Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

tăng cường quản lý nhà nước về chiến lược giới ngành nông nghiệp và ptnt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 117 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ là một
trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã được 189 quốc gia thành viên Liên
hợp quốc nhất trí phấn đấu đạt được vào năm 2015.
Trong 10 năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới đã có
những bước tiến đáng kể và ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở cụ thể hoá các
quan điểm, mục tiêu của Đảng về bình đẳng giới và phù hợp với Công ước
CEDAW cũng như các công ước quốc tế khác mà Việt Nam đã tham gia. Cuối năm
2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 1/7/2007. Đây là văn bản luật quy định tập trung nhất các nội dung về bình
đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ tạo hành lang pháp lý cho sự lãnh đạo của
các cơ quan trong hệ thống nhà nước đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ phụ nữ.
Trên phạm vi quốc gia, sau 10 năm thực hiện Chiến lược quốc gia Vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 cũng như các mục tiêu Thiên niên kỷ về
bình đẳng giới mà Việt Nam đã cam kết, thành tựu về bình đẳng giới ở nước ta đã
đạt được những kết quả quan trọng. Vai trò, địa vị của phụ nữ Việt Nam trong xã
hội được nâng lên một bước, khoảng cách giới trong các cấp học phổ thông dần
được thu hẹp. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, phụ nữ vẫn là nhóm xã hội yếu thế
so với nam giới và họ vẫn là đối tượng chủ yếu để thúc đẩy bình đẳng giới nên
trong nhiều năm trước đây, các mục tiêu quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ được coi
là một ưu tiên quan trọng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam và được thể
hiện trong nhiều văn bản pháp luật trên các lĩnh vực, cũng như trong Công ước
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Phụ nữ và nam giới Việt Nam đều có những đóng góp to lớn không thể phủ
nhận trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Phụ nữ và nam giới
ở nông thôn là lực lượng lao động đã đưa Việt Nam từ chỗ là một nước nghèo và
thiếu lương thực nghiêm trọng vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu
lớn trên thế giới về các sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là gạo, cà phê, cao su, hạt
điều, chè, thủy hải sản.


1
Phụ nữ Việt Nam có truyền thống anh hùng bất khuất trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc và bảo vệ đất nước, tích cực trong các hoạt động xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội. Hiến pháp, Luật pháp của Việt Nam thể hiện rõ quan điểm đảm
bảo quyền bình đẳng nam nữ; đồng thời Chính phủ rất quan tâm hỗ trợ các tổ chức
quần chúng, cũng như quan tâm thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các cương vị lãnh
đạo đất nước. Với những điều kiện thuận lợi như vậy, phụ nữ nông thôn Việt Nam
ngày nay đã đạt được địa vị bình đẳng cao hơn so với phụ nữ nhiều nước có cùng
trình độ phát triển kinh tế. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, nhưng việc phụ
nữ tham gia công tác lãnh đạo quản lý và tiếp cận , kiểm soát các nguồn lực còn
chưa tương xứng với vai trò, tiềm năng và vị thế của lực lượng lao động nữ trong
ngành.
Công cuộc CNH-HĐH Nông nghiệp và PTNT cùng với yêu cầu phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ, quá trình hội nhập quốc tế, khu vực và toàn
cầu hoá đặt ra nhiều thời cơ và thách thức trong quản lý, phát triển kinh tế xã hội
và ổn định chính trị, đặc biệt trong yêu cầu thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự
phát triển của nữ CNVCLĐ trong ngành.
Chiến lược giới trong Nông nghiệp và PTNT đặt mục tiêu lồng ghép những
giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong các chính sách, chương trình, dự
án, các dịch vụ phục vụ nông nghiệp và nông thôn, kết hợp một cách hài hòa các
mục tiêu bình đẳng giới với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của ngành. Tư
tưởng xuyên suốt của Chiến lược giới là: đạt được bình đẳng giới và nâng cao vị thế
của phụ nữ nông thôn cũng đồng nghĩa với việc đạt được trình độ phát triển cao hơn
của nông nghiệp và nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp. Đạt được bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ ở khu vực nông thôn
sẽ tạo ra chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cao hơn, đẩy nhanh tốc độ
phát triển và hội nhập của ngành để thực hiện thành công những mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước.
Chiến lược giới trong Nông nghiệp và PTNT thể hiện quyết tâm chính trị của
Bộ Nông nghiệp và PTNT nhằm hướng đến bình đẳng giới, theo phương châm lấy

phát triển con người làm trung tâm. Mục tiêu cao nhất và bao trùm nhất của phát
triển nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn chính là phát triển con người ở khu
2
vực này. Thực hiện bình đẳng giới, xây dựng năng lực và năng cao vị thế của phụ
nữ ở nông thôn không chỉ là giải pháp phát triển nguồn nhân lực mà còn được xem
như một trong các mục tiêu phát triển cao nhất của ngành.
Chiến lược giới trong Nông nghiệp và PTNT được ban hành kèm theo Quyết
định số 4776 QĐ- BNN/ TCCB ngày 28 tháng 10 năm 2003 của Bộ Nông nghiệp và
PTNT. Từ khi ra đời cho đến nay, Chiến lược giới trong Nông nghiệp và PTNT
chưa được tổng kết, đánh giá về kết quả thực hiện mục tiêu, bài học kinh nghiệm
cũng như đưa ra các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước nhằm thực hiện có
hiệu quả Chiến lược giới ngành Nông nghiệp và PTNT trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tác giả hiện đang công tác tại Ban Nữ công, Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt
Nam. Với chức năng là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của phụ nữ trong ngành Nông nghiệp và PTNT, Ban Nữ công Công
đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam đã và đang tích cực triển khai các hoạt động
tuyên truyền, vận động phụ nữ giữ gìn, phát huy phẩm chất đạo đức, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh đó, Ban Nữ công Công đoàn
ngành cũng thực hiện chức năng tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của phụ nữ; tham mưu, đề xuất chính sách với Bộ Nông nghiệp và
PTNT và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về công tác phụ nữ, các vấn đề liên
quan đến chế độ chính sách lao động nữ và bình đẳng giới. Với các kiến thức đã
được lĩnh hội trong quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện Hành chính (2008-
2011), tác giả đã chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nhà nước về Chiến lược giới
ngành Nông nghiệp và PTNT” làm Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
2.1. Nghiên cứu ngoài nước.
Bình đẳng giới có mối quan hệ chặt chẽ không chỉ với sự phát triển của quốc

