Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

thực trạng và định hướng bảo tồn trò chơi dân gian việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.75 KB, 56 trang )


MỤC LỤC
MỤC LỤC ……………………………………………………….……… …… Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………… ……… 3
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………… 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. …………………… ……………… ….4
3.Lịch sử vấn đề …………………………………………… …………………… 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu …….……………………………………… 5
5. Phương pháp nghiên cứu. …………………………………… 5
6. Đóng góp của đề tài……………………………………………………………… 6
7. Cấu trúc đề tài. ………………………………………………………………….…6
NỘI DUNG………………………………………………………… … ….7
Chương 1: Khái quát chung về trò chơi dân gian Việt Nam. ………………… 7
1.1. Sự hình thành trò chơi dân gian Việt Nam……………………… 7
1.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian Việt Nam …… ……………………………… 7
1.1.2. Nguồn gốc…………………………………………………………… 8
1.1.3. Quá trình hình thành phát triển………………………………………… 9
1.2. Đối tượng của trò chơi dân gian Việt Nam. ………………………… 10
1.3.Phân loại và khảo tả trò chơi dân gian Việt Nam……………………………… 12
Chương 2. Trò chơi dân gian Việt Nam – nơi lưu giữ văn hóa dân tộc… 23
2.1. Đặc điểm của trò chơi dân gian Việt Nam. …………………………………… 23
2.1.1. Tính đa dạng, phong phú. ………………………………………………… 23
2.1.2. Tính gần gũi, giản tiện. …………………………………………………… 24
2.1.3. Tính thường xuyên, liên tục. ………………………………………… 26
2.1.4. Tính đặc trưng vùng miền………………………………………… 27
2.1.5. Trò chơi dân gian có mối quan hệ với lễ hội. ………………… 28
2.1.6. Trò chơi dân gian trẻ con thường đi kèm với đồng dao. …………………….28
2.1.7. Trò chơi dân gian người lớn gắn với tín ngưỡng phồn thực 30
1

2.2. Trò chơi dân gian lưu giữ và phản ánh cuộc sống, văn hóa dân tộc 31


2.2.1. Phản ánh cốt cách, phong thái Việt 31
2.2.2. Phản ánh tính ngưỡng, văn hóa dân tộc 33
2.3. Tính giáo dục Trò chơi dân gian 34
2.3.1. Giúp trẻ lanh lợi, hoạt bát 35
2.3.2. Rèn luyện trí tuệ, tăng cường óc phán đoán 37
2.3.3. Tạo tư duy trừu tượng, sáng tạo 37
2.3.4. Tập cách cư xử, thích ứng 38
2.3.5. Giúp tạo lập một nhân cách tốt 39
Chương 3: Thực trạng và định hướng bảo tồn trò chơi dân gian Việt Nam…… 41
3.1. Thực trạng trò chơi dân gian hiện nay. …………………………………….… 41
3.1.1 Tích cực………………………………………………………… ….…… 41
3.1.2. Tiêu cực. ……………………………………………………………… ….41
3.2. Định hướng bảo tồn và phát triển. ………………………………………………43
3.2.1. Bảo tồn không tách rời giá trị……………………………………………… 45
3.2.2. Đánh thức sự quan tâm của xã hội và từ phía các bậc cha mẹ………………45
3.2.3. Tạo khoảng không gian mới cho trò chơi dân gian………………………….47
3.2.4. Đưa trò chơi dân gian vào lễ tết, festival hiện đại………………………… 47
KẾT LUẬN……………………………………… 48
Phụ Lục
Danh mục tài liệu tham khảo
2

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Trò chơi dân gian là một trong những thành tố của nền văn hóa dân tộc, nó xuất hiện
từ rất lâu đời và gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh lễ hội,
trò chơi dân gian cũng là một hình thức vui chơi giải trí nhưng lại không đơn thuần chỉ là
một “trò chơi”, nó là một thú vui nhưng cũng vừa là một giá trị văn hóa, một người bạn
tinh thần, một phương thức hiệu quả để giáo dục nhân cách con người.
Xét trên nhiều khía cạnh, trò chơi dân gian là một nét văn hóa có giá trị, ảnh hưởng

tích cực và cần thiết đối với đời sống tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong giai đoạn
hiện nay, khi xã hội đang ngày càng phát triển thì con người lại có xu hướng quên mang
theo những giá trị văn hóa đi cùng với sự phát triển của thời đại, những giá trị văn hóa tinh
thần vì thế mà bị biến đổi và dần mất đi không loại trừ trò chơi dân gian. Ngày nay, trò
chơi dân gian trở nên hiếm thấy và hiếm bắt gặp trong đời sống con người. Sự thiếu vắng
đó không phải vì bản thân trò chơi dân gian mất đi giá trị mà vì xã hội đang dần quên đi giá
trị hữu ích của nó. Con người đang phát triển thiên về vật chất, chạy đua với công nghệ
nhưng lại quên mất rằng chính những giá trị văn hóa như trò chơi dân gian mới chính là
gốc gác, là nền tảng cho sự phát triển bền vững, tồn tại lâu dài của họ.
Là những con người đã từng sống trong giai đoạn hưng thịnh của trò chơi dân gian,
trải qua cái thời kỳ mà trò chơi dân gian vẫn còn là niềm thích thú, say mê cả một cộng
đồng người Việt, chúng tôi đã luôn dành một niềm yêu mến lớn lao đối với nó, coi nó là
tuổi ấu thơ, là những điều đáng nhớ nhất trong cuộc sống của mình. Chúng tôi thật sự cảm
thấy luyến tiếc khi một giá trị văn hóa đẹp như thế lại đang dần biến mất, lụi tàn trong cuộc
sống hiện tại. Vì những lẽ đó, chúng tôi muốn đưa đề tài này ra nghiên cứu mong trò chơi
dân gian sẽ được hệ thống lại đầy đủ và phục hồi những gì là giá trị vốn có của nó.
3

2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu trò chơi dân gian trong hoàn cảnh đang dần mất đi như ngày nay, chúng
tôi muốn đi sâu vào giá trị của nó, làm rõ và khẳng định những giá trị mà trò chơi dân gian
mang lại cho cuộc sống, cho nền văn hóa dân tộc. Hệ thống lại những trò chơi dân gian
Việt Nam đã và đang tồn tại trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, tạo cho thế hệ ngày
nay thấy được những giá trị văn hóa dân tộc trong trò chơi dân gian và có cái nhìn khách
quan hơn về thực trạng của trò chơi dân gian để từ đó có ý thức, bảo tồn và giữ gìn nó.
Chúng tôi hy vọng rằng đề tài nghiên cứu này sẽ là nguồn tài liệu giúp ích cho
những người quan tâm đến trò chơi dân gian có điều kiện hiểu thêm một khía cạnh khác
của trò chơi dân gian. Và cũng mong rằng nó sẽ góp phần vào công cuộc giữ gìn, khôi
phục các giá trị văn hóa truyền thống Việt.
3.Lịch sử vấn đề

Trò chơi dân gian Việt Nam không phải là là một đề tài quá mới mẻ, nhất là khi nó
là một giá trị văn hóa tồn tại từ rất lâu đời của dân tộc. Trước năm 1945 đã có một vài tài
liệu viết về Trò chơi dân gian, những tài liệu này viết bằng Tiếng Pháp và in trong tập san
tạp chí Viễn Đông Bác Cổ, trong đó có một bài của Cố đạo Ca-đi-e (cadiere) và một bài
của tác giả Ngô Qúy Sơn (xuất bản năm 1944). [6,156] Từ đó cho đến nay trò chơi dân
gian đã có nhiều người đề cập và nghiên cứu hơn. Có thể kể đến công trình nghiên cứu của
Mai văn Muôn- Trò chơi xưa và nay, nhà xuất bản thể dục thể chất Hà Nội 1989. Lịch sử
trò chơi -Thái Phong Minh, nhà xuất bản giáo dục năm 2004. 100 trò chơi dân gian Việt
Nam- Nguyễn Hạnh xuất bản năm 2006, nhà xuất trẻ. Bùi Quang Thắng, trò chơi dân
gian- những giá trị văn hóa độc đáo, báo văn hóa 1996. Hay tác giả Toan Anh với Nếp Cũ-
Trẻ em chơi, và một số bài viết khác nữa.
Những công trình này đã thật sự mang đến sự sinh động, phong phú cho trò chơi
dân gian Việt Nam ta, hướng tiếp cận của những bài nghiên cứu này đều có một điểm
chung, đó là phần lớn đều nghiêng về sự tiếp cận khái quái quát và sưu tầm. Bài viết của
Cố đạo Ca-đi-e là công việc sưu tầm, liệt kê những hình thức vui chơi giải trí mà người
Pháp nhìn thấy ở Việt Nam ta, bài của Ngô Qúy Sơn hay 100 Trò chơi dân gian của
Nguyễn Hạnh cũng dựa trên tinh thần sưu tầm đó. Sau này, Lịch sử trò chơi của Thái
Phong Minh đề cập đến quá trình lịch sử của trò chơi nhưng lại nghiêng nhiều về trò chơi
4

