Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Thị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.87 KB, 55 trang )

TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
MỤC LỤC

· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường chứng khoán phái sinh, bao gồm thị trường
hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn,… Đây là thị trường cấp cao mua bán chuyển giao các công cụ
tài chính cấp cao; Do đó thị trường này chỉ xuất hiện ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển ở
trình độ cao. ................................................................................................................................................. 7
1.3.3. Căn cứ vào lưu chuyển vốn: ............................................................................................................... 7
Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ
nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới
phát hành. ..................................................................................................................................................... 7
Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. ....................................... 7
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi
bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu
nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá. .......................................................................................... 7
1.4. Chức năng của thị trường chứng khoán: ............................................................................................... 7
1.5.3. Căn cứ vào lưu chuyển vốn: ............................................................................................................. 13
Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ
nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới
phát hành. ................................................................................................................................................... 13
Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. ..................................... 13
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 1
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
LỜI NÓI ĐẦU
Việc hình thành và phát triển Thị trường (TTCK) là bước phát triển tất yếu của
nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối giữa một bên là các nhà đầu tư (bao
gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân chúng) với bên kia là các doanh nghiệp cần
vốn kinh doanh và Nhà nước cần vốn để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế


xã hội của đất nước (tiền để thỏa mãn các nhu cầu chung của đất nước).
TTCK có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói
riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ có thể được thực
hiện khi các giao dịch trên thị trường được diễn ra một cách hợp pháp, tạo điều
kiện tăng tính hiệu quả và giảm rủi ro của thị trường. Kinh nghiệm của các nước
trên thế giới cho thấy, để đạt được mục tiêu đó, hoạt động giám sát của Ủy ban
chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và các Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
đối với TTCK, đặt biệt là giám sát giao dịch chứng khoán trên SGDCK là một yêu
cầu rất quan trọng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và quy mô TTCK ngày càng tăng, sự tham
gia của các trung gian tài chính trong và ngoài nước trên TTCK ngày càng phát
triển.TTCK từ khi thành lập đến nay đã phát huy được chức năng của mình đối với
nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế gây kiềm hãm
sự phát triển của thị trường, với những vấn đề trên việc nghiên cứu giao dịch
chứng khoán trên TTCKVN thực sự là một nhu cầu cần thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
Xuất phát từ thực tế trên nhóm chúng tôi (mạnh dạn nghiên cứu và) thực
hiện tiểu luận với đề tài “Thị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định
hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam”. Hy vọng những kiến thức
của nhóm chúng tôi sẽ mang lại một cái nhìn tổng quát về hoạt động của thị trường
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 2
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán.
1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của TTCK.
TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một
cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán-các hàng hoá và
dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, theo những quy tắc ấn định trước.

TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế. Một nền
kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu
cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này vượt quá khả năng đáp ứng
của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực tế, đang tồn tại một lượng vốn rất
lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, gây
mất cân đối trong nền kinh tế, đó là những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu
vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư, dẫn đến vốn
bị ứ đọng, gây lãng phí. Xuất phát từ nghịch lý này, TTCK đã ra đời đóng vai trò là
kênh dẫn vốn quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung, phân phối
vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm vào khoảng
thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây. Cho đến
nay, quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã đánh
dấu hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản bị sụp
đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ 5 đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ 2 đen tối”,
19/10/1987. Song, cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường đã được
phục hồi, tiếp tục phát triển và trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu của
kinh tế thị trường.
1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 3
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,
trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là
hoạt động của TTCK.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó có khả
năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu
về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau
giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Có nhiều cách để
phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức khác nhau. Nếu dựa theo tính chất của
chứng khoán thì hàng hoá trên thị trường bao gồm hai loại chủ yếu là chứng khoán

vốn và chứng khoán nợ.
Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn và
quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần. Cổ
đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý công ty
thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua trước đối với
cổ phiếu phát hành mới.
Với chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, là loại chứng khoán quy định
nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hữu chứng khoán toàn bộ giá trị
cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.
Với các đặc tính trên, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính mà giá trị
của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ sở hữu đối với tổ
chức phát hành.
Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong các loại
thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá mua bán
hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 4
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp
hay ở thị trường thứ cấp, tại Sở giao dịch hay tại thị trường giao dịch qua quầy, ở thị
trường giao ngay hay ở thị trường kì hạn. Các quan hệ mua bán trao đổi làm thay đổi
chủ sở hữu của chứng khoán, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản,
chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng kinh tế
nòng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người tạm thời dư thừa
vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được thể hiện qua sơ đồ H1.1
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 5
Người cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp

3. Chính phủ
Các trung gian tài chính
- Ngân hàng thương mại
- Bảo hiểm, quỹ hưu trí
- Tổ chức nhận tiền gửi và
cho vay
Tài trợ gián tiếp
Người đi vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
Thị trường tài
chính
- Thị trường tiền tệ-
Vốn
Vốn
vố
n
Tài trợ trực tiếp
Vèn Vèn
Sơ đồ 1: Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con
đường trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp từ những
người tạm dư thừa vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Hoặc con đường thứ
hai để dẫn vốn là thông qua các trung gian tài chính, đây là một bộ phận đã chuyển tải
một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần tích cực trong
việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.
Như vậy, thị trường tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc tích tụ, tập
trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được xem là đặc trưng cơ

bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của chứng khoán (hàng hoá trên
thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư, vì vậy, TTCK được coi là hình thức phát
triển bậc cao của nền kinh tế thị trường.
1.3. Cơ cấu tổ chức của TTCK. (Nhóm trưởng nên lựa chọn một là nêu cơ cấu tổ
chức hoặc là nêu phân loại thị trường chứng khoán vì hai phần này hơi trùng
nhau:
1.3.1. Căn cứ vào phương thức giao dịch:
Thị trường giao dịch ngay (Thị trường thời điểm): Thị trường giao dịch
mua bán theo giá của ngày hôm đó; việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra sau đó vài
ngày (tùy theo mỗi thị trường chứng khoán quy định riêng số ngày);
Thị trường tương lai: Thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng
mà giá cả được thỏa thuận ngay trong ngày giao dịch; việc thanh toán và giao hoán sẽ
diễn ra trong một kỳ hạn ở tương lai (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm,…).
1.3.2. Căn cứ vào tính chất chứng khoán giao dịch:
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 6
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty,
trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường chứng khoán
phái sinh, bao gồm thị trường hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn,… Đây là
thị trường cấp cao mua bán chuyển giao các công cụ tài chính cấp cao; Do đó thị
trường này chỉ xuất hiện ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển ở
trình độ cao.
1.3.3. Căn cứ vào lưu chuyển vốn:
Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.

Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát
hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất
giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch
giá.
1.4. Chức năng của thị trường chứng khoán:
1.4.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản
xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy
động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 7
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
1.4.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ
hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính
chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù
hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
1.4.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là
một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu
tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và
có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng
cao.
1.4.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một

cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh
nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới,
cải tiến sản phẩm.
1.4.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế
tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của
nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công
cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua
TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 8
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự
phát triển cân đối của nền kinh tế.
 Vai trò của TTCK
Xu thế hội nhập và quốc tế hoá nền kinh tế đòi hỏi tự bản thân mỗi quốc gia
phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Một thị trường tài chính
năng động có khả năng làm tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất cứ một loại
tài nguyên nào, mà trong đó TTCK là một định chế tài chính rất quan trọng. Thực tế
phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của
TTCK trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các công cụ có tính
thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của vốn phù
hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên
thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả.
Thứ hai, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh
nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Với cơ chế thông
tin hoàn hảo đã tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm tác động của

các tiêu cực trong quản lý, đảm bảo phân bổ lợi ích một cách hài hoà giữa người sở
hữu, nhà quản lý và người làm công ăn lương. Đồng thời, TTCK đã tạo điều kiện thúc
đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN.
Thứ ba, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc
buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, từ đó phân tán
quyền lực kinh tế trong tay một số tập đoàn, tránh hiện tượng độc quyền, song vẫn tập
trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo
điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các nguồn tài
chính để phục vụ cho các mục đích của mình mà không tạo áp lực về lạm phát, hơn
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 9
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
nữa, hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước, đồng thời tạo
các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ năm, việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc tế hoá TTCK.
Điều này cho phép các công ty có thể huy động được một lượng vốn đầu tư lớn ở thị
trường ngoài nước, bên cạnh đó mở rộng các cơ hội kinh doanh cho các công ty trong
nước, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn được rẻ hơn.
Thứ sáu, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong
tương lai. Việc giá chứng khoán lên xuống có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh đã
đưa ra một dự báo giúp cho Chính phủ và các công ty có kế hoạch phân bổ các nguồn
lực của họ. Như vậy, TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên, hoạt động của TTCK cũng có những tác
động tiêu cực nhất định. Ta biết rằng, thị trường hoạt động dựa trên cơ sở thông tin
hoàn hảo, tuy nhiên ở hầu hết các thị trường không phải nhà đầu tư nào cũng có khả
năng tiếp cận thông tin đầy đủ và như nhau, vì vậy việc đưa ra các quyết định đầu tư
không hoàn toàn dựa trên việc xử lý thông tin, dẫn tới việc giá cả chứng khoán không
phản ánh chính xác giá trị công ty và chưa phân bổ một cách hiệu quả các nguồn lực.
Ngoài ra, còn có một số hiện tượng tiêu cực khác trên TTCK như hiện tượng đầu cơ,