gia mà còn là điều kiện tiên quyết để phụ nữ phát triển. Bình đẳng giới là vấn đề
trung tâm của phát triển, tạo môi trường thể chế để mang lại quyền hạn và cơ hội
bình đẳng cho phụ nữ, nam giới và cần có những chính sách để tạo cơ hội và điều
kiện cho phụ nữ phát triển.
3
Trên thế giới, Nauy là quốc gia đuợc coi là vương quốc của bình đẳng giới,
với dân số khoảng 4,5 triệu người nhưng chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ
số phát triển giới (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình cao, với nam 77
tuổi, với nữ 82,3 tuổi. Có được thành tựu ấy, người ta cho rằng do Na Uy có nền
kinh tế rất phát triển (GDP bình quân trên đầu người 60 ngàn USD). Nhưng không
phải mọi trường hợp nền kinh tế phát triển đều kéo theo bình đẳng giới. Trên thực tế
cho thấy có những nền kinh tế trên thế giới rất phát triển, nhưng chỉ số HDI và GDI
lại không cao. Vậy nên một hệ thống luật pháp đồng bộ hướng tới mục tiêu bảo vệ
quyền và lợi cho người phụ nữ chính là nguyên nhân quan trọng góp phần làm nên
chỉ số bình đẳng giới. Ngoài ra còn có lý do khác, đó là chính phủ Nauy rất quan
tâm đến vấn đề bình đẳng giới và coi đó là một trong bốn vấn đề trọng tâm phát
triển của đất nước.
Tại Thuỵ Điển, các nghiên cứu về tạo quyền cho phụ nữ đã thực hiện, nhiều
nghiên cứu đánh giá các tác động của phát triển kinh tế và thực hiện bình đẳng giới
đã chứng minh phát triển kinh tế đang mở ra nhiều hướng đi để nâng cao sự bình
đẳng giới lâu dài, một báo cáo của họ cho thấy rằng cần có một chiến lược với ba
nội dung để nâng cao sự bình đẳng giới và tạo quyền cho nữ, đó là: cải cách thể chế
để mang lại quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và nam giới; duy trì phát
triển kinh tế để củng cố những động cơ khuyến khích việc phân phối nguồn lực bình
đẳng hơn; thực hiện những biện pháp tích cực khắc phục sự phân biệt dai dẳng để
có thêm nguồn lực và tiếng nói chính trị. Nhờ các nghiên cứu và ứng dụng tích cực
chiến lược này mà tại Thuỵ Điển phụ nữ độc lập hơn, tỷ lệ nữ tham gia và nắm giữ,
kiểm soát nguồn lực nhiều hơn, Thuỵ Điển là một trong mười quốc gia có chỉ số
phát triển giới GDI và chỉ số phát triển con người HDI cao nhất.
Tại một số nước Nam Á, Châu Phi, Trung Đông, Bắc Phi nhờ các nghiên

cứu, phát hiện ra “Yếu tố thiết yếu trong việc nâng cao bình đẳng giới là tạo lập một
sân chơi thể chế bình đẳng giữa nam và nữ” trong đó nhấn mạnh đảm bảo sự bình
đẳng về những quyền cơ bản, đã cải thiện được sự bình đẳng giới về quyền hạn lên
ngang mức với những nước bình đẳng nhất trong khu vực của họ, tỷ lệ nữ đại diện
trong quốc hội so với nam đã tăng lên gấp đôi so với những nước khác.
4
Nhiều nghiên cứu từ các nước phát triển, các khu vực chính trị trên thế giới
đã tập trung vào đánh giá thực trạng và nghiên cứu các giải pháp chính sách tích
cực khắc phục sự phân biệt dai dẳng giữa nam và nữ nhằm đòi hỏi nguồn lực và
tiếng nói chính trị cho phụ nữ. Họ đã chứng minh việc tăng cường tiếng nói và sự
tham gia vào các hoạt động chính trị của phụ nữ có liên quan đến sự thay đổi về thế
chế nhằm tạo ra sự bình đẳng hơn trong các quyền cơ bản, do đó tăng cường năng
lực tham gia vào diễn đàn chính trị của phụ nữ.
Để thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục tình trạng phân biệt
trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng nói chính trị, nhiều nghiên cứu cho rằng
cần phải có các bước đi có định hướng nhằm khắc phục những hình thức phân biệt
đối xử dưới nhiều hình thức tinh vi, đa dạng tại trong gia đình, cộng đồng và nơi
làm việc.
Thúc đẩy bình đẳng giới, tạo cơ hội và điều kiện cho phụ nữ phát triển có
liên quan đến các vấn đề giới trong phát triển, làm thế nào để nâng cao năng lực
cạnh tranh, khả năng kiểm soát các nguồn lực và tạo quyền cho phụ nữ vẫn luôn là
một vấn đề được quan tâm trên toàn cầu, được các cá nhân, các tổ chức, đặc biệt là
các cơ quan, tổ chức phát triển, các chương trình phát triển của phụ nữ đặt ra nhiều
hướng nghiên cứu cụ thể hơn tại mỗi quốc gia, khu vực chính trị khác nhau với
quan điểm vì sự tiến bộ xã hội bền vững.
2.2. Nghiên cứu trong nước.
Thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ là một trong tám
mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã được các nước thành viên Liên hợp quốc cam
kết tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 9 năm 2000. Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia
khác trên thế giới, đang nỗ lực phấn đấu để xoá đói giảm nghèo và thực hiện quyền