Trung Quốc, một phần ít nói về trò chơi dân gian Việt Nam. Tác giả Mai Văn Muôn thì lại
đề cập đến trò chơi dân gian theo hướng “luật hóa” để trở thành một môn thể thao thi đấu.
Đến Nếp Cũ- Trẻ em chơi của Toan Ánh thì đây là một công trình nghiên cứu về trò chơi
dân gian của trẻ em, kể lại những trò chơi và cách thức chơi mà ông từng biết. Như vậy,
hầu hết những bài nghiên cứu này đều mang tính khái quát, thống kê và sưu tầm dưới
những con mắt cá nhân khác nhau.
Lật tìm ở những trang viết, những bài nghiên cứu khác, nhiều người đã nhận thấy
được giá trị của trò chơi dân gian Việt Nam. Với con mắt của những nhà giáo dục học thì
trò chơi dân gian vừa là phương tiện phát triển toàn diện nhân cách vừa là hình thái tổ chức
cuộc sống, do đó trò chơi dân gian là hoạt động chủ đạo trong giáo dục. Nguyễn Hạnh

trong cuốn 100 Trò chơi dân gian Việt Nam đã nói “Trò chơi dân gian là vốn quí của dân
tộc, đã từng gắn liền với đời sống lao động và các cuộc hội hè, đình đám của nhân dân”. Và
Bùi Quang Thắng cũng đã khẳng định rằng “trò chơi dân gian là những giá trị thể hiện nền
văn hoá lâu đời của mỗi tộc người”. Có thể thấy, ai cũng cho là trò chơi dân gian có giá trị
nhưng thực tế giá trị đó như thế nào thì lại chưa có nguồn tài liệu nào đi sâu vào nghiên
cứu, chỉ Bùi Quang Thắng có đề cập đến vấn đề này trong trò chơi dân gian- những giá trị
văn hóa độc đáo nhưng đây lại là một bài viết mang tính gợi mở vấn đề, tản mạn trên báo
chí. Với mục đích tìm hiểu trò chơi dân gian theo hướng nghiêng về giá trị và bảo tồn giá
trị, chúng tôi sẽ cố gắng để làm sâu sắc hơn vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là trò chơi dân gian Việt Nam cả từ ngàn
đời xưa cho đến thời đại ngày nay.
Đây lại là một đối tượng rất rộng khi Việt Nam ta có đến 54 dân tộc với những nét
đặc trưng khác nhau, bên cạnh đó Việt Nam lại nhiều vùng miền, mỗi vùng miền lại không
kém phần đa dạng trong văn hóa ứng xử, cách sống, và cách vui chơi giải trí. Sự nghiên
cứu sẽ khó mà bao quát hết được trong một phạm vi lớn, do đó chúng tôi sẽ nghiên cứu vấn
đề này trong phạm vi trò chơi dân gian của người Kinh.
5.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, trong đó có một vài phương pháp tiêu biểu như:
5

- PP Điền dã
- PP Phân tích bình luận
- PP Thống kê phân loại
- PP So sánh đối chiếu
6. Đóng góp của đề tài
Đi vào tìm hiểu trò chơi dân gian trên phương diện là một giá trị văn hóa, chúng tôi
hy vọng rằng đề tài sẽ đóng góp một cái nhìn rõ hơn về giá trị của trò chơi dân gian Việt
Nam.

Bên cạnh đó, bảo tồn trò chơi dân gian là một vấn đề được nhiều người đề cập đến
trong thời gian hiện nay, nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói
trong việc khẳng định giá trị của trò chơi dân gian và tính cấp thiết phải bảo tồn giá trị đó.
7. Cấu trúc đề tài
Khảo cứu vấn đề này, bài nghiên cứu của chúng tôi sẽ có nội dung như sau:
Chương 1: Khái quát chung về trò chơi dân gian Việt Nam
Chương 2. Trò chơi dân gian – nơi lưu giữ văn hóa dân tộc
Chương 3. Thực trạng và định hướng bảo tồn trò chơi dân gian Việt Nam
6

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN VIỆT NAM
1.1. Sự hình thành trò chơi dân gian Việt Nam
1.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian Việt Nam
Trong đời sống tinh thần của nhân dân xưa, hằng ngày, trong các làng xóm, thôn
bản, đường làng hay ngoài ruộng đồng luôn diễn ra những hoạt động tụm năm tụm bảy vui
chơi của trẻ em hay những cuộc thi tài của người lớn. Những hoạt động này phong phú,
muôn hình muôn vẻ, thu hút nhiều người tham gia và luôn sôi nổi, hào hứng. Nhân dân ta
quen gọi những hoạt động vui chơi như thế là trò chơi dân gian.
Trong từ điển Bách Khoa Toàn Thư thế giới của Pháp (xuất bản 10/1988) thì cái gọi
là “trò chơi” này “là một hoạt động thoát khỏi những toan tính kiếm sống, sinh lợi của đời
thường”. Bên cạnh đó, cuốn Đại từ điển Bách Khoa Toàn thư của Liên Xô cũ (xuất bản
1922) cũng có viết rằng “trò chơi được coi là một hoạt động không tính lợi (phí sản xuất).
Ở đó, động cơ hành động không nằm ở kết quả cuộc chơi mà nằm ngay ở quá trình hoạt
động (quá trình chơi)” [12,17]. Còn theo tác giả người Pháp Pancan thì “Trò chơi là một
hình thức giải trí tốt nhất để giúp con người thoát khỏi những phiền muộn của cuộc sống”.
Hay theo GS Tô Ngọc Thanh thì “trò chơi là một hoạt động dưới dạng trình diễn những tín
hiệu và thông qua quy luật sáng tạo và nâng cao nhận thức của họ về tự nhiên, xã hội và
bản thân”. Hầu hết những khái niệm về “trò chơi” đều cho nó gắn với mục đích cốt yếu là

sự vui chơi giải trí. Trò chơi dân gian Việt Nam cũng không nằm ngoài yếu tố đó nhưng để
hiểu đúng về khái niệm trò chơi dân gian thì phải đặt nó trong đời sống của nhân dân. Nằm
trong nền văn minh Phương Đông, Việt Nam ta là một nước nông nghiệp lúa nước và lấy
nông nghiệp làm nghề sinh sống, lao động chính. Sự khó khăn, cực nhọc là điều không thể
tránh khỏi đối với người dân Việt. Điều kiện sinh sống kết hợp với lối tư duy biện chứng,
7

tổng hợp, tính cộng đồng to lớn đã tác động vào nhân dân, khiến nhân dân tạo ra nhiều hoạt
động vui chơi giải trí khác nhau. Suy cho cùng trò chơi dân gian Việt Nam là những hoạt
động vui chơi giải trí do quần chúng nhân dân Việt Nam sáng tạo ra và được lưu truyền tự
nhiên qua nhiều thế hệ. Trò chơi dân gian diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không hạn định về mặt
thời gian, không gian và phản ánh đời sống tinh thần, văn hóa của dân tộc. Đây là một hình
thức sinh hoạt cộng đồng được nhân dân tiếp cận và gắn bó nhiều nhất.
1.1.2. Nguồn gốc
Là sản phẩm của một cộng đồng, trò chơi dân gian là thứ tài sản chung của cả một
xã hội, nó thuộc về toàn thể quần chúng nhân dân chứ không của riêng một cá nhân nào,
trò chơi dân gian gắn liền với sự tồn tại, phát triển của một cộng đồng người trong nhiều
chặng đường phát triển khác nhau. Do đó, để xác định rõ khoảng thời gian cho trò chơi dân
gian ra đời quả thật không dễ, ngày nay vẫn chưa xác định được, chỉ biết từ thực tiễn cuộc
sống, có thể thấy rằng trò chơi dân gian ra đời từ chính nguồn gốc là nhu cầu cần được vui
chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Cuộc sống nông nghiệp lúa nước đặt nhân dân Việt dưới bao nỗi cơ cực, khổ sở,
nhu cầu cần được nghỉ ngơi, giải trí, bù đắp năng lượng tiêu hao trở thành một yếu tố
thường xuyên và liên tục đối với nhân dân. Với nhu cầu cần có một tinh thần thỏa mái, một
tâm thái vui vẻ để nỗi cực nhọc cũ qua đi và bắt đầu với khó khăn mới đã làm thúc đẩy tính
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Mặt khác, do điều kiện tự nhiên nên người nông dân
Việt chỉ có hai mùa vụ trong một năm, xong mùa vụ thì thường rất nhàn rỗi: “ Tháng giêng
là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè”, đây là khoảng thời gian mọi người
đợi cho lúa được phơi khô, đợi nước về ruộng và cũng là đợi cho sức khỏe bản thân được
phục hồi sau một mùa vụ vất vả. Nhu cầu muốn nghỉ ngơi, vui chơi khi gặp được những

