Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

tư tưởng pháp trị của hàn phi tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.15 KB, 42 trang )

Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc
là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển
xã hội cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề
cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng
Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời gian ngắn vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý
nghĩa đến tận ngày nay.
Thực vậy, chúng ta phải khẳng định rằng: Bất cứ một xã hội nào từ cổ đại cho đến
hiện đại muốn tồn tại và phát triển được đều phải dựa vào sự ổn định và các quy tắc
chặt chẽ. Pháp luật luôn là điều cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội và tư tưởng Pháp
trị của Hàn Phi Tử luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại.
Trong quá trình xây dựng xã hội hiện nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp thu những
hạt nhân tiến bộ của học thuyết này, như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp với
đời sống xã hội; và pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh. Trong bài viết
này, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó
lên đời sống xã hội hiện đại ngày nay”, nhằm mục đích giải thích, giới thiệu tư tưởng
Hàn Phi Tử và tìm hiểu xem tư tưởng đó ảnh hưởng như thế nào trong bối cảnh xã hội
hiện nay.
Do tư liệu ít, phạm vi bài viết rộng chúng tôi không đủ khả năng khái quát hoặc
đưa ra nhận xét hợp lý khi kinh nghiệm thực tiễn không nhiều. Mặt khác do thời gian
gấp rút đã làm cho chúng tôi cón nhiều lúng túng khi đưa ra nhận định. Vượt qua
những khó khăn ban đầu, chúng tôi luôn cố gắng hoàn thành đề tài này một cách rõ
ràng nhất, hy vọng có thể đem đến một cái nhìn khác về tư tưởng này.
Xin chân thành cảm ơn.
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
1
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 2


1.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử: 8
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia: 8
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử: 9
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 14
2.1. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Trung Hoa cổ đại, thời Chiến Quốc: 15
2.3. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - xã hội ngày nay: 19
2.3.1. Bối cảnh xã hội ngày nay: 19
2.3.1. Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay: 20
2.4. Tư tưởng Pháp Trị của Hàn Phi - Những mặt tồn tại và giải pháp 26
2.4.1 Những mặt tồn tại của Pháp trị: 26
CHƯƠNG 3: PHẦN MỞ RỘNG: PHÁP TRỊ TRONG VIỆC QUẢN LÝ ĐẤT
NƯỚC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀY NAY 34
3.1 Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành đất nước 35
3.2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp 37
3.2.1 Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp 37
3.2.2 Nhìn từ góc độ nội bộ doanh nghiệp: 39
40
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy với hơn năm trăm năm chiến
tranh đau thương “người chết đầy đống, thây chất đầy thành” (Mạnh Tử). Hiện thực
nóng bỏng đó là tiền đề tích cực cho ra đời hàng loạt các học thuyết tư tưởng, nhằm lý
giải hiện thực và đề xuất những quan điểm, đường lối chính trị - những phương thuốc
cứu đời từ loạn về trị. Và trong khoảng thời gian này, học thuyết pháp trị đã xuất hiện,
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
2
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, nhanh

chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng góp phần đưa sự nghiệp thống nhất nhà Tần đi đến
thắng lợi, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
1.1. Hàn Phi Tử - Cuộc đời và tư tưởng:
1.1.1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử:
Trong lịch sử Trung Hoa, nhà Chu tồn tại lâu hơn bất kỳ một triều đại nào. Nhà
Chu khởi nguồn ở sông Vị, phía tây nền văn minh Thương. Nhà Chu coi tất cả đất đai
thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân
cư đều thuộc về họ. Thấy rằng đất đai mình chinh phục được quá rộng lớn để một
người có thể cai trị, các vua nhà Chu đã chia đất đai thành những vùng và chỉ định một
người nào đó để cai trị vùng đó dưới danh nghĩa của mình (chư hầu), lựa chọn một
người thân trong họ, một người có thể tin tưởng trong bè cánh, hay vị thủ lĩnh một bộ
lạc đã cùng họ chống lại nhà Thương. Giai đoạn Đông Chu bắt đầu từ khoảng năm thế
kỷ thứ 7 trước Công Nguyên tới 221 trước Công Nguyên (TCN) (Có nhiều tài liệu ghi
chép giai đoạn Đông Chu từ năm 722 TCN tới 256 TCN). Giai đoạn này có thể chia
thành hai thời kỳ:
- Thời Xuân Thu (- 700 - 403) từ đời Chu Bình Vương tới gần cuối đời Chu Uy
Liệt Vương.
- Thời Chiến Quốc (- 403 - 221) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương tới khi Tần diệt
Tề và thống nhất Trung Quốc.
Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất
nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Về kinh tế, canh nông,
phương pháp canh tác rất tiến bộ. Thời Ân người ta dùng lưỡi cày bằng gỗ, thời Tây
Chu đã có lưỡi cày bằng đồng đỏ; cuối thời Xuân Thu ở Ngô và Việt, người ta đã tìm
ra sắt. Sắt lúc đó gọi là "ác kim" (vàng, bạc, đồng là mỹ kim) và chỉ dùng chế tạo
những đồ dùng tầm thường như lưỡi cày, lưỡi cuốc. Do sự gia tăng của số dân nên sự
khai hoang đất đai trong giai đoạn này được tập trung. Chế độ tỉnh điền không hợp
thời nữa. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức
gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tới thời Xuân Thu, công nghệ
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
3

Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
phát triển hơn, các đồ đồng bằng đồng đỏ, các đồ cẩn, khảm đã đạt được kỹ thuật cao,
đồ bạc và bằng ngọc đã xuất hiện.
Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất
mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công tước tại
các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà vua và triều
đình cai trị. Vị vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình.
Thay vào đó, sự trung thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực
cho ông ta. Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút.
Thời kỳ chiến quốc bắt đầu từ năm 403 TCN, không đánh dấu một biến cố gì quan
trọng đủ để mở đầu một thời đại, chỉ là năm ba đại phu nước Tấn: Hàn Kiều, Triệu
Tích, Ngụy Tư được vua Chu phong hầu (do đó mà sau Tấn tách ra thành ba nước
Hàn, Triệu, Ngụy), còn xã hội, lịch sử Trung Hoa vẫn biến chuyển liên tục, không bị
gián đoạn. Tuy nhiên có điều này hiển nhiên là càng về sau xã hội càng loạn, biến cố
càng dồn dập, và xét chung thì thời Chiến Quốc quả có nhiều điểm khác thời Xuân
Thu.
Về kinh tế, thời Chiến Quốc, sắt đã trở nên thông dụng, được ưu chuộng trong việc
chế tạo binh khí cũng như lưỡi cày. Canh nông nhờ đó cũng phát triển. Nước chư hầu
nào cũng muốn phú cường để thôn tính các nước bên cạnh, mà muốn phú cường thì
trước hết phải khuếch trương canh nông, nghĩa là phải vừa cải tiến phương pháp canh
tác vừa khuyến khích khai phá đất đai mới, vừa thay đổi cách đánh thuế. Thời chiến
quốc chế độ tỉnh điền được bãi bỏ, đồng thời cũng bỏ luôn phép đánh thuế thời đó gọi
là trợ (giúp): tám gia đình làm giúp một khoảng ruộng công ở giữa cho chủ điền (tức là
cho chính phủ, cho quý tộc), mà thay bằng thứ thuế thường bằng một phần mười huê
lợi, huê lợi có khi tính từng năm một, có khi lấy số trung bình của nhiều năm.
Lối sau này bất lợi cho nông dân: năm được mùa, lúa thóc dư nhiều, chính phủ có thể
thu nhiều mà lại thu ít, dân tiêu pha hết không chịu để dành; tới năm mất mùa, huê lợi
chỉ đủ trả phí tổn canh tác thì chính phủ lại bắt nộp đủ số, dân đói phải vay nặng lãi
của chủ điền, của con buôn, có kẻ trả nợ suốt đời không hết. Gần thời Chiến Quốc, các
ông vua chư hầu cần tiền mua khí giới, nuôi binh lính, đánh thuế rất nặng, có nơi bằng