bình đẳng cho cả phụ nữ và nam giới. Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nêu rõ: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với
phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc như nhau thì tiền
lương ngang nhau”. Quan điểm cơ bản trên thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện quyền bình đẳng về mọi mặt cho tất cả
công dân Việt Nam không phân biệt nam, nữ, dân tộc và tôn giáo.
5
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Chính phủ
Việt Nam 2003 và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2005 đã
cụ thể hoá các mục tiêu và các chỉ tiêu về bình đẳng giới cần đạt được vào năm
2005 - 2010.
Chính phủ đã có Nghị định số 70/2008/NĐ- CP ngày 4/6/2008 Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng Giới và yêu cầu các Bộ, ngành, cơ
quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển
khai có hiệu quả Nghị định này của Chính phủ và các văn bản pháp luật có liên
quan đến bình đẳng giới; Cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới trong khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cấp quốc gia và
chiến lược phát triển của các ngành giai đoạn 2011-2020; Thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt là
lao động nữ ở nông thôn; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy hoạch nữ công
chức, viên chức lãnh đạo, quản lý.
Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia Vì sự Tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tại
Hội nghị tổng kết “Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010 và Triển khai Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020,
trong 10 năm qua, việc thực hiện công tác bình đẳng giới và Chiến lược quốc gia
VSTBPN Việt Nam đến năm 2010 đã có những tiến bộ nhất định, góp phần nâng
cao chất lượng công tác này. Vị trí xếp hạng về chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt
Nam đã tăng từ mức trung bình thấp năm 1995 (đứng vị trí thứ 72/130 nước được
xếp hạng) lên mức trung bình cao năm 2009 (đứng vị trí thứ 94/155 nước được xếp

hạng); chỉ số quyền năng giới (GEM) của Việt Nam hiện ở vị trí thứ 62/109 nước,
thuộc nhóm nước có mức phát triển trung bình về giới. Việt Nam được đánh giá là
quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Đến năm
2010, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu, chỉ tiêu trong Chiến lược quốc
gia VSTBPN về thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động
- việc làm, chăm sóc sức khỏe.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Chiến lược quốc gia VSTBPN Việt
Nam đến năm 2010, nhiều chỉ tiêu của các mục tiêu về giáo dục - đào tạo, tăng số
phụ nữ tham gia vào cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành, tăng cường năng lực hoạt
6
động VSTBPN chưa đạt kế hoạch đề ra. Nguyên nhân chủ yếu là do một số cấp ủy
Đảng, lãnh đạo các cấp, các ngành chưa quán triệt và lãnh đạo thực hiện đầy đủ
quan điểm BĐG trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; thiếu cơ chế bảo đảm sự
phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban với các bộ, ngành và các địa phương trong báo cáo,
tổng kết, đánh giá hoạt động; nhiều bộ, ngành, địa phương, đơn vị chưa chủ động
tìm giải pháp phù hợp để thực hiện các chỉ tiêu về bình đẳng giới, chưa thực hiện tốt
việc lồng ghép vào chương trình công tác, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng
năm…
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 là chiến lược
đầu tiên của Việt Nam được xây dựng nhằm xác định mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới cần thực hiện trong 10 năm tới, đồng thời, là một trong những công cụ
quan trọng để đưa Luật Bình đẳng giới vào cuộc sống, thể hiện quyết tâm của Việt
Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về bình đẳng giới. Để đạt các mục
tiêu trong Chiến lược, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy
Đảng, chính quyền các cấp đối với công tác bình đẳng giới; hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền,
giáo dục để nâng cao nhận thức của đảng viên, cán bộ, công chức, người lao động
và các tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới; xây dựng và tổ chức thực hiện Chương
trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020; phát
triển hệ thống dịch vụ có chất lượng cao nhằm hỗ trợ nữ và nam bình đẳng về cơ

hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; huy động, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác bình đẳng giới; tăng cường
công tác nghiên cứu về bình đẳng giới trên các lĩnh vực; đẩy mạnh hợp tác quốc tế
đa phương, song phương về bình đẳng giới …
Bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn ở Việt Nam. Nếu rà soát các chính sách về khuyến khích phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn trong nhiều năm qua, có thể thấy rất ít văn bản quy định cụ thể
về nội dung có quan điểm giới. Các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp,
nông thôn và nông dân đều có mục tiêu nhằm hướng tới sự phát triển về kinh tế và
xã hội chung của tất cả các cộng đồng dân cư ở nông thôn, trong đó bao hàm cả
7
nam và nữ; trong quá trình hoạch định từng chính sách riêng biệt không khi nào đặt
vấn đề có sự phân biết đối tượng nam hay nữ trong hưởng lợi từ chính sách.
Trong những năm đổi mới, các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
nông thôn đã thúc đẩy hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá nông, lâm, thủy sản
để vừa cung cấp hàng hoá đủ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, vừa từng bước vượt qua
đói nghèo và làm giàu. Bên cạnh sản xuất nông, lâm, thủy sản, chính sách còn
khuyến khích phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn nhằm đa
dạng hoá các hoạt động kinh tế, từ đó nhanh chóng nâng cao thu nhập, Những năm
gần đây, Nhà nước còn triển khai nhiều chính sách có mục tiêu hỗ trợ người nghèo,
cộng đồng nghèo phát triển kinh tế, quản lý nguồn lực thông qua các chương trình
có mục tiêu quốc gia như Chương trình 331 về xoá đói, giảm nghèo, Chương trình
135 về phát triển kinh tế ở các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình 661 về trồng mới
5 triệu ha rừng, Chương trình 120 về tạo việc làm
Bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn nói chung và đối với hoạt động nghề cá nói riêng. Trong nghề cá, phụ nữ
không tham gia nhiều vào các hoạt động đánh bắt nhưng lại góp phần đáng kể trong
hoạt động nuôi trồng thủy sản, chế biến, buôn bán và các dịch vụ nghề cá và thể
hiện rõ những thế mạnh riêng trong công việc. Phụ nữ ngành thuỷ sản chiếm hơn
60% tổng số lực lượng lao động trong buôn bán và dịch vụ nghề cá, đặc biệt chiếm