mua bán nội gián, xung đột quyền lực…gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư. Thực tế
này đặt lên vai các nhà quản lý thị trường phải có những biện pháp hiệu quả để giảm
thiểu đến mức tối đa các tiêu cực trên thị trường nhằm đảm bảo cho tính hiệu quả của
thị trường, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư.
Như vậy ta thấy vai trò của TTCK đã được thể hiện dưới nhiều góc độ khác
nhau. Vai trò này có thực sự được phát huy hay không nó phụ thuộc vào sự quản lý
của Nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường.
1.5. Phân loại TTCK.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 10
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại TTCK theo các tiêu
thức khác nhau, có thể phân loại theo hàng hoá, phân loại theo cấu trúc tổ chức của thị
trường hay phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
1.5.1. Phân loại theo cấu trúc tổ chức thị trường. Theo đó, TTCK được phân
thành 3 loại thị trường sau:
(Sở giao dịch chứng khoán) Thị trường tập trung: Tại đây, người mua và
người bán (hoặc môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành
giao dịch, mua bán chứng khoán. Nên bỏ phần này vì chúng ta đang nói về thị trường
tập trung chứ không nên nói chi tiết về sở giao dịch.(Vì vậy người ta còn gọi Sở giao
dịch là thị trường tập trung – là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có
tổ chức tuân theo những luật lệ nhất định, là nơi tiến hành giao dịch chứng khoán của
những công ty lớn, làm ăn có hiệu quả. Như vậy,) Sở giao dịch chứng khoán không
tham gia vào việc mua bán chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch, một trung tâm tạo
điều kiện cho các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng. Đồng thời, Sở
giao dịch cũng là cơ quan thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt động diễn
ra trên thị trường tập trung nhằm tạo điều kiện để các giao dịch được thực hiện công
bằng, minh bạch và đúng pháp luật. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách
chặt chẽ bởi UBCKNN.
Thị trường phi tập trung (Thị trường OTC): Tại hầu hết các nước, bên cạnh thị
trường giao dịch tập trung, nơi diễn ra các hoạt động giao dịch chứng khoán của

những công ty lớn, còn có thị trường phi tập trung (OTC) chủ yếu dành cho việc giao
dịch chứng khoán của những DNV&N chưa hội đủ các điều kiện niêm yết trên thị
trường giao dịch tập trung. Thị trường OTC đại diện cho một thị trường thương lượng,
nơi mà người bán và người mua trực tiếp thương lượng với nhau về những điều kiện
chủ yếu của giao dịch như số lượng, giá… Có thể nói rằng, OTC là thị trường của
những nhà tạo lập thị trường - những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Các nhà tạo lập thị
trường nắm trong tay một lượng chứng khoán đủ lớn và họ sẵn sàng mua bán chứng
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 11
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
khoán với nhau cũng như với các nhà đầu tư khi họ chấp nhận được giá cả của họ.
Tương tự như hệ thống thị trường tập trung, thị trường OTC thường được tổ chức theo
2 cấp: cấp quản lý Nhà nước và cấp tự quản.
Như vậy, trong TTCK để huy động vốn cho các doanh nghiệp, Sở giao dịch là
nơi giao dịch chứng khoán của những doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp này có
khả năng đáp ứng được những quy định niêm yết ngặt nghèo về vốn, tình hình hoạt
động kinh doanh…trên Sở, mà những DNV&N thường không đáp ứng đủ. Còn đại bộ
phận cổ phiếu của các DNV&N được giao dịch trên thị trường OTC, ở đó những tiêu
chuẩn niêm yết thường thấp hơn trên Sở giao dịch. Hay nói khác đi, TTCK cho các
DNV&N là một bộ phận chủ yếu của thị trường OTC. Sở dĩ người ta đưa ra các tiêu
chuẩn niêm yết khác nhau trên các loại thị trường là vì: nếu chúng ta không phân ra và
cứ để phát triển một TTCK chung cho tất cả các doanh nghiệp có quy mô khác nhau
thì Nhà nước khó đề ra những chính sách công bằng và quản lý tối ưu cho thị trường
chung ấy. Thực tế cho thấy, có doanh nghiệp vốn lớn hàng trăm tỷ đồng, nhưng cũng
có những doanh nghiệp quy mô vài tỷ đồng, quy mô của doanh nghiệp có thể quyết
định đến khả năng hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, cách thức tiếp cận vốn, các tiêu chí
về rủi ro an toàn, niềm tin của nhà đầu tư…đối với hoạt động của doanh nghiệp. Vì
vậy, người ta thường có sự phân tách giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế
để có những chính sách, chiến lược phù hợp điều chỉnh hoạt động của từng doanh
nghiệp. Hơn nữa khi ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư cũng thường quan tâm đến độ
lớn vốn chủ của các doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, cần có sự phân biệt giữa TTCK

giao dịch chứng khoán của những doanh nghiệp lớn và TTCK giao dịch chứng khoán
của những doanh nghiệp nhỏ, điều này là rất cần thiết để có chiến lược phát triển cho
từng loại thị trường một cách hiệu quả, đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý của Nhà
nước, nguyện vọng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng như các chủ thể khác
tham gia TTCK.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 12
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Ngoài hai loại thị trường trên người ta còn nói tới một thị trường thứ ba, thị
trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên hai thị trường
trên. Vậy đó là thị trường gì? Nên nêu rõ ra (Upcom) Ngoài ra, người ta còn phân loại
TTCK thành thị trường mở và thị trường đàm phán, thị trường giao ngay và thị trường
kỳ hạn. Việc phân loại TTCK sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của TTCK.
1.5.2. Căn cứ vào tính chất chứng khoán giao dịch:
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty,
trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh Thị trường chứng khoán phái
sinh, bao gồm thị trường hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn,… Đây là thị trường
cấp cao mua bán chuyển giao các công cụ tài chính cấp cao; Do đó thị trường này chỉ
xuất hiện ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao.
1.5.3. Căn cứ vào lưu chuyển vốn:
Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát
hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát

hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất
giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch
giá.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 13
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
2. Các chủ thể tham gia TTCK.
TTCK là một thực thể phức tạp mà hoạt động của thị trường có nhiều loại chủ
thể khác nhau tham gia. Các chủ thể này hoặc là bán chứng khoán, hoặc là mua chứng
khoán, hoặc chỉ là trung gian môi giới cho hai bên mua bán để hưởng hoa hồng. Bên
cạnh đó còn có các chủ thể quản lý là Nhà nước và các tổ chức phụ trợ.
2.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý có nghĩa vụ bảo đảm cho TTCK hoạt động theo đúng các quy
định của pháp luật, nhằm bảo đảm cho việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn
ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu cực có thể xảy ra, từ đó bảo
vệ lợi ích của người đầu tư.
Hiện nay hầu hết các nước có TTCK đều có cơ quan quản lý và giám sát về
chứng khoán và TTCK. Với những tên gọi khác nhau (tuỳ theo mỗi nước) nhưng
thường là UBCK Quốc gia, bên cạnh đó còn có Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, các
Sở giao dịch chứng khoán. Ở mỗi quốc gia, với những đặc trưng riêng có mà có
những hình thức quản lý khác nhau và thiết lập nên những cơ quan quản lý khác nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, UBCKNN đang trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan quản
lý cao nhất về chứng khoán và TTCK. Theo đó, UBCKNN sẽ nghiên cứu vạch kế
hoạch, dự thảo các văn bản pháp luật và các thể lệ chế độ về tổ chức và hoạt động
TTCK để trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành. Đồng thời quản lý, giám sát
hoạt động của TTCK, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo thị trường hoạt động
tốt. Ngoài UBCKNN, các cơ quan quản lý khác như Ngân hàng Nhà nước, các Bộ,
đặc biệt là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán cũng có vai trò rất lớn trong hoạt
động quản lý các thành viên tham gia thị trường, và bảo vệ lợi ích cho các thành viên.
2.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính )
Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK, TTCK hoạt động

hiệu quả một phần là nhờ sự thủ vai tốt của các trung gian này. Với tư cách là nhà
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 14
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
kinh doanh chứng khoán, họ thực hiện việc mua bán chứng khoán cho chính bản thân
mình nhằm mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, họ còn đóng vai trò là thành viên hỗ trợ
cho hoạt động của thị trường thông qua các nghiệp vụ đại lý bão lãnh phát hành, tư
vấn và môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Trên thực tế, các công ty
chứng khoán tham gia với vai trò là nhà môi giới kinh doanh chứng khoán thường làm
cả hai nghiệp vụ là môi giới để hưởng hoa hồng và tự doanh để tìm chêch lệch giá. Sự
tham gia của các công ty chứng khoán này đã góp phần làm cho hoạt động của thị
trường diễn ra liên tục, thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
2.3. Các nhà đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK
bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành nhằm hưởng lãi và lợi
nhuận. Chủ thể đầu tư trên thị trường có thể là tổ chức đầu tư hoặc các nhà đầu tư cá
nhân.
Nhà đầu tư cá nhân chính là công chúng, một loại chủ thể có khả năng cung cấp
một khối lượng tiền tệ rất lớn. Công chúng khi có vốn tạm thời nhàn rỗi, họ tham gia
mua chứng khoán với mục đích đầu tư kiếm lời. Khi có nhu cầu vốn họ đem bán lại
các chứng khoán đã mua trên thị trường thứ cấp. Họ tham gia thị trường bằng nhiều
cách khác nhau có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức,
các trung gian tài chính.
Nhà đầu tư có tổ chức, có thể là các NHTM, công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí,
quỹ tương hỗ, công ty quản lý quỹ…họ thường xuyên mua bán chứng khoán với số
lượng lớn trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ chức đầu tư thường đầu tư
theo danh mục và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có trình độ
và kinh nghiệm cao, mang tính chuyên nghiệp. Vai trò của các tổ chức đầu tư này ở
các nước có TTCK phát triển ngày càng to lớn.
2.4. Tổ chức phát hành chứng khoán.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 15

TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán
trên thị trường sơ cấp. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các tổ chức tài
chính trung gian khác, và các doanh nghiệp. Trong số đó chủ yếu là Chính phủ và các
doanh nghiệp.
Các chủ thể phát hành tham gia huy động vốn bằng nhiều phương thức khác
nhau nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau. Chính phủ phát hành các chứng
khoán như: Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho bạc nhằm bù đắp thâm hụt ngân
sách, xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cống, đường xá… Các doanh nghiệp phát hành cổ
phiếu, trái phiếu công ty nhằm đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh…
Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra hàng hoá ở thị
trường sơ cấp, và mua bán lại các chứng khoán ở thị trường thứ cấp.
2.5. Các tổ chức phụ trợ
Sự tham gia của các tổ chức phụ trợ giúp cho hoạt động của thị trường diễn ra
trôi chảy, đó là Trung tâm Lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm…
Như vậy, có thể thấy rằng TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ
thể tham gia. Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của họ liên
đới và bổ sung chặt chẽ cho nhau, nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của người này
chuyển sang sở hữu của người khác một cách hợp lý và hài hoà để nền kinh tế hoạt
động với những giá trị mới được tạo ra từng giờ, mỗi ngày.
PHẦN B: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
1. Tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam. (Từ 2007 – 2010): nên đưa số liệu
thực tiễn vì e thấy phần này lý thuyết hơi nhiều, ví dụ: các bảng biểu so sánh, sơ
đồ hình biến động chứng khoán-phần này nhóm có thể lấy số liệu của nhóm bạn
Quý-dã báo cáo môn Thị trường Tiền tệ
1.1. Tình hình niêm yết chứng khoán:
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 16
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Thị trường chứng khoán VN bắt đầu hoạt động từ năm 2000, khởi thuỷ là sự kiện

thành lập Trung tâm chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 7 năm 1998 theo
Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28
tháng 07 năm 2000. Trong khi đó, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thành lập
vào ngày 08 tháng 03 năm 2005. Tiếp sau là các sự kiện thành lập Sở giao dịch chứng
khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 05 năm 2007 theo Quyết định số 599/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính Phủ và Sở giao dịch Hà Nội trực thuộc Uỷ ban chứng khoán
Nhà nước.
Khởi thuỷ, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ có 2 mã Cổ phiếu niêm yết là SAM
và REE, đến năm 2005, số công ty niêm yết đã lên 32 công ty, cho đến nay, số lượng
đã vượt qua con số 300, gồm các loại chứng khoán và chứng chỉ quỹ tổng trên cả 2
sàn niêm yết, với giá trị lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Tuy có những tình hình phát triển
khả quan như vậy về số lượng, nhưng về mặt giá trị thì tuy có gia tăng nhưng đã gây
ra những biến động thăng trầm có những lúc đến không ngờ, và nếu không thoát khỏi
thị trường kịp thời trong những lúc giảm điểm kịp thời thì các nhà đầu tư cũng sẽ gặp
những rủi ro về vốn của mình.
1.2. Tình hình giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động được 10 năm, trải qua nhiều thăng trầm,
nhưng có thể nói những diễn biến trong giai đoạn từ 2007 đến 2010 là đầy biến động
nhất và nhiều sự kiện nhất. Tuỳ theo giá trị về vốn chủ sỡ hữu mà các công ty có thể
niêm yết Cổ phiếu của mình ở những thị trường Hà Nội, vốn dưới 80 tỷ hay là TP. Hồ
Chí Minh, vốn trên 80 tỷ.
Tình hình giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua, d0a85c biệt
là từ những năm 2007 đến 2010 cực kỳ sôi động, các công ty đại chúng, các tập đoàn
tài chính, đặc biệt là lĩnh vực Ngân hàng và Bảo hiểm cũng thay nhau lên sàn. Đến
thời điểm hiện nay, ở mỗi sàn giao dịch, tổng giá trị giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ
đồng. Ngày trước, các công ty niêm yết chủ yếu là những công ty vừa cổ phần hoá,
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 17
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
tham gia niêm yết vì sự kêu gọi từ phía Nhà nước; còn bây giờ Sở giao dịch Chứng
khoán TP. Hồ Chí Minh liên tục thông báo nhận hồ sơ niêm yết từ nhiều công ty từ