khoảng thời gian rảnh lại càng tạo một điều kiện tốt để nhiều loại hình vui chơi giải trí ra
đời và phát triển, qua nhiều giai đoạn dài lịch sử, các hình thức vui chơi, giải trí đã đồng
thời xuất hiện và trong đó có trò chơi dân gian. Trò chơi dân gian xuất hiện trong xu thế
chung và bên cạnh rất nhiều hình thức vui chơi giải trí khác như hội hè, đình đám, lễ hội
nhưng có thể nói trò chơi dân gian đã luôn giữ được chỗ đứng của mình bởi hội hè hay
đình đám chỉ diễn ra trong những khoảng thời gian và không gian nhất định trong năm
trong khi đó trò chơi dân gian lại là một hình thức giải trí có thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi,
8

quanh năm suốt tháng, bất cứ lúc nào rảnh rỗi, nghĩa là trò chơi dân gian đáp ứng rất tốt
nhu cầu vui chơi giải trí của quần chúng nhân dân. Do vậy, đó chính là nguồn gốc cho sự ra
đời của trò chơi dân gian Việt Nam.
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển
Không ra đời, phát triển theo phương hướng đột biến, vừa ra đời đã có ngay một hệ
thống trò chơi hoàn chỉnh, trò chơi dân gian là kết quả của tự tích góp từ từ, liên tục từ óc
sáng tạo, trí tuệ của nhân dân qua nhiều giai đoạn lịch sử. Sự sáng tạo, hình thành nên các
trò chơi dân gian của ông cha ta đi từ ngẫu nhiên, tình cờ đến ý thức sáng tạo.
Đầu tiên, trò chơi dân gian được hình thành một cách ngẫu nhiên trong đời sống
sinh hoạt của nhân dân. Người Việt ta từ thuở hồng hoang đã mang trong mình tâm thức
gắn bó cuộc sống của mình với thiên nhiên. Coi thiên nhiên ngang tầm với sự tồn tại, phát
triển của con người. Đời sống nông nghiệp khiến người Việt gắn bó nhiều hơn với mặt đất,
đất là nơi gieo trồng và cũng là nơi nhân dân buông mình nghỉ ngơi sau những giờ lao
động mệt nhọc. Gắn bó với mặt đất như vậy nên người Việt ta rất hay có thói quen cùng
nhau viết hoặc vẽ trên mặt đất. Mặt đất lại trở thành nơi nuôi dưỡng những óc tưởng
tượng, rất có thể việc bẻ một cành cây nhỏ, vẽ những nét ngoằn ngoèo vô thức trên mặt đất
lại là cơ sở để quần chúng nhân dân sáng tạo ra những trò chơi dân gian đầu tiên. Từ thực
tế, ta sẽ nhận thấy rằng rất nhiều trò chơi dân gian của người Việt ta đều được bố trí vẽ
chơi trên mặt đất. Trò Lò cò trong ô, Lò cò suồn, Lò cò xoắn ốc đều phải vẽ hình trên mặt
đất để chơi, đó là những đường kẻ hình vuông, hình xoắn ốc, ngoài ra còn có trò xây nhà
bằng những đường kẻ trên đất, đó không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Có thể nói rằng

trò chơi dân gian đã ra đời ngẫu nhiên, tình cờ từ đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Bên cạnh sự ngẫu nhiên qua thói quen, trò chơi dân gian Việt còn được hình thành,
phát triển ngẫu nhiên qua dáng dấp của hoạt động nông nghiệp. Có thể thấy, trong đời sống
nông nghiệp có gì thì trong trò chơi dân gian có cái đó. Chẳng hạn với trò đi Cà Kheo, đó
là sự vận dụng công cụ mà nhân dân dùng để đi qua những trũng bùn, khe suối, khúc sông
cạn, nhưng nó đã dần dần đã trở thành một trò chơi dân gian để tranh tài về sự khéo léo.
Hoặc đối với Trò bắt cá chạch, bắt lươn, trò Bắt vịt trên cạn, dưới nước, trò đi Câu ếch, trò
Giã gạo, Ném vòng cổ vịt, Thổi cơm và nhiều trò chơi khác, đây là những trò chỉ nghe qua
9

tên gọi đã biết cách chơi vì đó chính là những hoạt động thường nhật của quần chúng nhân
dân.
Từ thực tiễn đó, ta có thể khẳng định rằng trò chơi dân gian đã ra đời, phát triển một
cách ngẫu nhiên từ cuộc sống sinh hoạt đời thường của nhân dân. Nhưng qua thời gian,
cùng với nhu cầu vui chơi giải trí tăng mạnh kết hợp với sự sáng tạo, trí tưởng phong phú
của ông cha ta, trò chơi dân gian Việt dần dần thoát khỏi sự ngẫu nhiên, tình cờ đó và tiến
tới những bước phát triển cao hơn, nhiều trò chơi dân gian mang sự tinh nhuệ, nhanh nhẹn
cần trí tuệ, óc phán đoán khác lần lượt được ra đời, như trò chơi Ô ăn quan, trò Tam cúc
hay Cờ người v v, những trò chơi này có sự khác biệt so với với những trò chơi nói trên,
người chơi luôn luôn phải cần đến trí tuệ, sự linh hoạt và một óc phán đoán tốt.
Trải qua một thời gian dài, cho đến nay hình thức của trò chơi dân gian đã rất đa
dạng, phong phú và muôn hình muôn vẻ. Sự hình thành, phát triển của trò chơi dân gian
Việt đã đi từ ngẫu nhiên đến nhu cầu cần và đủ. Từ đó, ta thấy được trí tuệ, trí tưởng tượng,
trí óc của ông cha ta thể hiện qua các trò chơi dân gian, trò chơi dân gian trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần Việt.
1.2. Đối tượng của trò chơi dân gian Việt Nam
Là sản phẩm tinh thần của cả cộng đồng quần chúng nhân dân trò chơi dân gian
được sinh ra bằng óc tưởng tượng của nhiều đối tượng người khác nhau trong xã hội, theo
đó nó mang tính chất cộng đồng, chứa đựng những nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, ấy
vậy mà nó phù hợp với nhiều đối tượng, thu hút rất nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội

và có thể thỏa mãn tốt nhu cầu vui chơi, giải trí cho rất nhiều người.
Tầng lớp bình dân là đối tượng được hướng đến nhiều nhất, cũng được coi là đối
tượng chủ yếu. Người bình dân rất gắn bó với trò chơi dân gian, coi trò chơi dân gian là
một người bạn tinh thần đối với họ. Những lúc làm mùa vụ, đồng áng, người bình dân vẫn
kết hợp giữa làm việc và chơi trò để giảm đi mệt nhọc, “vừa chơi vừa làm” nhưng công
việc vẫn rất hiệu quả. Trong những năm bị đô hộ phương Bắc, Pháp rồi Mỹ, trong khi bọn
thực dân đưa vào nước ta những trò chơi xa xỉ, cờ bạc, cá độ, gôn…,thì đại đa số quần
chúng nhân dân ta vẫn say mê với trò chơi dân gian, vẫn coi trò chơi dân gian là món quà
tinh thần quý báu mà ông cha ta để lại và không dễ dàng gì từ bỏ. Cái chất mộc mạc, gần
gũi và đời thường trong trò chơi dân gian đã quyện lấy tâm tư tình cảm của những người
10