hơn 80% trong lao động chế biến thủy sản Như vậy, không thể phủ nhận vai trò to
lớn của phụ nữ trong chuỗi giá trị sản phẩm nghề cá. Bên cạnh đó, phụ nữ còn góp
phần đáng kể cho việc phát triển thế hệ lao động nghề cá mới thông qua hoạt động
chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng con cái.
Một thực tế cho thấy, phần lớn các dẫn chứng về sự bất bình đẳng giới được
đưa ra trong các nghiên cứu gần đây đều chưa xuất phát từ nhận thức thực tế về
quyền và nghĩa vụ có tính xã hội của từng giới nam và nữ trong các nhóm đối tượng
được nghiên cứu, chưa phân tích rõ những điều kiện khác biệt giữa nam và nữ,
những điều kiện nào có thể khắc phục và những điều kiện nào rất khó hoặc không
thể khắc phục được. Chính vì vậy, rất cần có các tiêu chí thể hiện sự bình đẳng giới
trong các quan hệ kinh tế, văn hoá xã hội khác nhau, để đi đến cách nhìn thống nhất
về nội dung và phạm vi của phạm trù bình đẳng trong quan hệ giới.
8
Tại cấp Bộ, Ngành Nông nghiệp và PTNT: đã có một số đề tài nghiên cứu
đánh giá vai trò lao động nữ nhằm nâng cao năng lực vị thế CBCC, CNVCLĐ nữ
của Bộ Nông nghiệp và PTNT, song mới bước đầu đề cập đến chất lượng nguồn
nhân lực nữ nói chung và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp trong khuôn khổ một số
ít đơn vị thuộc Bộ.
Dự án Cải cách hành chính (CCHC) Bộ Nông nghiệp và PTNT đã thực hiện
khảo sát, điều tra tác động giới trong CCHC của Bộ Giai đoạn I, song mới chỉ dừng
ở mức độ định tính đánh giá thực trạng công tác cán bộ nữ, chưa có những nghiên
cứu sâu hơn để định lượng được nguyên nhân, tác động giới trong lồng ghép vấn
đề công tác cán bộ nữ trong các hoạt động CCHC tại Bộ.
Đề tài nghiên cứu đánh giá vai trò lao động nữ nhằm nâng cao năng lực vị
thế cán bộ công chức, công nhân viên chức và lao động nữ của Bộ Nông nghiệp và
PTNT (Nguyễn Thị Hồng Loan, 2002-2004), song mới bước đầu đề cập đến chất
lượng nguồn nhân lực nữ nói chung và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp trong
khuôn khổ một số ít đơn vị thuộc Bộ.
Đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
hiệu quả công tác quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ nữ ngành Nông nghiệp và

PTNT đến 2010 (Nguyễn Thị Yên Hưng, 2006-2008). Đây là đề tài có tính chiến
lược nghiên cứu thực trạng của công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ công
chức nữ, cán bộ nữ, cán bộ nữ tiềm năng trong các đơn vị thuộc Viện. Căn cứ vào
các kết quả nghiên cứu, triển khai dưới góc độ công đoàn tham gia quản lý và
khuyến nghị, song đề tài mới chỉ trong khuôn khổ nghiên cứu đối tượng cán bộ nữ,
về cơ bản mới chỉ bước đầu đề cập đến chất lượng nguồn nhân lực nói chung và
phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài:
• Viện Quy hoạch Thủy lợi - Ủy ban sông Mê công Việt Nam (2010). Báo cáo
nghiên cứu đánh giá tình hình giới tại Viện quy hoạch Thủy lợi; Hà Nội, tháng
6/2010.
• Astrid Tripodi - Tạ Ngọc Sính (2004). Phân tích giới tại Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn – Nghiên cứu định tính; tháng 9/2004
9
• Khảo sát, điều tra tác động giới trong cải cách hành chính của Bộ Nông
nghiệp và PTNT giai đoạn I (Dự án cải cách hành chính- Bộ Nông nghiệp và
PTNT).
• Nghiên cứu về “Giới với phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan Bộ Thủy
sản” của Tiến sĩ Hà Thị Phương Tiến năm 2002.
Tuy nhiên, các đề tài và nghiên cứu này mới chỉ bước đầu đề cập đến chất lượng
nguồn nhân lực nữ nói chung và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, chỉ trong khuôn
khổ một số ít đơn vị thuộc Bộ. Và mới chỉ dừng ở mức độ định tính đánh giá thực
trạng công tác cán bộ nữ, chưa có những nghiên cứu sâu hơn để định lượng được
nguyên nhân, tác động giới trong lồng ghép vấn đề công tác cán bộ nữ trong các
hoạt động cải cách hành chính tại Bộ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng việc thực hiện Chiến lược Bình
đẳng giới và đề xuất giải pháp tăng cường QLNN về thực hiện tốt Chiến lược giới
ngành Nông nghiệp và PTNT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận QLNN về thực hiện Chiến lược bình đẳng giới.
- Đánh giá thực trạng QLNN về thực hiện Chiến lược giới ngành Nông nghiệp và
PTNT.
- Đề xuất giải pháp QLNN về thực hiện Chiến lược giới ngành Nông nghiệp và
PTNT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: QLNN về Chiến lược giới ngành Nông nghiệp và
PTNT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu nội dung QLNN về Chiến lược giới
ngành Nông nghiệp và PTNT.
Các khối ngành nghề được xác định nghiên cứu :
• Khối quản lý Nhà nước : gồm các đơn vị thuộc cơ quan Bộ.
• Khối các Viện nghiên cứu thuộc Bộ quản lý.
• Khối các trường nghề thuộc Bộ quản lý.
• Khối các doanh nghiệp thuộc Bộ.
10
• Khối ngành nông nghiệp & PTNT địa phương .
• Khối đoàn thể thuộc Bộ, ngành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận: Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả dựa
trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
vận dụng các quan điểm của Đảng về thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phân tích tài liệu: Về thực trạng của đơn vị lựa chọn nghiên cứu, qua nhiều kênh
khác nhau như: các Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Bộ
NN&PTNT, những ấn phẩm đã xuất bản có liên quan đến đề tài; các báo cáo Tổng
kết của đơn vị hàng năm, số liệu thống kê của ngành, các đơn vị … Những thông tin
thứ cấp này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chung về thực trạng thực
hiện Chiến lược giới trong Ngành.