các đô thị lớn đến các tỉnh xa, từ công ty tư nhân cho đến các công ty có gốc là doanh
nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng còn những hạn chế nhất
định. Có những ý kiến cho rằng cơ sở pháp lý và điều kiện quản lý hiện nay chưa thực
sự giúp thị trường đủ lớn mạnh và được như mong muốn của những công ty niêm yết,
đó là làm sao để doanh nghiệp, kể cả ngân hàng, khi cần vốn có thể tìm đến thị trường
chứng khoán. Đến ngày hôm nay, thị trường chứng khoán vẫn chủ yếu là giao dịch cổ
phiếu có sẵn, còn những giao dịch gọi vốn qua thị trường để thay thế nguồn vốn ngân
hàng thì vẫn chưa nhiều, do đó chúng ta cần có những giải pháp căn cơ hơn để giải
quyết vấn đề cốt yếu này để thị trường phát triển và tăng quy mô của thị trường lên,
đáp ứng đúng mục tiêu huy động vốn của thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.3. Tình hình biến động chỉ số VN-Index:
Theo đà thăng trầm của tình hình niêm yết và tình hình giao dịch trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, (thì chỉ số VN-Index, chỉ số giao dịch chứng khoán Việt Nam
tại sàn TP. Hồ Chí Minh và chỉ số HASTC-Index, chỉ số tại sàn giao dịch Hà Nội,
cũng có những biến động không ngừng và hầu như hai chỉ số này luôn luôn biến động
cùng chiều với nhau.) phần tô vàng sửa thành Chỉ số HNX-index tại sàn Hà Nội và chỉ
số HOSE-index tại sàn TPHCM, hai chỉ số này hầu như luôn biến động.
Có thể nhìn lại diễn biến chỉ số VN- Index trong mười năm qua để thấy hết thăng
trầm. Chỉ non 01 năm sau khi mở cửa thị trường, vào tháng 06-2001, chỉ số này đã leo
lên 571 điểm. Ở giai đoạn tốt đẹp này, với sự chào đón nồng nhiệt của công chúng đầu
tư trong điều kiện hiếm hàng (do có ít công ty niêm yết), thị trường nóng lên là không
có gì khó hiểu. Chính cái bẫy tăng nóng, tình trạng thiếu đáp ứng nhiều mặt, cùng sự
thoả mãn, thất vọng và sợ hãi đan xen vào thời kỳ sơ khai này đã kéo thị trường xuống
đáy sâu chưa đầy hai năm sau đó. Hậu quả là VNI-Index rớt liên tục xuống còn 139
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 18
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
điểm vào tháng 4-2003. Vào giai đoạn bỉ cực này, có lúc cả cổ phiếu tên tuổi cũng bị
đẩy xa về phía dưới mệnh giá. Từ đó, thị trường rơi vào giai đoạn ngủ đông cho đến
hết năm 2005.

Sau đó, thị trường lại ấm lên vào năm 2006, rồi sốt cao, đỉnh điểm là chỉ số VNI-
Index cao nhất từ trước đến nay 1.170 điểm vào tháng 03-2007, một chỉ số kỷ lục mà
mãi cho đến nay vẫn chưa tìm thấy được. Sự hưng phấn quá trớn này làm cho mọi
người cứ nghĩ đó là xu thế, là quy luật, để rồi đoán non đoán già rằng VNI-Index sẽ
còn vượt lên trên 2000 điểm! Thật may là điều đó đã không xảy ra. Thay vào đó là
giai đoạn điều chỉnh dài ngày, ảm đạm suốt năm 2008, và chỉ dừng lại ở cái đáy sâu
235 điểm vào tháng 2-2009.
Thị trường trong những gia đoạn ảm đạm đã tụt đốc không phanh, có thể quy cho một
số tác động kinh tế, bởi lúc này, khách quan trên thế giới đã xảy ra cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới do Mỹ châm ngòi, tạo ra những tác động tiêu cực trên toàn thế giới về
kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Tuy vậy, điều đáng nói ở đây
chính là thực tế lúng túng trong cách ứng phó và các áp đặt mang tính hành chính từ
phía các nhà quản lý thị trường, được cho là đã gây nên tình trạng thị trường có lúc
như bị mất lửa. Bảng điện tử đỏ đều suốt tháng, bi quan lây lan bao trùm, tình trạng
tháo lui khỏi thị trường diễn ra tràn lan…Thế nhưng, vào thời điểm vắng lặng làm cho
không ít nhà đầu tư rời bỏ thị trường với nỗi lo “sập sàn” thì thị trường như bừng tỉnh
lại. Trong vòng bảy tháng, từ tháng 3 đến 10-2009 thị trường đã tăng ngoạn mục từ
235 đến 633 điểm. Không ít nhà đầu tư đã tận dụng cơ hội này để kiếm lại những gì
đã mất trước đó.
Có thể nói tóm lại rằng, thị trường chứng khoán lắm thăng trầm nhưng cũng không
kém cuốn hút. Chỉ tính ba năm gần đây thôi đã có bốn thời đoạn vui buồn kịch tính:
hoành tráng 2007, sóng gió 2008, thử thách 2009 và ẩn số 2010. Hy vọng rằng, với
những nỗ lực không ngừng nghỉ và tâm huyết của các nhà quản lý, thị trường chứng
khoán Việt Nam sẽ có những bước phát triển tốt hơn trong tương lai.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 19
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
2. Các mặt hạn chế của TTCK Việt Nam – nguyên nhân.
2.1. Các mặt hạn chế:
Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng thị trường chứng khoán Việt
Nam còn non trẻ nên còn có một số hạn chế sau:

+ Sự tăng trưởng của thị trường chưa bắt nguồn từ động cơ tích cực khi nhà đầu
tư còn chạy theo phong trào, thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư dài hạn. Số lượng
nhà đầu tư còn hạn chế so với tiềm lực dân số và tiềm năng về vốn của nền kinh tế, số
lượng nhà đầu tư nước ngoài chưa nhiều và nhà đầu tư có tổ chức còn rất hạn chế. Các
nhà đầu tư trong nước đa số hiểu biết chưa thật đầy đủ về cơ chế hoạt động của
TTCK, tầm nhìn chiến lược còn ngắn hạn. Mặt khác còn do sự thiếu trung thực trong
việc cung cấp thông tin của các công ty, đã làm cho không ít nhà đầu tư không còn đủ
tin cậy để sử dụng các thông tin này trong việc ra quyết định. Từ đó xuất hiện một số
nhà đầu tư “chơi chứng khoán” như đánh bạc, họ sẵn sàng dốc hầu bao của mình ra để
thử vận may. Hậu quả là, theo ước tính của một số chuyên gia kinh tế thì ít nhất có 0,5
triệu người/hộ gia đình; và nhiều nhất là 1 triệu người/hộ gia đình (số liệu này không
tưởng khi trong hộ gia đình mà có đến 0,5 triệu hay là 1 triệu) đã lâm vào tình trạng
phá sản do đầu tư chứng khoán theo kiểu đánh bạc.
+ Tính thanh khoản thị trường thấp dẫn đến mất cân đối cung – cầu, làm cho giá
cả biến động thất thường. Tính thanh khoản của chứng khoán là khái niệm thể hiện
khả năng chuyển đổi dễ dàng từ tiền sang chứng khoán và ngược lại. Thị trường có
những lúc không thể hiện đúng giá trị của nó. Giá chứng khoán bị thổi phồng theo tin
đồn mà không phải căn cứ vào tình hình tài chính thực sự của công ty, đương nhiên sẽ
nhanh chóng bị xẹp xuống khi có tin đồn xấu. Thị trường thiếu những công ty hoạt
động thực sự hiệu quả, có tầm nhìn chiến lược dài hạn, các “blue chip” khá ít ỏi đã
khiến cho thị trường có tính thanh khoản kém, khó ổn định trước những cơn bão tài
chính.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 20
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Biên độ giao dịch chứng khoán hiện nay trên các sàn có sự chênh lệnh khá lớn
(HOSE với biên độ 5%, HNX với 7% và Upcom là 10%). Điều này sẽ dẫn đến tình
trạng đầu cơ gia tăng khi thị trường có biến động mạnh.
+ Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ cho hoạt động của thị trường còn nhiều
hạn chế. Khung pháp lý của thị trường còn nhiều bất cập khi mà luật chứng khoán đã
ban hành song chưa đầy đủ ở một số hành vi như: giao dịch khống, giao dịch tín dụng,

giao dịch các sản phẩm phái sinh. Các hành vi tiêu cực xảy ra trong các hoạt động
kinh doanh đầu tư chứng khoán bị xử phạt theo luật chứng khoán là chưa thích đáng
với mức độ gây hại của nó. Theo thống kê của Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM
trong năm 2007 có các hành vi tiêu cực sau:
Có 135 công ty chứng khoán vi phạm khi đặt lệnh: Hủy lệnh trong cùng đợt khớp
lệnh, đặt mua vượt quá tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài…
Giao dịch của các cổ đông lớn không báo cáo.
Giao dịch của những người liên quan không công bố thông tin.
Nhân viên công ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty
chứng khoán khác.
Nhiều người mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán khác nhau.
Trong năm 2008 thì số trường hợp vi phạm là 137.
Đã có một số vụ thao túng thị trường và giao dịch nội gián. Điển hình là vụ thao
túng thị trường đối với các cổ phiếu của Công ty kỹ nghệ khoáng sản Quảng Nam
(MIC), Công ty cổ phần Vincom (VIC), Công ty cổ phần Vinpearland (VPL), vụ thao
túng thị trường đối với cổ phiếu của các công ty cổ phần xi măng Cần Thơ (CCM), vụ
giao dịch nội gián đối với cổ phiếu của các công ty, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
lâm thủy sản Bến Tre (FBT), Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức (TDH), Công ty
cổ phần khoáng sản Hà Nam (KSH).
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 21
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Tuy nhiên mức xử phạt hiện hành theo Nghị Định 36/2007/NĐ-CP chỉ dừng lại ở mức
xử phạt hành chính tối đa là 70 triệu đồng. Điều này thật sự chưa hợp lý vì lý do việc
thu lợi từ việc vi phạm nhiều hơn so với mức đóng phạt hành chính. Điều này chưa đủ
sức răn đe.
2.2. Nguyên nhân.
Thứ nhất: Hàng hóa trên thị trường tuy có tăng về số lượng nhưng chưa đa dạng
về chủng loại. Thị trường niêm yết hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ
quỹ, chưa có công cụ phái sinh. Điều này không làm tăng tính đa dạng trong hoạt
động đầu tư. Thiếu công cụ phòng ngừa hạn chế rủi ro khi thị trường có biến động