bình dân và tạo ra cho nhân dân sự vui vẻ thỏa mái với những thứ không mấy xa lạ với
mình, trò chơi dân gian đã được tầng lớp bình dân ưa chuộng và giữ gìn như một thứ quà
tinh thần không thể thiếu vắng trong đời sống.
Tầng lớp nhân dân là đối tượng chủ yếu nhưng đối tượng tham gia trong trò chơi
dân gian lại không chỉ dừng lại ở đó. Trong đời sống các vua chúa Việt Nam, trò chơi dân
gian có ảnh hưởng và được đưa vào trong cung tẩm, được tầng lớp quý tộc, vua quan và
các thái tử, công chúa ưa thích. Trò chơi thường thấy nhất trong cung vua là trò Tam Cúc,
hay một gọi là cờ tướng, đây là một trò chơi giải trí rất thâm thúy, thể hiện rõ trí tuệ và óc
phán đoán của người chơi, do đó nó được vua chúa, giới quý tộc, trí thức rất ưa chuộng, và
còn có trò thi tài vẽ tranh, thi thêu thùa. Các thái tử, công chúa từ nhỏ vẫn chọn trò chơi
dân gian để chơi như những đứa trẻ bình dân khác nhưng số lượng các trò chơi thường bị
hạn chế, nó bị ngăn cách với quyền lực, thường chỉ có những đứa trẻ ngang bằng về địa vị,
quyền lực mới được chơi cùng nhau. Dưới triều Nguyễn, Thả diều lại là một trò chơi rất
thịnh hành, nó thu hút rất nhiều những người thuộc tầng lớp quý tộc tham gia chơi. Trò
chơi dân gian không chỉ là “bì” là “ruột” của người nông dân mà còn đóng vai trò trong
nhu cầu giải trí của vua chúa. Có thể khẳng định rằng đối tượng của trò chơi dân gian rất
rộng, nó phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội.
Trò chơi dân gian không hạn chế về độ tuổi tham gia nên đối tượng tham gia trong

trò chơi dân gian gồm rất nhiều độ tuổi, không chỉ người lớn làm việc vất vả mới được vui
chơi giải trí mà trẻ con cũng có thể tham gia. Người tham gia Trò chơi có thể ở độ tuổi nhi
đồng, thiếu niên, thanh niên, và người trưởng thành. Với đối tượng là trẻ con, trò chơi dân
gian mang màu sắc riêng, tính chất và đặc điểm phù hợp với tâm lý hiếu động, thích bay
nhảy, trong khi đó những trò chơi của người lớn lại mang những đặc điểm điềm tĩnh, sâu
sắc. Mỗi đối tượng người chơi đều có những hình thức và nội dung phù hợp.
Đối tượng người tham gia trong trò chơi dân gian nhiều hay ít là phụ thuộc vào tính
chất và đặc trưng của từng trò chơi. Tùy theo tính chất của từng loại trò chơi mà người
tham gia trong trò chơi sẽ là một hay nhiều, thông thường thì trò chơi dân gian không quá
quy định chặt chẽ về vấn đề này. Trong trò chơi dân gian, những trò có số người chơi được
quy định rất ít, số lượng người chơi trong đa số các trò chơi có thể được quy ước giữa
những thành viên với nhau, chẳng hạn với trò Chơi chuyền, trò chơi này cần đến một quả
11

cà để làm banh, một bó cành cây nhỏ gồm mười cây, thông thường gồm hai người chơi
ngồi đối diện với nhau, nhưng trong trường hợp có cả ba người muốn chơi trò này thì vẫn
được, trường hợp như thế trong trò chơi dân gian là khá nhiều, cụ thể như trò Chơi bi,
Nhảy cóc, Vuốt hột nổ, Chọi cỏ gà v v, tất cả đều là do quy ước của những người tham gia
chơi. Phần lớn trò chơi dân gian đều là những trò chơi tập thể, số người tham gia chơi rất
nhiều và không bị hạn chế. Ngoài ra nếu số người chơi chỉ có một người thì người đó vẫn
có thể tự mình chơi được các trò như Lò cò, Nhảy dây, Rải ranh, Bắn bi v…v, mà không
gặp phải những vướng mắc nào.
Mặc khác, trong trò chơi dân gian trẻ con và người lớn có khi toàn bộ số người
chơi là nam, cũng có khi toàn bộ là nữ, đó cũng là do tính chất của từng trò chơi. Những trò
không cần nhiều sức lực thì thường dành cho nữ, và với sự mạnh mẽ, phá cách như Nhảy
gù, Cờ lau tập trận, Bắn bi, Đánh đáo…, thì trò chơi đó phải dành nam. Nhưng lại có
những trò chơi mà số người tham gia có cả nam lẫn nữ, với trò chơi trẻ con, đó là trò Nhảy
lò cò, Cướp cờ, Rồng rắn lên mây, Chơi u…, với người lớn thì có trò Bắt chạch, Ném còn,
Đánh đu
Có thể thấy trò chơi dân gian phù hợp với nhiều đối tượng tham gia chơi và không

bị quy định và hạn chế. Trò chơi dân gian đã biến hóa rất linh hoạt trong đời sống tinh thần
của người Việt, thõa mãn đầy đủ nhu cầu vui chơi giả trí của mọi đối tượng trong xã hội.
1.3. Phân loại và khảo tả một số trò chơi dân gian Việt Nam
Trò chơi dân gian Việt Nam ta xuất hiện từ rất lâu đời, qua nhiều thế hệ, nhiều giai
đoạn lịch sử. Cho đến nay, trò chơi dân gian đã có một hệ thống rất đa dạng, phong phú.
Nói đến trò chơi dân gian, ta vẫn thường nghe đến “trò chơi dân gian ngày tết” hay “trò
chơi dân gian lễ hội”, những cụm từ nói trên đều đi ra từ khái niệm trò chơi dân gian nhưng
không gian để tiến hành trò chơi là trong lễ hội hay vào dịp xuân, đó là một cách phân loại
trò chơi theo không gian. Nếu phân loại theo độ tuổi thì ta lại có trò chơi dân gian trẻ con,
trò chơi dân gian người lớn, như vậy có nhiều cách để phân loại trò chơi dân gian.
Ở đây, căn cứ vào nội dung và hình thức biểu hiện của từng trò chơi ta có thể phân
trò chơi dân gian ra nhiều loại hình khác nhau, cụ thể như:
- Trò chơi luyến ái.
- Trò chơi phong tục.
12

- Trò chơi chiến trận.
- Trò chơi trí tuệ
- Trò chơi nghề nghiệp
1.3.1. Trò chơi luyến ái
 Đặc điểm
Là nhóm trò chơi mang tính chất thiên về tình yêu đôi lứa, như Ném còn, Đánh đu…
Trong nhóm trò chơi luyến ái, thành phần tham gia luôn luôn là có cả nam và nữ, ngoài
hình thức là một trò chơi thì trò chơi luyến ái tạo điều kiện để nam nữ trong làng được tự
do vui chơi, tìm hiểu nhau. Dưới chế độ phong kiến xưa, nam nữ thường bị cấm cản bởi
những lễ giáo phong kiến, họ không được tự do tìm hiểu và chọn lựa người mình yêu,
nhưng trò chơi luyến ái đã đáp ứng được nhu cầu này của các nam thanh nữ tú, họ được
thân mật nhau mà không bị lễ giáo, lệ làng bác bỏ, và sau nhiều trò chơi như thế có người
đã thành vợ thành chồng. Trò chơi luyến ái còn mang một chút tín ngưỡng dân gian, gửi
gắm trong đó ước nguyện của nhân dân về sự bình an, mùa màng tươi tốt. Cũng bởi tính

thiêng đó mà trò chơi luyến ái thường diễn ra trong không gian lễ hội, ít khi diễn ra ở
những không gian thường.
 Một số trò chơi tiêu biểu
- Trò đánh đu
Trò chơi diễn ra nhiều nhất vào những ngày đầu năm mới, trai gái trong vùng rất
hào hứng tham gia. Trước khi diễn ra trò chơi một ngày, trai tráng trong vùng chặt những
cây tre to làm giàn đu, mỗi giàn đu gồm bốn cột chôn sâu xuống lòng đất, sau đó tấm ván
đu được treo lên trên với một sợi dây thừng thật chắc.
Trò đánh đu được chơi theo từng cặp nam nữ và có rất nhiều cặp tham gia chơi, họ
có thể là nam thanh nữ tú ở các làng hội về nhưng cũng có thể là những người chưa quen
biết. Không khí vui chơi rất vui vẻ, dân làng náo nức cùng hội về một hướng, khi những
hồi trống đầu tiên vang lên, nhiều cặp nam nữ sẽ bước lên và đứng đối diện nhau trên giàn
đu của mình, họ có thể tự nhún chân lấy đà, đẩy đu lên cao hoặc nhờ một người trung gian
đẩy, tùy theo quy ước của làng đứng ra tổ chức, giàn đu bắt đầu lên cao, lên cao hơn trong
tiếng trống, tiếng reo hò cổ vũ, theo đó là những màu sắc vui tươi của những tà áo tứ thân.
13