- Phương pháp thống kê: Tác giả đã tiến hành thu thập số liệu thống kê về việc
thực hiện các chỉ số trong Kế hoạch hành động về giới trong giai đoạn 2003 - 2010
của các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, nhằm đánh giá cụ thể những chỉ số đã thực
hiện được và những chỉ số chưa thực hiện được. Từ đó bổ sung những chỉ số cụ thể
trong kế hoạch hành động về giới đến 2015 của Bộ NN và PTNT.
- Điều tra xã hội học: Kết hợp nghiên cứu định lượng (khảo sát bằng phiếu hỏi) với
nghiên cứu định tính (thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu) một số phương pháp thu thập
thông tin sau đây:
11
• Phỏng vấn bảng hỏi: phương pháp phỏng vấn cơ bản được nhóm đánh giá sử
dụng trong quá trình thực hiện là phỏng vấn gián tiếp bằng cách gửi Phiếu thu thập
thông tin đến các đơn vị thuộc ngành Nông nghiệp, nông thôn, đối tượng của
phương pháp phỏng vấn trực tiếp gồm cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tổ
chức, cán bộ làm công tác nữ và một số cán bộ nữ. Tác giả đã gửi đi 400 phiếu, thu
về 270 phiếu (đạt 67,5%), sau khi làm sạch phiếu hỏi, có 250 phiếu được đưa vào
nhập dữ liệu (92,6%). Kết quả điều tra khảo sát, được xử lý theo chương trình
SPSS, phiên bản 17.0
• Phỏng vấn sâu: phương pháp phỏng vấn sâu cho phép tác giả có thể tìm hiểu
nguyên nhân của vấn đề, cũng như quan điểm, chính kiến và đánh giá của cán bộ,
viên chức, người quản lý, lãnh đạo. Tổng số phỏng vấn sâu thực hiện là: 42, trong
đó cơ cấu giới tính như sau: nam 22, nữ 21 (xem bảng 1)
• Thảo luận nhóm : thảo luận nhóm cho phép người nghiên cứu tìm ra được
những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận thức, quan điểm và thái độ của các
thành viên trong nhóm về một chủ đề cụ thể. Trong nghiên cứu này, tác giả quan
tâm đến nhận thức về bình đẳng giới và việc thực hiện Chiến lược giới trong ngành
Nông nghiệp và nông thôn như thế nào?
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài luận văn sẽ góp phần làm rõ những yếu tố thúc đẩy và cản trở tiến
trình thực hiện Chiến lược giới trong nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường quản lý nhà nước về Chiến lược giới ngành Nông nghiệp và

PTNT.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn là tài liệu tham khảo cho Bộ Nông
nghiệp và PTNT, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ Bộ trong việc xây dựng Chiến lược
giới trong giai đoạn 2011-2020. Đồng thời, kết quả của đề tài cũng là tài liệu tham
khảo cho các khóa tập huấn, tuyên truyền về bình đẳng giới. Ngoài ra, kết quả thực
hiện đề tài còn góp phần thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia Vì sự tiến bộ phụ
nữ đến 2020, Nghị quyết 04/NQ-BCT, Chỉ thị 37/CT-TW về tăng cường công tác
cán bộ nữ trong tình hình mới, Chỉ thị 42-CT/TW về công tác cán bộ trong giai
đoạn CNH, HĐH hiện nay, Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
12
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thực hiện Chiến lược bình
đẳng giới
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thực hiện Chiến lược giới ngành
Nông nghiệp và PTNT .
Chương 3: Quan điểm và giải pháp quản lý nhà nước về thực hiện Chiến
lược giới ngành Nông nghiệp và PTNT .
Kết luận và khuyến nghị.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục
13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Bình đẳng giới
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ
xã hội.

Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc
không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng
giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có
sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng
lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như
nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy
bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục
đích bình đẳng giới đã đạt được.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề
giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề
giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
thực hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới.
Tạo quyền là quá trình tăng cơ hội của phụ nữ và nam giới trong việc tự kiểm
soát cuộc sống của họ. Tạo quyền cho phụ nữ hoặc nam giới thường bao gồm các
nội dung tăng quyền và năng lực của phụ nữ hoặc nam giới trong việc phản ánh các
14
nguyện vọng của họ; đưa các vấn đề họ quan tâm vào các chương trình nghị sự;
thương thuyết; ra quyết định; và khắc phục các hủ tục và định kiến lịch sử để lại.
Tiếp cận nguồn lực là khả năng của một cá nhân có thể sử dụng một nguồn
lực nào đó. Ví dụ, có đất để canh tác hoặc vay vốn phát triển sản xuất.
Chỉ số phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình
đẳng giới, được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập
bình quân đầu người của nam và nữ.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
Có những người hiểu bình đẳng giới là sự ngang bằng nhau, nam giới như
thế nào thì phụ nữ như vậy, không thua kém nam giới. Nói cách khác, họ hiểu bình
đẳng giới theo nghĩa cào bằng. Đây là một cách hiểu không đúng về bình đẳng giới.
Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra cách hiểu chưa đúng về
sự bình đẳng nam nữ là chia đều các công việc trong gia đình giữa hai giới: “Nhiều
người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà,
hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát thế là bình đẳng, bình quyền. Lầm to. Đó là
một cuộc cách mạng to và khó!” (Hồ Chí Minh, 1995, toàn tập, tập 6, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr 433).
Bình đẳng giới nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau trong xã hội.
Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và phụ nữ phải như nhau, mà là những
sự giống nhau và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới phải được công nhận và đánh
giá một cách bình đẳng. Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có điều kiện
như nhau để thực hiện đầy đủ các quyền của mình và có cơ hội để đóng góp và thụ
hưởng sự phát triển chính trị, kinh tế - xã hội và văn hoá của đất nước.
Trong Luật Bình đẳng giới, đã chỉ ra các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng
giới, như sau: “Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình. Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ
không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
15
trong xây dựng và thực thi pháp luật. Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân” (Điều 6).
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của Luật Bình đẳng giới
cho thấy cần tính đến sự khác biệt giữa nam giới và phụ nữ trong việc thúc đẩy bình
đẳng giới. Sự quan tâm và ưu tiên cho phụ nữ không được coi là “phân biệt đối xử
về giới”, không phải là bất bình đẳng giới trong việc thực thi các chính sách xã hội,