lớn.
Thứ hai: Các công ty niêm yết phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có sự
tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn nên khả năng cạnh tranh chưa cao nên chưa làm
yên lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra công tác quản trị, chế độ kế toán của các công ty
niêm yết có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế điều này gây trở ngại đối
với nhà đầu tư nước ngoài. Thông tin chưa minh bạch, chính xác điều này gây mất
niềm tin đối với nhà đầu tư.
Thứ ba: Nguồn nhân lực cho hoạt động của thị trường còn hạn chế cả về số
lượng và chất lượng. Phần lớn nhân lực trong lĩnh vực chứng khoán chưa được đào
tạo chính quy và đúng chuyên môn mà từ các lĩnh vực chuyển sang nên còn nhiều hạn
chế. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cũng như nội dung đào tạo nguồn nhân lực
cho lĩnh vực chứng khoán còn rất nhiều hạn chế. Hiện tại, Ủy ban chứng khoán nhà
nước là cơ quan duy nhất được phép đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề chứng
khoán, do vậy việc đào tạo gì, cấp bằng gì, chất lượng ra sao không có ai phản biện
nên khó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này. Ngoài ra việc thanh tra, giám sát
hoạt động của công ty chứng khoán còn lỏng lẻo và chưa triệt để nên sai phạm của các
công ty này diễn ra thường xuyên làm xói mòn niềm tin vào thị trường.
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 22
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Thứ tư: Số lượng công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam so với quy mô thị
trường tương đối nhiều, tuy nhiên còn thiếu về nhiều mặt. Hạ tầng kỹ thuật của các
công ty chứng khoán chưa được đầu tư đúng mức, cho nên các công ty chứng khoán
tuy nhiều nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường. Phần mềm Giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là
phần mềm chuyển giao từ Thái Lan trước đây, khi có sự cố phải mời các chuyên gia
Thái Lan sang khắc phục, gây tốn nhiều chi phí và không mang tính chuyên nghiệp
mất nhiều thời gian để chuyên gia Thái Lan sửa lỗi. Thị trường chứng khoán Việt
Nam đã chứng kiến nhiều lần “sập sàn” do quy mô giao dịch tăng đột biến những năm
2007. Tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao. Điều này thể hiện ở thị trường
chưa minh bạch, kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư

còn hạn chế, pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán chưa ổn định…
Thứ năm: Hiện trung tâm lưu ký quản lý tài khoản trực tiếp của công ty chứng
khoán mà chưa quản lý cụ thể đến từng nhà đầu tư. Điều này không kiểm soát được
việc nhà đầu tư mở một lúc nhiều tài khoản qua nhiều công ty chứng khoán khác
nhau. Quan trọng hơn chính vấn đề này nhiều công ty chứng khoán có cơ hội vi phạm
như dùng đòn bẩy tài chính, bán chứng khoán ngày T, T+1, T+2, phân bổ chứng
khoán của công ty chứng khoán cho nhà đầu tư không chính xác, điều này gây nên sự
những nhiễu và bất lợi cho nhà đầu tư nhỏ.
3. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam. (phần này nên nêu một
cách khái quát các định nghĩa, chứ không nên nêu cụ thể trách nhiệm và quyền
hạn, chỉ cần có sơ đồ minh họa cơ cấu tổ chức là được)
3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996
theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức
năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Với vị
thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò
rất quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 23
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi
trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK
hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ, có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
của một cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK; quản lý nhà nước các
dịch vụ công thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Với Nghị định số 90/2003/NĐ-
CP được Chính phủ ban hành ngày 12/8/2003 thay thế Nghị định số 75/CP, UBCKNN
có các nhiệm vụ, quyền hạn:
• Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ tướng Chính
phủ phân công ký các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường

chứng khoán và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
• Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, các chương trình,
kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm và các dự án quan trọng của UBCKNN; tổ
chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch sau khi được phê
duyệt;
• Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy
phạm chuyên môn nghiệp vụ và định mức kinh tế - kỹ thuật được áp dụng trong
các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán;
• Cấp, gia hạn, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép phát hành, niêm yết, kinh doanh và
dịch vụ chứng khoán, hành nghề kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp
luật;
• Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán, các thị trường
giao dịch chứng khoán có tổ chức;
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 24
TTCK Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển TTCK Việt Nam GVDH:PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
• Tổ chức, quản lý Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán
và các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, các trung tâm lưu ký, đăng ký,
thanh toán bù trừ chứng khoán;
• Quản lý các hoạt động liên quan đến thị trường chứng khoán của tổ chức phát hành
chứng khoán, tổ chức niêm yết chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán và
tổ chức phụ trợ theo quy định của pháp luật;
• Thanh tra, kiểm tra và giám sát các đối tượng tham gia hoạt động trên thị trường
chứng khoán và xử lý các vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo
quy định của pháp luật;
• Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp
luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc lĩnh vực chứng khoán
và thị trường chứng khoán theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
• Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục

đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra thực hiện các quy định của
Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi
phạm pháp luật của hiệp hội chứng khoán theo quy định của pháp luật;
• Tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán; đào tạo
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức của Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước và các đơn vị trực thuộc, nhân viên kinh doanh chứng khoán và
các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán;
• Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường
chứng khoán cho các tổ chức và cho công chúng;
• Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
theo quy định của pháp luật;
• Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành
chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
Thực hiện : Nhóm 2- CH.K19 – NH-N2 25

×