Cảm giác đánh đu trên cao rất thú vị, đu chỉ lên cao được khi cặp nam nữ biết kết
hợp hài hòa, nhún chân hài hòa với nhau thì mới giữ cho dây đu vút lên cao được, trong lúc
chơi đánh đu cặp nam vẫn có thể nói chuyện với nhau. Giải thưởng sẽ gành cho trai gái
làng nào đánh đu cao nhất, vòng cung lên xuống đẹp nhất. Nhiều nơi người ta còn treo trên
cao một dãy lụa hay một vật gì đó tương tự, chiến thắng thuộc về cặp lấy được vật ấy.
-Trò ném còn
Xuất hiện từ rất lâu đời, trò chơi Ném Còn gắn với lịch sử nước ta thời kỳ Văn
Lang-Âu Lạc, là trò chơi quý phái của các vị Mỵ Nương, con gái Lạc Hầu, Lạc tướng, có
khi nó còn được dùng để kén chồng. Giai đoạn sau này, Ném Còn trở thành trò chơi ở các
vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường và một vài tỉnh ở miền Bắc nước ta.
Dụng cụ dùng để chơi là một cái vòng tròn và một quả cầu. Vòng tròn phải được
làm bằng nan tre, một mặt dán giấy màu đỏ, là tượng trưng cho mặt trời, mặt kia được gián
giấy màu vàng để tượng trưng cho mặt trăng, đôi khi người ta không cần phải làm vòng, họ

lấy cái sàn gạo, đục thủng và lấy vành, sau đó cũng trang trí bằng giấy màu ở cả hai mặt,
tiếp đến vòng tròn được treo trên đột một cây tre và trồng giữa sân chơi. Dụng cụ thứ hai là
một quả cầu, người ta quen gọi là quả còn, bên trong nó được đổ đầy những hạt giống tốt
nhất, da căng tròn của mùa vụ năm trước, đó dường như đã thành tục.
Người chơi trong trò Ném Còn cũng tất yếu phải có cả nam và nữ, một đội nam và
một đội nữ và tất cả đều phải chưa chồng chưa vợ, họ đứng đối diện và cách nhau 3m trước
cây tre đã trồng trước sân chơi, hai đội cử người lần lược lấy đà, nhắm kỹ và tay ném quả
còn sao cho lọt qua cái vòng treo trên cây tre.
Trò chơi rất hào hứng trong sự cổ vũ của đông đảo mọi người, hai bên đối phương
sẽ phải bắt được quả cầu mà đội kia ném qua, nếu để cầu rơi, đội đó sẽ không ghi được
điểm. Khi vừa bắt đầu chơi, ai cũng có thể đứng ra bắt lấy Còn của đối phương nhưng sau
một khoảng thời gian háo hứng vui chơi nam nữ hai đội sẽ tìm ra người họ thích, khi đã
ngầm để ý với nhau thì người bên này ném Còn qua người bên kia sẽ lập tức chạy lên đỡ.
Cũng giống như Đánh đu, Trò Ném Còn đã se duyên cho nhiều đôi lứa và mang trong lòng
tín ngưỡng dân gian, thể hiện ước muốn no ấm của nhân dân trước thần linh, trời đất.
14

-Bắt chạch, bắt lươn
Ở mỗi vùng trò chơi bắt chạch, bắt lươn mang những hình thức khác nhau. Một số
nơi, đây là trò chơi dành cho trẻ con, một số nơi thì dành cho người lớn nhưng lại không
đòi hỏi người tham gia chơi phải là một cặp nam nữ (vì nghiêng về trò chơi nghề nghiệp).
Nhưng theo đa số thì tại nhiều vùng nó diễn ra nhiều hơn dưới hình thức một trò chơi luyến
ái. Trò chơi thường có nhiều ở miền Bắc.
Ở đây, cặp tham gia chơi phải là một đôi nam nữ chưa có gia đình, khi dân làng hội
về đông đủ, trống làng rộn ràng lên thì mỗi cặp chơi sẽ nhanh chóng đến chỗ lu (chum)
nước của mình, họ sẽ cùng nhau bắt con chạch trong lu nước, phần thưởng thuộc về đội
nào bắt được chạch sớm nhất. Trò chơi rất hào hứng vì nước bên trong khoảng nữa lu,
chạch lại là một loài trơn tuột rất khó bắt. Cũng có nơi người con gái bước vào ngồi trong
lu nước có chạch, người con trai đứng ở ngoài và phải làm sao đó để bắt được chạch nhanh
nhất. Trò chơi xóa đi giáo lễ, lệ làng “nam nữ không được thân thiết nhau”.

1.3.2. Trò chơi phong tục
 Đặc điểm
Trò chơi phong tục gồm các trò chơi nghiêng tính thiêng liêng, mang dáng dấp của
những nghi lễ, phong tục xa xưa của người Việt. Nhóm trò chơi dân gian này chứa đựng
những tư tưởng, tình cảm của dân tộc, lưu giữ đậm nét tín ngưỡng, phong tục dân tộc, từ
tín ngưỡng vạn vật hữu linh cho đến quan niệm về thờ cúng thần linh, trời đất. Bởi tính
chất linh thiêng nên trò chơi phong tục cũng được diễn ra nhiều trong không gian lễ hội. Có
thể kể một số trò chơi như Pháo đất, Đánh phết.
 Một số trò chơi tiêu biểu
-Trò Pháo đất
Trò Pháo Đất phổ biến nhiều ở miền Bắc nước ta, với nhiều nhiều truyền thuyết và
chuyện kể khác nhau về nguồn gốc của trò chơi. Truyền thuyết về lịch sử hội thi Pháo Đất
ở xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình kể rằng Pháo Đất có từ thời Trần Hưng
Đạo, vào năm 1288 trong khi đi đang đánh trận Bạch Đằng, con voi của Trần Hưng Đạo bị
sa lầy ở khúc sông Hóa, nhân dân ta đã ném bùn đất xuống chổ lầy để giúp voi thoát lên, và
từ sau đó, những lúc nông nhàn nhân dân ta vẫn thường hay diễn lại, càng về sau nó trở
thành trò chơi Pháo Đất như ngày nay. Một truyền thuyết ở Hải Dương lại viết rằng trò
15

chơi này có từ thời Hai Bà Trưng khi nữ tướng Lê Chân dùng pháo đất để nghi binh và
chơi trong những ngày hội hè nhằm xua tan âm khí, dịch bệnh.
Pháo Đất tức là pháo được làm từ đất, ném xuống đất phát ra tiếng kêu như pháo,
Đất làm pháo là đất sét, loại đất mềm, dẻo, độ kết dính rất chặt, ở ngoài đồng ruộng loại đất
này không thiếu, bởi vậy, thanh thiếu niên trong lúc làm đồng áng, chăn trâu, đắp ruộng
vẫn có thể chơi trò chơi này, nó được rất nhiều thanh thiếu niên ưa thích. Trò pháo đất rất
dễ chơi, nó phù hợp với cả trẻ con và người lớn. Người tham gia chơi thường là cá nhân,
mỗi người đều được chia những phần đất sét bằng nhau để nặn pháo, đầu tiên đất sắt phải
được nhào thật nhão sau đó nặn thành hình cái chảo không quai cầm với kích thước linh
hoạt, tùy thuộc vào bàn tay cầm của mỗi người. Trò chơi hấp dẫn ở chổ làm sao để làm cho
pháo nổ to nhất, người chơi lần lượt dùng tay nâng pháo lên, bàn tay phải nâng lấy đáy

chảo rồi dùng lực ném (úp chảo) xuống đất, người thắng cuộc là người có pháo nổ to nhất.
Trò chơi đơn giản nhưng ẩn trong đó phong tục người Việt. Đất là tính âm nhưng lại
nặn thành tính dương, Pháo là tính dương lại ném xuống mặt đất là tính âm, đó là sự kết
hợp , giao hòa âm dương để cuối cùng tạo nên những tiếng nổ là ước mong của sự no ấm,
mùa vụ bội thu.
-Thi thả chim bồ câu
Với nhiều người, trò chơi là một thú vui tao nhã, nó thể hiện quan niệm phóng sinh
của nhân dân và ước muốn chung sống hòa bình với muôn loài, với trời đất, thiên nhiên
cây cỏ.
Người chơi sẽ mang theo một cái lồng chứa khoảng mười con chim Bồ Câu đã được
đánh dấu để phân biệt, những cuộc thi thả chim phải diễn ra dưới sự chứng kiến của đông
đảo bà con trong làng. Không gian để trò chơi diễn ra là một khoảng sân rộng, có khi bố trí
gần ao hồ để có thể nhìn bóng chim trên mặt nước nếu chim bay quá cao, ngày tổ chức trò
chơi phải là một ngày trời trong xanh và nắng đẹp. khi già làng bước lên đánh trống thì đó
là dấu hiệu để trò chơi bắt đầu, từng người tham gia chơi sẽ giơ cao lồng chim lên quá đầu
và mở cửa lồng một cách khéo léo để bầy chim cùng một lúc bay vụt lên, tiếng trống có tác
động nhất định trong trò chơi này, trống càng dồn dập thì bầy chim càng bay cao, bầy chim
nào bay cao nhất thì người chủ sẽ đoạt được giải lớn của làng.
16