luật pháp.
Cũng có quan niệm cho rằng, khi người phụ nữ không tham gia hoạt động
bên ngoài gia đình (lao động sản xuất, quản lý lãnh đạo hay hoạt động văn hoá nghệ
thuật,.v.v) thì như vậy là “bất bình đẳng” nam nữ. Thiết nghĩ, không nên quan niệm
một cách máy móc về điều này, bởi vì bình đẳng giới quan trọng là ở sự tôn trọng
lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau làm việc và cống hiến.
Công bằng giới là quá trình đối xử công bằng đối với nam giới và phụ nữ - ví
dụ như sự phân bổ công bằng về nguồn lực và cơ hội. Công bằng có thể được coi là
phương tiện/biện pháp thực hiện và bình đẳng giới là mục đích cuối cùng. Công
bằng sẽ dẫn tới bình đẳng. (Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam;
2004:2).
Có nhiều ví dụ cho thấy xã hội còn chưa có công bằng giới, điều này thể hiện
rất rõ ở chuẩn mực kép trong quan hệ giới. Vận dụng khái niệm chuẩn mực kép vào
lĩnh vực nghiên cứu giới, có thể định nghĩa giới và chuẩn mực kép như sau: Đó là
sự lượng giá (khen, chê) mà người ta áp đặt cho các thành viên của giới này nhưng
lại không áp đặt cho cho các thành viên của giới kia.
1.1.2. Chiến lược Bình đẳng giới
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành quan trọng
của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến
lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước. Công tác bình đẳng giới là một
trong những yêu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng
gia đình và toàn xã hội.
Hiện nay, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá nhanh, được cộng đồng quốc tế
đánh giá là một trong số các nước đang phát triển đã đạt được những thành tựu nổi
bật trong cải cách kinh tế hướng tới tăng trưởng và giảm nghèo. Cùng với tăng
16
trưởng kinh tế, các lĩnh vực xã hội có những chuyển biến tích cực. Những tiến bộ
này đã tạo thuận lợi cho việc triển khai và lồng ghép các mục tiêu bình đẳng giới và
sự tiến bộ phụ nữ vào các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các
chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục và chăm sóc sức khỏe…

Hệ thống pháp luật, chính sách về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ từng
bước được hoàn thiện, Quốc hội đã thông qua Luật Bình đẳng giới, Chính phủ đã
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật và đã hình thành hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về bình đẳng giới từ Trung ương tới địa phương; vấn đề bình đẳng
giới được lồng ghép vào các văn bản luật pháp, chính sách và chương trình phát
triển kinh tế- xã hội.
Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được kiện toàn, đảm bảo
sự gắn kết giữa cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới với tổ chức phối hợp
liên ngành vì sự tiến bộ của phụ nữ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các nhiệm
vụ vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân về
công tác bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội đã có
những tiến bộ đáng kể, tạo thuận lợi trong việc đưa các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến
lược vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách, chương trình, dự án của các
cấp, các ngành.
1.1.3. Quản lý nhà nước về thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 2351/ QĐ- TTg phê
duyệt Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới. Theo đó, Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các Bộ,
ngành liên quan, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các tổ chức chính trị
- xã hội và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức
triển khai Chiến lược trên phạm vi cả nước, bảo đảm gắn kết chặt chẽ với các chiến
lược liên quan do các Bộ, ngành khác chủ trì thực hiện; xây dựng và trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011
-2020; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hằng năm về bình đẳng giới phù
hợp với Chiến lược này và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 –
2020; rà soát để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm
17
quyền sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, chính sách cho phù hợp với nguyên tắc
bình đẳng giới; hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp tình hình thực hiện Chiến lược và

định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ chức sơ kết vào cuối năm 2015 và tổng
kết việc thực hiện Chiến lược vào cuối năm 2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành liên quan vận động các nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) cho các chương trình, dự án về bình đẳng giới; lồng ghép
các mục tiêu, chỉ tiêu về bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm và 5 năm ở cấp quốc gia; hướng dẫn lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về
bình đẳng giới vào việc xây dựng và đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ
tiêu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa
phương.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, căn cứ khả năng
ngân sách nhà nước hàng năm, bố trí ngân sách để thực hiện các chương trình, dự
án về bình đẳng giới sau khi được phê duyệt; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc sử
dụng kinh phí thực hiện các chương trình, dự án về bình đẳng giới đã được phê
duyệt theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật khác
liên quan.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và
các Bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan
đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới trong
phạm vi điều chỉnh của văn bản.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan liên quan xây dựng,
trình Chính phủ ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định về quy hoạch,
tạo nguồn cán bộ nữ, tỷ lệ nữ để bổ nhiệm các chức danh trong các cơ quan nhà
nước; rà soát, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn và tổ
chức thực hiện quy định về tuổi bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng nữ cán bộ, công chức,
viên chức; hướng dẫn các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập kế
hoạch hàng năm về biên chế công chức làm công tác bình đẳng giới; giao biên chế
18

công chức làm công tác bình đẳng giới sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt; thực hiện việc lồng ghép kiến thức về giới và bình đẳng giới trong đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ,
ngành liên quan, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai Chiến lược Dân số -
Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020 sau khi được phê duyệt; đẩy mạnh công
tác tuyên truyền cảnh báo và chủ động kiểm soát, giải quyết các nguyên nhân sâu xa
làm mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ
chức triển khai Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 sau khi được
phê duyệt; thực hiện các nội dung giáo dục về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản,
bình đẳng giới cho học sinh, sinh viên; bồi dưỡng cho giáo viên, giảng viên về giới,
giới tính, sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới; lồng ghép các vấn đề bình đẳng giới
vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng đẩy
mạnh và đổi mới các hoạt động truyền thông, giáo dục về chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
các hoạt động về thông tin, báo chí, xuất bản (bao gồm xuất bản, in, phát hành xuất
bản phẩm), thông tin trên Internet về bình đẳng giới và liên quan đến bình đẳng
giới; xử lý nghiêm những hành vi xuất bản các ấn phẩm, sản phẩm thông tin có định
kiến giới.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức
triển khai Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 sau khi
được phê duyệt; xây dựng và triển khai các hoạt động can thiệp phòng, chống bạo
lực gia đình; lồng ghép các nội dung về bình đẳng giới vào các thiết chế văn hóa
hướng tới mục tiêu gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền

vững.
19
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và triển
khai thực hiện các hoạt động phòng, chống tội phạm buôn bán người.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội xây dựng, chỉ đạo thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học về
bình đẳng giới.
Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
các Bộ, ngành liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, vận động thực
hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số; xây
dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính
sách đặc thù hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; vận động
đồng bào dân tộc thiểu số phát huy các phong tục, tập quán và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam
và các cơ quan thông tin đại chúng khác tăng thời lượng phát sóng, số lượng bài
viết và nâng cao chất lượng tuyên truyền về bình đẳng giới trong các chương trình,
chuyên trang, chuyên mục.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tham gia thực hiện
Chiến lược trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ đã được giao; xây dựng và tổ chức
thực hiện các kế hoạch hành động hằng năm và định kỳ 5 năm để triển khai thực
hiện Chiến lược; đẩy mạnh phối hợp liên ngành, đặc biệt trong việc lồng ghép các
vấn đề bình đẳng giới trong công tác kế hoạch hóa và hoạch định chính sách; kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện Chiến lược tại cơ quan mình.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển
khai thực hiện Chiến lược tại địa phương theo hướng dẫn của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành chức năng; xây dựng và tổ chức thực hiện
các kế hoạch hành động 5 năm và hằng năm về bình đẳng giới phù hợp với Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 và kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của địa phương trong cùng thời kỳ; phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích
cực trong việc huy động nguồn lực để thực hiện Chiến lược; lồng ghép việc thực
hiện có hiệu quả Chiến lược này với các Chiến lược khác có liên quan trên địa bàn;
20
bố trí đủ cán bộ, công chức làm công tác bình đẳng giới ở địa phương; đẩy mạnh
phối hợp liên ngành, đặc biệt trong việc lồng ghép các vấn đề về bình đẳng giới
trong công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương;
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện Chiến lược tại địa phương; thực hiện chế độ
báo cáo hàng năm việc thực hiện Chiến lược trên địa bàn theo quy định hiện hành.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam và các tổ chức thành viên, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, tham gia tổ chức triển khai Chiến lược; đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong tổ chức mình; tham gia
xây dựng chính sách, pháp luật, tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới; tham
gia giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; nghiên cứu, bố trí hội viên
Hội Phụ nữ làm cộng tác viên, tuyên truyền viên về bình đẳng giới ở cơ sở.
1.2. Sự cần thiết phải QLNN về thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới
1.2.1. Vai trò của thực hiện bình đẳng giới
Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như
nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế- xã hội và phát triển nguồn nhân lực,
tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác,
hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Vấn đề bất bình đẳng giới trong việc làm, trong tiếp cận nguồn lực để phát
triển năng lực nghề nghiệp của số đông phụ nữ rõ ràng cần được giải quyết khi Việt
Nam muốn cạnh tranh thắng lợi trong hội nhập kinh tế. Để huy động mọi thiết chế
xã hội (gia đình, nhà trường, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức tôn giáo, các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp…) tham gia và có trách nhiệm thực hiện bình đẳng
giới trước yêu cầu mới của công cuộc phát triển, cần khắc phục một số hạn chế sau:
Thứ nhất là hoạt động thực thi pháp luật của nhiều cơ quan nhà nước trên các
lĩnh vực vẫn còn mang nặng thói quen, tập quán văn hoá trọng nam do bị ảnh hưởng

của tư tưởng Nho giáo. Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại hai cách tiếp cận đối với
vấn đề bình đẳng giới, đó là cách tiếp cận hình thức và bảo thủ. Cách tiếp cận hình
thức có những đặc điểm sau: Coi phụ nữ và nam giới như nhau nên đối xử với họ
như nhau trong khi phụ nữ và nam giới có những khác biệt về sinh học, xã hội; Áp
dụng các tiêu chuẩn của nam giới và chưa tính đầy đủ đến các nhu cầu, nguyện
21
vọng của phụ nữ. Cho rằng phụ nữ có thể tiếp cận cơ hội công bằng theo cách thức
tương tự như nam giới, do đó trong nhiều trường hợp đã tạo gánh nặng cho phụ nữ.
Cách tiếp cận bảo thủ có đặc điểm: Thừa nhận sự khác biệt nhưng lại lấy những
điểm yếu của phụ nữ làm cơ sở cho sự đối xử khác biệt với họ; Do bị đối xử khác
biệt, phụ nữ mất đi hàng loạt cơ hội tiếp cận và vì vậy sự lựa chọn bị hạn chế;
Quyền con người của phụ nữ bị cắt giảm do sự hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực
và quyền lợi; Góp phần củng cố khuôn mẫu sẵn có về nam và nữ, dẫn tới kìm hãm
thay đổi xã hội theo hướng bình đẳng giới.
Việc đưa ra những quy định “như nhau” đối với phụ nữ và nam giới trong
một số lĩnh vực như tuyển dụng, đề bạt… trên thực tế lại gây bất lợi cho phụ nữ và
đó chính là kết quả của cách tiếp cận hình thức. Biểu hiện cụ thể của cách tiếp cận
bảo thủ là những quy định mang tính “bảo vệ”, “ưu tiên”. Chúng ta có thể liệt kê rất
nhiều quy định bắt nguồn từ cách tiếp cận này mà trong đó quy định tuổi hưu hiện
nay là một ví dụ điển hình. Trong môi trường kinh tế-xã hội năng động, phụ nữ cần
được tạo điều kiện để tham gia vào quá trình phát triển. Quy định hiện nay không
chỉ làm giảm thời gian làm việc của phụ nữ mà còn tác động đến cả tiến trình phát
triển nghề nghiệp của phụ nữ. Để cho phụ nữ được lựa chọn cơ hội cho mình thông
qua quyền bình đẳng ở tuổi hưu. Nếu có nguyện vọng họ được nghỉ trước không
quá 5 năm mà không bị trừ phần trăm lương hưu do nghỉ trước tuổi.
Thứ hai là, các quy định về bình đẳng giới hiện còn tản mạn, rải rác trong
các văn bản luật, quy phạm pháp luật cần được hệ thống hoá trong một đạo luật
chính thức về bình đẳng giới với trách nhiệm cụ thể của các cơ quan quản lý nhà
nước.
Sự tản mạn của các quy định về bình đẳng giới khiến cho các cơ quan nhà

