lực lượng cạnh tranh áp dụng cho phân tích
môi trường ngành (five forces model); mô hình kim cương (diamond model) để
xác định lợi thế cạnh tranh ngành. Nghiên cứu áp dụng công cụ phân tích chuỗi
giá trị (value chain analysis) để xác định điểm mạnh và điểm yếu. Phân tích
chiến lược của một số doanh nghiệp trong các nhóm ngành công nghiệp chế biến
nông, lâm sản được cho là có tiềm năng trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung
Bộ, nhằm xác định việc chính quyền các tỉnh tạo lập lợi thế cạnh tranh các
ngành này như thế nào.
Nghiên cứu phân tích các nhóm ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản có
khả năng tăng trưởng được tiến hành thông qua ba bước:
(i) Thu thập, rà soát các văn bản hiện hành và số liệu thống kê, các văn bản lưu trữ
tại các sở, ban, ngành các của tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, bao gồm các qui hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được xây dựng triển khai; kết quả đạt được của các
chiến lược, kế hoạch đã triển khai; các qui hoạch, kế hoạch phát triển các chuyên
ngành kinh tế của tỉnh trong thời gian tới cũng được nghiên cứu xem xét và đánh
giá. Đồng thời, dựa trên số liệu thống kê về ngành công nghiệp chế biến nông, lâm
sản trong giai đoạn 2001-2005, tiến hành phân tích và xác định một số ngành công
nghiệp có triển vọng phát triển; với nguồn số liệu điều tra doanh nghiệp trong 5
năm liên tục của Tổng cục Thống kê đã cho phép đánh giá một cách tương đối đầy
đủ các mặt hoạt động của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
tỉnh.
(ii) Gặp gỡ, trao đổi với một số chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý của một số
tỉnh trong vùng nhằm thu thập những thông tin cơ bản, một bức tranh lớn về các

vấn đề quan tâm từ những cá nhân được coi là những nguồn thông tin quan
trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu. Đây là phương thức bổ sung cho
phương thức thứ ba: điều tra, khảo sát doanh nghiệp thông qua phiếu hỏi. Quá
trình gặp gỡ trao đổi với các chuyên gia kinh tế, nhà quản lý của một số tỉnh đã
đưa ra những đánh giá về việc lựa chọn các nhóm ngành công nghiệp chế biến
nông, lâm sản có tiềm năng tăng trưởng để lựa chọn nghiên cứu. Sự lựa chọn
này xem xét tính khách quan và khoa học trong việc lựa chọn các ngành có tiềm
năng tăng trưởng.
(iii) Điều tra bằng phiếu một số doanh nghiệp thuộc nhóm ngành lựa chọn nhằm
xác định những cơ hội phát triển của ngành tiềm năng tăng trưởng; những thách
thức có thể kìm hãm sự phát triển của ngành này trong tương lai; những điểm mạnh
và điểm yếu của các doanh nghiệp; nhu cầu cần hỗ trợ của các doanh nghiệp trong
ngành.
Dựa trên mô hình phân tích 5 lực lượng cạnh tranh, mô hình chuỗi giá trị,
nghiên cứu đã phát triển phiếu khảo sát doanh nghiệp. Phiếu khảo sát năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp được thiết kế nhằm thu thập những thông tin cụ
thể sau:
 Đặc điểm sản phẩm/dịch vụ
 Các điều kiện về thị trường
 Các nguồn cung cấp đầu vào
 Các dịch vụ phát triển kinh doanh tại địa phương
 Những cơ hội và các nhân tố cản trở đến tăng trưởng của doanh
nghiệp
 Năng lực công ty và các điểm mạnh, điểm yếu
 Nhu cầu được hỗ trợ từ các cơ quan chức năng cấp tỉnh
Nghiên cứu đã điều tra bằng phiếu phỏng vấn các doanh nghiệp công nghiệp chế
biến nông lâm sản trên địa bàn các tỉnh trong vùng gồm: 81 doanh nghiệp chế
biến gỗ, các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (tổng số 182 doanh nghiệp thuộc nhóm
ngành này), và 21 doanh nghiệp chế biến thực phẩm (tổng số 47 doanh nghiệp
thuộc nhóm ngành). Sự phân bố lượng mẫu điều tra được căn cứ theo số lượng

thực tế để đảm bảo tính đại diện của mẫu đối với mỗi nhóm ngành. Với qui mô
mẫu đạt trên 44% tổng thể các doanh nghiệp đang hoạt động thuộc hai nhóm
ngành tiềm năng, kết quả khảo sát có thể đại diện cho các doanh nghiệp trong
từng nhóm ngành được lựa chọn.
6. Những điểm mới của Luận án
- Hệ thống hoá lý luận về nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm
sản gắn với phát triển vùng địa phương (cấp tỉnh) trong quá trình công nghiệp
hoá, hội nhập quốc tế; Trong đó trọng tâm là sử dụng mô hình hình thoi của
Micheal Porter và lý luận về phát triển kinh tế địa phương để luận giải các nội
dung cơ bản phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong phát triển địa
phương; xác định mối quan hệ giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, phát
huy lợi thế so sánh nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh trong phát triển công nghiệp
chế biến nông, lâm sản của địa phương; đồng thời xác định phương pháp và đưa
ra các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản
của địa phương.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ từ 2001 đến 2006; xác
định những thành công, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ.
- Đề xuất định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp
chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ trong quá
trình công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu chung của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm sản trong phát triển kinh tế địa phương
Chương 2: Thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản
trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát chủ yếu nhằm phát triển

công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ
MỤC LỤC
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ 1
Mã số đề tài: LA0161 1

×