1.3.3. Trò chơi trận chiến
 Đặc điểm
Nhóm trò chơi trận chiến mang tính chất thi đua giữa cá nhân với cá nhân, giữa đội
chơi này với đội chơi khác, đó là những cuộc thi đấu đầy tinh thần thượng võ dân tộc như
Thi chèo trũm, Đua thuyền… Không gian của trò chơi rất rộng, trò chơi trận chiến luôn tạo
ra sự sôi nổi, náo nhiệt và hấp dẫn. Nó thể hiện rõ sức mạnh, sự tinh nhuệ, năng động, sung
sức của lớp lớp thế hệ trẻ dân tộc, sức mạnh được phô bày ra giữa thiên nhiên, trời đất, nó
thể hiện quan niệm sống hết mình, cố gắng vượt lên những bất lợi của thiên nhiên, vượt
qua khó khăn của người Việt. Trò chơi chiến trận có hai loại thành phần tham gia, một là
giữa cá nhân với nhau, hai là giữa tập thể với tập thể, tất cả hai thành phần tham gia này

đều là những con người có khiếu, có tài, đại diện cho một thôn, làng hoặc bảng. Đây là
nhóm trò chơi có số người cổ vũ rất nhiều, nó đem lại nhiều niềm vui cho cả những người
ngoài cuộc chơi.
 Một số trò chơi tiêu biểu
- Chơi trận giả
Trò chơi ra đời từ tích Đinh Bộ Lĩnh, cậu bé ngay từ nhỏ đã có tài chỉ huy và thường
hay rũ lũ bạn mục đồng bẻ bông lau làm cờ chơi đánh trận với lũ trẻ làng khác. Trò chơi
trận giả ngày nay cũng giống vậy, nó được nhiều trẻ em ưa thích bởi tính sôi động và hào
hứng.
“Trận giả” ở đây có nghĩa là một trận đánh giả, trẻ em giữa hai làng sẽ chia làm
hai đội quân và “giả vờ” đánh nhau bằng bông lau, đội nào có số quân “chết” nhiều hơn là
đội đó thắng.
- Ðánh roi múa mộc
Là một trò chơi có từ rất lâu đời, trò đánh roi múa mộc phổ biến ở miền Bắc nước
ta, đặc biệt là ở làng võ Mễ Trì (Từ Liêm-Hà Nội) xưa. Mang dáng dấp của những chàng
kỵ binh, người tham gia trò chơi phải luôn trong tư thế cầm đủ trên tay hai vật, một cây roi
và một tấm mộc, roi dùng để ra đồn trước đối phương và mộc dùng để đỡ. Roi ở đây sẽ
được làm bằng tre có đầu vót nhỏ để tạo độ linh hoạt và được bịt bởi một miếng vải màu
đỏ. Mộc được đan bằng tre, nó có thể là hình tròn hay hình chữ nhật và cũng được sơn màu
đỏ. Đánh roi múa mộc là trò chơi dành cho độ tuổi thanh niên , và tuy mang tính mạnh mẽ
17

nhưng người tham gia trò chơi lại có cả nữ. Đầu tiên hai người chơi phải đứng đối diện
nhau trên sân chơi, trò chơi bắt đầu khi nghe tiếng trống của già làng, trò chơi sôi động
trong sự cổ vũ của mọi người và diễn ra rất gây cấn, nó đòi hỏi người chơi phải linh hoạt
dùng roi và mộc để vừa đánh vừa đỡ, người chơi chỉ ghi được điểm khi đánh chính xác vào
vai và sườn, sẽ bị trừ điểm nếu đánh ở nơi khác. Trò chơi mang đậm tinh thần thượng võ
dân tộc và vẫn được diễn ra trong không gian lễ hội.
- Đua thuyền
Đây là trò chơi có từ rất lâu đời, phổ biến ở vùng sông nước, nhiều nơi còn gọi là

đua ghe hay đua chải, trò chơi mang tính thi tài giữa các làng, các xã với nhau nên thường
được diễn ra nhiều trong không gian lễ, Tết, mỗi làng có quy cách và thể lệ khác nhau.
Thuyền dùng để thi tài thường là thuyền thoi đóng bằng gỗ, đầu chạm hình rồng,
hình hạc, đuôi tôm, về sau nó là thuyền dùng trong hoạt động nông nghiệp của nhân dân,
Số người chơi ít hoặc nhiều phụ thuộc vào kích thước dài hay ngắn của thuyền, người tham
gia chơi thường là những tráng đinh khoẻ mạnh, dẻo dai nhất trong làng và được tuyển
chọn kỹ càng.
Trước khi đua tài một ngày, thuyền của mỗi làng phải được trang trí nhiều màu sắc,
người ta thường vẽ hai con mắt thật to ở hai bên đầu ghe, mình ghe uốn lượn những đường
sơn đẹp mắt. Trước khi trò chơi diễn ra, dân làng đã tập họp đông đúc hai bên bờ sông, họ
mang theo trống, (trước kia còn cả xoong nồi) để sẵn sàng cổ vũ cho đội làng mình. Trong
tiếng trống dồn dập, tiếng cổ vũ, hò hét của mọi nguời trò chơi diễn ra rất kịch tính, các đội
chơi thuyền phải chèo đúng ba vòng trên khoảng sông quy định, có khi nhiều nơi chỉ hai
vòng, đội thắng cuộc sẽ đem lại tiếng tăm cho cả làng.
Về sau, đua thuyền thường gắn với các lễ hội nông nghiệp hay ngư nghiệp, như là
một phần của những hoạt động mang tính tâm linh, nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, cho
mùa màng được phong đăng hòa cốc.
1.3.4. Trò chơi trí tuệ
 Đặc điểm
Nhóm trò chơi trí tuệ chiếm một phần khá lớn trong trò chơi dân gian, nếu trò chơi
trận chiến thể hiện sức mạnh, sự dẻo dai và khéo léo thì nhóm trò chơi trí tuệ lại thể hiện và
rèn luyện trí óc, khả năng quan sát và tư duy của người chơi. Nó được nhiều thành phần và
18

đối tượng người chơi ưa thích. Một vài trò chơi trí tuệ như Ô ăn quan, Tổ tôm, Cờ chân
chó.
 Một số trò chơi tiêu biểu
- Chơi ô ăn quan
Ô ăn quan là trò chơi dành cho trẻ em nữ, trí tuệ và tư duy của người chơi luôn
được bộc lộ qua chơi ô ăn quan, thành phần tham gia của trò chơi thường là hai. Trò chơi

cần một khoảng sân vừa đủ và 70 hòn đó nhỏ, đó có thể là hạt na hay hạt nhãn,trước khi
chơi, các em gái vẽ trên sân đất hoặc nền nhà một ô hình chữ nhật, hai đầu vẽ cong thành
hình bán nguyệt làm ô quan, hình chữ nhật chia dọc làm đôi rồi phân làm 5 thành 10 ô dân.
Người chơi ngồi đối diện nhau và mỗi bên chơi sẽ nhận một hàng 5 ô dân và 1 ô quan.
Đầu tiên mỗi người chơi rải 70 hòn cuội nhỏ vào các ô, cứ ô dân 5 hòn, ô quan 10
hòn, gọi là quân. Người chơi thay nhau đi, bốc ở một ô dân rải theo chiều nào cũng đều
được, rải hết thì lấy quân của ô kế để rải tiếp, mỗi ô rãi một hòn, nếu đang rải gặp một ô
trống thì đập cả bàn tay vào ô đó và được phép ăn hết quân ở ô kế. Nếu gặp từ 2 ô trống
hoặc ô quan gọi là chững thì không được đi nữa, trả phiên cho người kia. Khi nào 5 ô dân
đều không còn quân, người chơi được rải mỗi ô một hòn, gọi là rải dân để đi tiếp. Chơi đến
khi nào 2 ô quan hết quân, các ô dân lác đác, gọi là: "Hết quan, tàn dân, thu quân, bán
ruộng”. Bên nào thiếu 30 quân thì “bán ruộng”, nghĩa là mất một ô dân của mình. Các quân
rải đều lúc đi vào ô này (được gạch chéo) gọi là ao cá, người có ao được thu về cả. Người
thua lúc nào thu lại thừa 30 quân thì xin chuộc ao. Mỗi lần rải quân đầu tiên là bắt đầu một
ván chơi. Người chơi phải nhẩm tính để làm sao đi có lợi nhất cho mình, ăn được “quan”
và những ô nhiều quân gọi là nhà giàu.
- Cờ người
Cờ người là trò chơi cũng giống như cờ tướng hay cờ Tam Cúc (cờ tướng) nhưng
thay vì 32 quân gỗ trên bàn cờ thì sẽ là 32 con người thật sự trên một sân đất rộng. Cuộc
đấu cờ người thường được tổ chức trong các hội hè. Trò chơi đòi hỏi nhiều ở khả năng tư
duy.
Ở các hội làng, bàn cờ là sân đình, sân chùa, hay bãi ruộng khô phẳng gần nơi đình
chùa, tức là gần diễn chùa trường chính của hội. Cuộc đấu cờ người được chuẩn bị chu đáo
ở nhiều thánh trước đó. Ðịnh được bàn cờ -sân bãi-chỉ mới là việc phụ, quan trọng hơn là
19