nước chậm phát hiện ra các vấn đề bất bình đẳng giới mới nảy sinh, một số lĩnh vực
nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật và dẫn đến tình trạng không cơ quan nào
chịu trách nhiệm. Ví dụ như, hiện nay có khoảng 70- 80 % phụ nữ đang làm việc ở
khu vực phi chính thức, trong đó 60% là nông dân, 20% là lao động tự do trong các
ngành kinh tế phi nông nghiệp và chủ các cơ sở sản xuất siêu nhỏ. Họ không chỉ có
thu nhập bấp bênh mà còn thiếu cơ hội tham gia các sinh hoạt chính trị, văn hoá
cộng đồng, hầu như đứng ngoài các lợi ích mà dịch vụ công mang lại như y tế, đào
22
tạo… Vấn đề tiền công và điều kiện làm việc của số đông phụ nữ trong ngành giầy
da, may mặc cũng là những ví dụ cụ thể. Trong một số nhà máy, phụ nữ phải mua
hoặc tự làm quần áo bảo hộ cho mình. Họ làm việc từ 12- 14 tiếng/ ngày, có khi kéo
dài cả tháng. Song hiện có rất ít tài liệu nói về tiền lương, điều kiện làm việc của
công nhân nhà máy ở Việt Nam và những bất bình đẳng giới trong đó.
Để khẳng định những cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu
bình đẳng giới, năm 2006, Quốc hội đã thông qua Luật bình đẳng giới với những
quy định có tính hệ thống về bình đẳng giới trong các lĩnh vực. Luật đã xác định
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình
đẳng giới; Ban hành và thực thi các chính sách thúc đẩy bình đẳng giới; Đảm bảo
bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc thực
hiện.
Thực tế đã cho thấy nếu các cơ quan, đặc biệt là các cơ quan nhà nước không
đảm bảo thực hiện bình đẳng giới ngay từ khâu hoạch định chính sách tới việc tổ
chức hoạt động của mình thì luật pháp về bình đẳng giới sẽ khó được thực thi.
1.2.2. Vai trò của Chiến lược Bình đẳng giới
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành quan trọng
của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, là nền tảng của chiến lược
phát triển con người của Đảng và Nhà nước. Công tác bình đẳng giới là một trong
những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia
đình và toàn xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự
phối hợp của các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị- xã hội

nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, sự tham gia của mỗi cá nhân, từng
gia đình và cả cộng đồng đối với công tác bình đẳng giới. Huy động tối đa mọi
nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác bình đẳng giới.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là đến năm 2020 về cơ bản, bảo đảm bình
đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền
vững của đất nước.
Các mục tiêu cụ thể của Chiến lược: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào
các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh
23
vực chính trị; Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm;
tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu
số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo; Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và
thông tin; Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo
lực trên cơ sở giới; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
1.2.3. Vai trò của QLNN thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự lãnh đạo của chính
quyền các cấp đối với sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới. Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết số 11- NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tổ chức thực hiện Nghị quyết trên, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 57/ NQ- CP ban hành chương trình hành động
của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/ TW của
Bộ Chính trị. Việc ban hành Nghị quyết tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng,
Chính phủ trong việc lãnh đạo chỉ đạo bình đẳng giới và phụ nữ.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả thực hiện các quyền bình đẳng giới của các
cơ quan nhà nước có liên quan; Thực hiện lồng ghép có hiệu quả nội dung bình

đẳng giới vào nội dung kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội hàng năm và 5 năm của
cả nước và của từng Bộ, ngành, địa phương; Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ có
hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị- xã hội và các tổ chức khác ở Trung ương và địa phương trong
việc tổ chức triển khai, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá tình hình thực hiện các quyền cơ
bản của phụ nữ và các mục tiêu của Chiến lược; Tăng cường các hoạt động tuyên
truyền về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ nhằm từng bước nâng cao nhận thức
của mọi tầng lớp nhân dân về vai trò và vị trí của phụ nữ; Đẩy mạnh các hoạt động
hợp tác quốc tế nhằm học tập, chia sẻ kinh nghiệm và vận động nguồn lực hỗ trợ
thực hiện Chiến lược; Nâng cao năng lực thu nhập, phân tích, xử lý và cung cấp
thông tin, dữ liệu về bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu đánh giá kết quả thực hiện
24
bình đẳng giới và các mục tiêu của Chiến lược; Bố trí kinh phí thực hiện Chiến lược
thông qua các Chiến lược, Chương tình mục tiêu quốc gia có liên quan và trong dự
toán chi ngân sách hằng năm của các Bộ, ngành, địa phương, đồng thời chủ động
huy động tài trợ của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Quan điểm, chủ trương về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ của Đảng
và Nhà nước ta luôn nhất quán và thể hiện rõ quyết tâm thực hiện các cam kết quốc
tế về vấn đề này. Các văn bản luật pháp, chính sách về bình đẳng giới cũng như liên
quan tới phụ nữ được ban hành, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai công tác
vì sự tiến bộ phụ nữ.
1.2.4. Ngành Nông nghiệp và PTNT
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định tại Nghị định số 01/2008//NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2008 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi và
phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước các dịch vụ công và
thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà

nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật". Là một Bộ kinh tế
tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò
quan trọng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Năm 2010, giá trị sản
xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 ước đạt 232 652,16 tỷ
đồng, tăng 4,69% so với năm 2009. Tốc độ tăng trưởng GDP của ngành năm 2010
vẫn đạt 2,87% (năm 2009 đạt 1.83%)”. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt
mức kỷ lục, 19,15 tỷ USD, tăng gần 22,6% so với năm 2009, tăng bình quân
17%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010. Xuất khẩu nông sản ước tính đạt 9,95 tỷ
USD tăng 16,3 %, thuỷ sản đạt 4,94 tỷ USD tăng , lâm sản và gỗ đạt 3,63 tỷ USD.
Ba mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD là thuỷ sản, đồ gỗ, gạo.
Nhiệm vụ chính trị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được đặt ra
không chỉ là nhiệm vụ của các ngành trước đây về sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản một cách riêng rẽ mà còn là sự đòi hỏi cao
25

×