việc tuyển tìm người. Những người được chọn làm quân cờ phải là những trai thanh gái
lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình. Số lượng
cần thiết là 16 nam,16 nữ đóng vai trò Trong số này phải chọn ra hai tướng: một nam, một
nữ tướng Ông, tướng Bà. Ngoài ra, không thể thiếu người thứ 33 là tổng cờ (trọng tài) trực

tiếp giúp ban giám khảo theo dõi cuộc đấu. Ba người này (tổng cờ và hai tướng) là thuộc
loaị gia đình khá giả, phong lưu, có thể "khao quân" khi cần thiết. Trang phục mỗi đội cờ
cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng và khác màu với đội bên kia, Tướng của mỗi đội đều có
trang phục rực rỡ hơn và có khi còn được che lọng, ngồi riêng để chỉ huy quân của mình
Mỗi "quân cờ" có ghế đẩu để ngồi có khi lại có đội nón nếu trời nắng to. Trước ngực mỗi
"quân cờ" có treo tên quân cờ bằng chữ hán để phân biệt chức vị của các quân.
Không phải là một bàn cờ nhỏ có thể điều quân đi bằng tay như cờ Tướng nên Cờ
Người trở nên khó hơn, đó là cái khó của việc quan sát tổng thể “trận chiến”. Không phải
chỉ người chỉ huy mỗi đội mới phải tư duy mà với một không gian trận chiến rộng như thế
thì dường như ai, từ già trẻ, gái trai, những người cổ vũ cũng đều tư duy, đều tính toán
nước đi cả, đó là một không gian chơi bổ ích, hào hứng và kịch tính trong tiếng trống làng
vui nhộn.
- Tổ tôm
Tổ Tôm là trò chơi bài lá dân gian, cũng giống như đánh cờ, Tổ Tôm là một trò
chơi đấu trí rất thú vị, tao nhã, có thể tìm thấy trong đời sống của các vua chúa và quan
thần. Người biết chơi Tổ Tôm được thì sẽ rất nhiều người kính nễ, “Làm trai phải biết Tổ
Tôm/Uống chè Mạn Hảo xem nôm Truyên Kiều”, sở dĩ có có câu ca dao này vì Tổ Tôm
được biết đến với một luật chơi của Tổ Tôm khá khó, phải có trí óc, tập trung cao và chơi
nó thường xuyên thì mới có thể chơi được. Phụ nữ và trẻ em ngày xưa khó chơi Tổ Tôm,
thành phần chơi tham gia chủ yếu nhất của Tổ Tôm lại là những người cao tuổi, các cụ già
đặc biệt thích trò chơi này.
Nếu bài của phương Tây có bốn loại quân chủ chốt là Cơ, Rô, Chuồng Bích thì Tổ
Tôm có ba loại Văn, Vạn và Sách, cái tên Tổ Tôm cũng là do đọc chệch từ ba loại quân
này (“tụ Tam”, ba loại quân hội về). Tất cả số quân bài của Tổ Tôm là 120, gồm ba hàng
Văn, Vạn, và Sách mỗi hàng 40 quân, tất cả những quân bài đều được ghi bằng chữ Hán,
mặt sau của bài đều giống nhau để tránh lộ bài.
20

Chỉ một bộ bài Tổ Tôm nhưng lại có nhiều dạng chơi khác nhau, phải nói là đa
dạng, có thể kể đến như Tài Bàn, Đánh Chắn, Tổ Tôm diễn ca, Tổ Tôm Điếm. Tổ Tôm có

hình thức chơi khá thú vị, trước khi tiến hành chơi người ta thường dựng 5 cái lều, dân gian
gọi là Điếm, 5 cái Điếm này sẽ tương ứng với 5 người chơi, 5 cái Điếm thường cách xa
nhau và bố trí xung quanh bàn trọng tài. Bài chơi được chia làm 6 phần, mỗi phần có 20
quân, 5 phần chia đều cho 5 người chơi còn 1 phần được úp xuống bàn trọng tài để làm
nọc. Trong mỗi cái Điếm sẽ gồm có một người chơi và một người đóng vai trò là người
báo tín hiệu cờ và rao những con bài do Điếm đánh ra để trọng tài biết và để các Điếm
khác muốn phỗng hay ăn, tất cả những tín hiệu ăn, thua đều được qui ước bằng trống và cờ.
Tổ Tôm thú vị bởi lối rao bài, mỗi quân bài xuất ra đều được rao bằng ca dao với lối ví von
có vần điệu, chẳng hạn:
“Vác đèn đi dưới trăng thu
Đầu bài cửu sách, ai ù được chăng?”.
Nhiều vùng còn rao bằng lối lẩy Kiều, chẳng hạn khi một Điếm đánh ra quân Ngũ Sách, là
một trong 40 quân thuộc hàng Sách, có vẽ hình chiếc thuyền buồm thì người ra tín hiệu rao
rằng:
“Thuyền buồm vừa ghé tới nơi
Thì đà trâm gẫy, bình rơi mất rồi”.
Tổ Tôm là trò chơi cần rất nhiều đến tư duy và óc quan sát, đó là tư duy để tính toán
chính xác một nước cờ và sự nhạy bén trong việc quan sát cờ lệnh và lắng nghe chính xác
trống lệnh. Tổ Tôm vừa trí tuệ lại vừa uyên bác, ấy vậy mà nó cũng tồn tại rất vững chắc ở
kinh thành, trong chốn vua chúa và quan thần.
1.3.5. Trò chơi nghề nghiệp
 Đặc điểm
Nhóm trò chơi nghề nghiệp là tập hợp những trò chơi mô phỏng và mang dáng dấp
những nghề nghiệp, những công việc hằng ngày của nhân dân dưới hình thức vừa làm vừa
chơi, như trò Thi cấy lúa, Thi bắt vịt, Bắt cá. Mục đích của những trò chơi nghề nghiệp này
là tạo cho mọi người sự phấn khởi, hào hứng trước những công việc mình đang làm, những
công việc này sẽ được thể hiện dưới hình thức một cuộc thi tài với yếu tố thắng thua được
đặt lên hàng đầu.
21


 Một số trò chơi tiêu biểu
-Thi cấy lúa
Trò chơi diễn ra giữa đồng ruộng, những người cấy lúa ở đám ruộng này sẽ thi cấy
lúa với những người ở đám ruộng bên cạnh, bên nào cấy xong nhanh nhất, đẹp nhất thì bên
đó sẽ thắng. Trò chơi rất đơn giản nhưng lại đem đến sự hào hứng, lạc quan cho những
người dân lao động. Về sau trò thi cấy lúa còn xuất hiện trong lễ hội Loong Toong.
- Thi bắt vịt trên cạn, dưới nước
Không gian diễn ra trò thi bắt vịt thường ở đồng ruộng, nơi có mực nước nông.
Thành phần tham gia trò chơi không hạn chế, có thể một người thi với một người, có thể
chia làm hai đội chơi với số lượng người chơi bằng nhau.
Cũng giống như trò Thi cấy lúa, cách chơi của trò thi bắt vịt cũng đơn giản. Với
hình thức chơi bắt vịt trên cạn, mọi người cổ vũ sẽ đứng chụm lại với nhau thành một vòng
tròn, vịt được thả vào trong vòng và người tham gia chơi phải bịt mắt và đứng vào trong
vòng tròn bắt đầu chơi khi có hiệu lệnh trống. Với hình thức bắt vịt dưới nước thì không
gian chơi sẽ là một cái ao hay đầm, một bầy vịt thật khỏe sẽ được thả xuống ao, những
người chơi muốn bắt được vịt thì phải có khả năng bơi lặn. Ai bắt được vịt sớm nhất thì
người đó sẽ được phần thưởng cao nhất.
22

Chương 2
TRÒ CHƠI DÂN GIAN – NƠI LƯU GIỮ VĂN HÓA DÂN TỘC
Trò chơi dân gian Việt Nam là kho tàng văn hóa thể chất truyền thống, mang
tính quần chúng, tính phổ biến và tính dân tộc rõ nét [6,10]. Bước ra từ trong đời
sống lao động, trò chơi dân gian đã nhào nặn, gói ghém tất cả những suy tư, những
thăng trầm cuộc sống của nhân dân bao thế hệ và trầm mình trong nền văn hóa dân
tộc. Ở trò chơi dân gian, có thể tìm thấy những nét văn hóa hay đơn giản là những
nếp sống xa xưa của dân tộc ẩn mình sau nhiều hình thức vui chơi giải trí. Sự lưu giữ
văn hóa của trò chơi dân gian là trở thành một điều tất yếu do đặc điểm của trò chơi
dân gian mang lại. Trước khi tiếp cận sự lưu giữ văn hóa trong trò chơi dân gian thì
ta cần phải hiểu những đặc điểm đó.

2.1. Đặc điểm của trò chơi dân gian Việt Nam
2.1.1. Tính đa dạng và phong phú
Trò chơi dân gian luôn đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của mọi đối tượng, mọi
thành phần trong xã hội, điều này cho thấy bản thân trò chơi dân gian Việt Nam phải có
nhiều hình thức đa dạng và thể loại phong phú [17, 159]. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy, trò
chơi dân gian mang trong mình nhiều sắc thái, hình thức, cung bậc đa dạng, sôi nổi, trầm
tĩnh, điềm đạm, vui vẻ.
Những trò chơi náo nhiệt, sôi nổi thì phù hợp với những người có tính cách năng
động, cá tính, thích khẳng định mình, muốn bay nhảy thả mình sau những giờ lao động,
làm việc vất vả, như trò Bịt mắt bắt dê, Cá sấu lên bờ, Cướp cờ hay Chơi u với những cao
trào đuổi bắt đầy tính nhanh nhẹn, hứng thú. Với những người có tính cách trầm tính, điềm
đạm - những đối tượng rất khó để hoà nhập cùng cộng đồng thì vẫn được trò chơi dân gian
thu hút, lôi cuốn vào sinh hoạt, hoạt động tập thể, nó thể hiện qua trò Cặp kè, Chặt cây dừa
chừa cây đậu, Chọi cỏ gà hay Chơi chuyền, chơi Ô ăn quan… Ngoài ra, những người có
thể trạng yếu vẫn có thể được vui chơi giải trí mà không tốn quá nhiều sức lực nhờ những
23

trò chơi mang tính chất điềm đạm như thế này. Với những trò chơi mang tính chất điềm
đạm, người chơi không cần phải chạy nhảy nhiều, hầu như là giữ nguyên vị trí chơi không
cần dịch chuyển nhưng vẫn tạo cho người tham gia chơi những phút vui chơi rất vui vẻ,
thỏa mái không kém gì những trò chơi mang tính chất sôi động.
Trò chơi dân gian còn đa dạng bởi có những trò mang tính chất thể thao, đề cao thể
lực như trò Đẩy lưng, Gồng tay,Trồng cây chuối hay Đua thuyền, từ đó trở thành những
cuộc thi đấu đầy tinh thần thượng võ dân tộc. Bên cạnh đó cũng có những trò cần đến sự
khéo léo, một trí óc biết tính toán như trò Ô ăn quan, Đánh đũa, Cờ người hay Tam cúc,
với những trò như thế này, người tham gia trò chơi phải có sự khéo léo và một óc phán
đoán tốt để đoán được “ý đồ”, “ đường đi, nước bước” của đối phương, thắng đối phương
chính bằng trí tuệ của mình.
Sự đa dạng, phong phú của trò chơi dân gian được thể hiện ra bên ngoài bằng
những hình thức, và đối tượng chơi khác nhau, nó đã tạo ra cho trò chơi dân gian những

sắc thái và cung bậc đa dạng, là yếu tố đặc biệt để trò chơi dân gian luôn thu hút một phần
rất lớn đối tượng người chơi tham gia.
2.1.2. Tính gần gũi, giản tiện
Ra đời từ quần chúng nhân dân, trò chơi dân gian cũng theo đó mang đặc
điểm giản tiện, gần gũi, không cầu kỳ, mộc mạc mà thân thương như chính đời sống của
người dân lao động.
Trước hết trò chơi dân gian luôn có sự giản tiện ở cách thức tổ chức vui chơi, giải
trí, điều này gắn liền với nguồn gốc ra đời của trò chơi dân gian, đó là từ cuộc sống nông
nghiệp, đậm chất đời thực, không phải là một cái gì đó cao xa cho lắm. Những trò như:
Đua thuyền, Bẫy chim, Bắt cá chạch, Bắt vịt, Ném cổ đầu vịt, Đua bò, Thổi cơm, mới nghe
qua đã thấy đơn giản luật chơi cũng không mấy khó hiểu. Cụ thể, trò Đua thuyền là trò
chơi diễn ra ở con sông cuối xóm, đơn giản là chia thành nhiều đội khác nhau, mỗi đội ngồi
trên chiếc thuyền được trang trí bắt mắt từ trước, đội nào về đích sớm nhất là giành chiến
thắng. Bắt cá chạch đơn giản là bỏ cá hay chạch vào trong lu và thò tay vào bắt, hoặc như
Bắt vịt, Ném cổ đầu vịt với hình thức chơi rất đơn giản. Đơn giản nhưng không có nghĩa là
đơn điệu, cách thức chơi bình dị nhưng không có nghĩa là mất hết hào hứng. sự giản tiện
càng làm nên cái hay và giá trị của các trò chơi dân gian.
24

Không chỉ có cách thức chơi giản tiện, gần gũi mà không gian diễn ra các trò chơi
cũng mang đặc điểm đó. Đó có thể là một thửa ruộng sau mùa gặt, là con sông, bờ đê, là
cổng làng, sân đình, là con đường làng hay mé sân đất trước cửa nhà v v , mọi thứ đều rất
gần gũi với nhân dân.
Trong trò chơi dân gian có những trò không cần đến đụng cụ và có những trò cần
đến dụng cụ chơi. Dụng cụ để tiến hành chơi trong các trò chơi dân gian cũng đều rất dễ
kiếm, dễ làm từ những thứ có sẵn trong tự nhiên. Đó là những hòn sỏi, viên gạch, những
cành cây nhỏ, hay bất kỳ thứ gì có thể thay thế được tại những nơi trò chơi diễn ra. Tự
nhiên giống như một chiếc túi khổng lồ, chứa đựng rất nhiều dụng cụ của trò chơi dân gian
mà bất cứ khi nào muốn lấy ra chơi cũng đều được. Trước khi tiến hành trò chơi, việc đầu
tiên người tham gia trò chơi cần phải làm là đi tìm dụng cụ chơi, công việc này thường

không mất thời gian bởi dụng cụ chơi hầu hết đều giản tiện, không cầu kỳ nên rất dễ tìm
thấy. Chỉ cần vài hòn sỏi nhặt ngoài hè cho trò chơi Ô ăn quan, Lò cò ô, Lia gạch hay Rải
ranh, Thảy gạch… Với trò Đánh đũa hay còn gọi là chơi chuyền thì chỉ cần tìm những
cành cây nhỏ, một quả cà sau vườn hay một quả banh được tết từ lá dứa, hay chỉ cần một
nắm cỏ gà thì có thể chơi được trò chơi Chọi cỏ gà. Cũng bởi điểm giản tiện, không cầu kỳ
đó mà trong giai đoạn Pháp thuộc, quần chúng nhân dân ta đã tận dụng rất nhiều những thứ
của Pháp để làm dụng cụ chơi trong trò chơi dân gian, tạo ra sự vui chơi, giải trí cho mình.
Những cánh diều trong trò chơi Thả diều được làm từ loại vải dù mà pháp hay đánh rơi,
thứ vải đó nhẹ và chắc, có thể giữ cho diều bay cao khi gặp gió. Trò Kéo xèng lại có dụng
cụ từ nắp ken của chai beer và sau đó được đập bằng phẵng, đục hai lỗ nhỏ song song với
nhau, sau đó lại lồng qua hai lỗ đó thứ dây lấy từ bao xi măng của người Pháp, ta đã có một
đụng cụ cho trò Kéo xèng, nó còn là dụng cụ cho trò Tán nắp ken. Không chỉ có nắp ken,
bao thuốc lá vẫn được tận dụng, hai mặt hình vuông của bao thuốc lá được cắt ra và đó là
dụng cụ của trò tán dép ( dùng dép để tán những hình vuông ra khỏi vòng) , hay có nơi gọi
là bắn bịch thuốc lá, vào những thập niên sau đó, những món đồ như thế càng nhiều ở nước
ta. Có thể nói, dụng cụ của trò chơi dân gian được gói gọn trong cụm từ “tìm” và “nhặt” từ
tự nhiên, từ cuộc sống sinh hoạt. Bằng sự khéo léo, sáng tạo, những thứ không cần thiết,
những thứ bỏ đi như thế dần dần được quần chúng nhân dân thổi hồn vào, tạo ra rất nhiều
25

×