50% huê lợi của dân, dân tình cực điêu đứng. Tuy nhiên chính sách đóng thuế vào huê
lợi cũng có lợi cho nông dân về mặt khác: họ tương đối được tự do, độc lập hơn đối
với chủ điền, không bị "cột" vào công điền nữa. Về công nghệ, thời Chiến Quốc phát
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
4
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
triển thêm đồ sơn, đồ thuỷ tinh; kỹ thuật đồ gốm, kỹ thuật dệt và nhuộm (có khi người
ta nhuộm tới bảy màu), rất tiến bộ và người ta đã tìm được những hợp kim để chế tạo
những tấm gương soi mặt rất tốt. Nhờ đó, thương mại dần phát triểnvà phát triển hơn
cả công nghệ.
Về chính trị, chế độ phong kiến suy vi. Trong Chiến Quốc từ khi dời đô sang phía
đông, nhà Chu suy nhược lần lần, đất đai thì phải chia cắt để phong cho các chư hầu
công khanh, nên mỗi ngày mỗi thu hẹp lại, chỉ còn trông cậy vào sự cống hiến của các
chư hầu mà chư hầu như nước Lỗ, trong 242 năm chỉ triều cống có ba lần: không
những vậy, vì cái danh nghĩa thiên tử, đôi khi còn phải giúp lương thực cho chư hầu
những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh. Thời Chiến Quốc, giai cấp quý tộc cũ lần
lần tan rã, không nắm quyền hành nữa, và một giới hữu sản mới lên thay: họ là những
người khai phá những đất mới, những thương nhân làm giàu rồi mua đất và thành
những tân địa chủ, lối sống cũng như bọn quý tộc cũ, nhưng tư tưởng tiến bộ hơn, và
một số có tài nhảy ra làm chính trị. Thời Xuân Thu đã có một số ít người trong giai
cấp đó chiếm được những địa vị cao: như Bách Lý Hề, Quản Trọng, Ninh Thích ,
nhưng thời Chiến Quốc mới thực là thời của họ tung hoành. Họ là những kẻ sỹ áo vải
giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế hay võ bị, làm quân sư hoặc tướng quốc cho các
vua chúa. Họ là Tô Tần, Trương Nghi, Cam Mậu, Phạm Tuy, Ngô Khởi, Bạch Khởi,
Lã Bất Vi, Lý Tư
Nhà Chu suy nhưng một số chư hầu mỗi ngày một mạnh vì chính trị tốt, kinh tế
phát đạt như Tề, hoặc vì sát nhập những nước nhỏ xung quanh để củng cố quyền lực,
khai thác được những đất mới như Sở, Tần. Số chư hầu trước kia còn ngàn rưỡi, tới
thời Đông Chu (Xuân Thu) chỉ còn lại trên một trăm, qua thời Chiến Quốc, giảm
xuống nữa, còn dưới một chục: Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Lỗ…; trong đó

thất hung gồm Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên , mạnh nhất là Tần, Sở, Tề vì đất
đai đã rộng (nhất là Sở) mà tài nguyên lại nhiều. Gần cuối thời Chiến Quốc họ thành
những quốc gia độc lập, không phục tùng nhà Chu nữa, không chịu xếp mình vào bậc
công hay hầu, chư hầu phục tùng nhà Chu, mà tự xưng vương (tức tự coi mình ngang
với nhà Chu). Điều này đã mở đầu cho giai đoạn chiến tranh liên miên giữa các nước,
nhằm tranh giành đất đai, xưng Đế (vua của các vua).
Càng về cuối thời Chiến Quốc, chiến tranh càng tàn khốc, tình hình dân chúng thật
điêu đứng. Hơn nửa dân phải đi lính, kẻ ở nhà phải nộp thuế có khi tới ba phần tư hoa
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
5
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
lợi. Những năm được mùa, dân cũng không được hưởng vì triều đình thu hết lúa để
nuôi lính; những năm mất mùa thì kẻ già, người bệnh chết hàng loạt trên đường, trong
ruộng. Chiến tranh trong hai năm cuối cùng thời Chiến Quốc liên miên bất tuyệt, có
khi nào chấm dứt đâu, chỉ tạm dừng ở nước này hay nước khác để chuẩn bị cho một
chiến tranh khác.
Thấy xã hội từ trên xuống dưới đầy trộm cướp như vậy, bọn quý tộc sa sút bất
bình, muốn trở lại thời Xuân Thu, ổn định hơn, nhưng bất lực; hạng thư sinh thì chỉ
thở dài, giảng nhân nghĩa; còn hạng võ dũng thì chỉ biết dùng thanh gươm để rửa nhục
cho kẻ bị oan ức, bênh vực kẻ bị áp bức, thành bọn thích khách mà người ta gọi là hiệp
sỹ. Chúng ta không thấy làm lạ rằng thời Chiến Quốc có nhiều hiệp sỹ hơn các thời
khác. Dù chiến tranh chấm dứt thì họa cũng kéo dài hàng chục năm, "vì tổn phí vào
chiến tranh, mười năm thu lúa cũng chưa đủ bù”.
Kết thúc giai đoạn Chiến Quốc, Trung Hoa cổ đại được quy về một mối, Tần Thủy
Hoàng thống nhất đất nước và lập ra nhà Tần. Ông đã lập nên đế chế đầu tiên trong
lịch sử Trung Quốc, đánh dấu một cột mốc quan trọng. Và chiến thắng của Tần Thủy
Hoàng không thể không nói đến học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, chính học thuyết
này đã góp phần to lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng tạo ra một đế chế hùng mạnh.
1.1.2. Cuộc đời Hàn Phi Tử:
Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống

nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích
cái học "hình danh." - Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật
nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách. Trong bảy nước thời
Chiến Quốc, tổ quốc của Hàn Phi “vốn là nước nhỏ, phải chống sự công kích ở bốn
phía, chúa nhục, tôi khổ” (Tồn Hàn, Hàn Phi Tử). Làng giềng lại có cường Tần hung
bạo nên tình hình đã khổ càng thêm khổ; theo Hợp Tung thì bị Tần đánh, theo Liên
Hoành lại bị các nước đánh. Hàn Phi muốn phò vua Hàn nhưng không được trọng
dụng, nhiều lần dâng kế sách nhưng không được sử dụng. Ông nhận thấy vua Hàn
“không sửa đổi làm rõ pháp chế” sẽ tạo nên tình trạng các nhà nho dùng văn làm rối
loạn pháp luật, còn hiệp sĩ dùng võ phạm vào điều cấm. Sau này Vua Tần thấy nhìn
thấy sự tài hoa của Hàn Phi nên nhân lúc Vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ qua Tần đã mời
Hàn phi ở lại Tần để giúp Thủy Hoàng thực hiện việc thống nhất thiên ha. Nhưng Hàn
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
6
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Phi chỉ giúp vua Tần được ít lâu. Vì vua Tần chưa tin dùng ông lắm, hoặc do Lý Tư
ganh ghét không cho phép ông tiếp cận vua Tần thường, hoặc do cả hai nguyên nhân.
Lợi dụng việc Hàn Phi là công tử nước Hàn, Lý Tư đã lập âm mưu hãm hại và cuối
cùng vua Tần đã ban Hàn Phi thuốc độc để tử tự.
Những tác phẩm của Hàn Phi:
Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà
dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa, viết Cô Phẫn (sự
phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội Ngoại Trữ Thuyết
(sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Làm, Thuyết Nan (cái
khó trong việc du thuyết), tất cả hơn mười vạn chữ. Ông cũng tổng hợp tư tưởng của
các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết bộ sách Hàn Phi
Tứ.
1.1.3. Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi :
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết “Nhân trị”, "Đức
trị", "Vô vi trị", "Kiêm ái" Song tất cả đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu

cầu thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ
đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ
yếu. Trong qúa trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn phi phê phán mạnh mẽ lý
thuyết chính trị của Nho Gia. Ông cho rằng cách cai trị dựa trên tinh thần nhân đức
của nhà cầm quyền là trái với thực tế và nếu áp dụng quan điểm đó sẽ làm loạn đất
nước. Đối với ông nền tảng của việc cai trị đất nước chính là sự chế ước bản thân, một
vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định
cho đất nước. Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng là người bình thường như bao người
khác, cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua nước đó ra sao mà là
nền pháp trị của nước đó như thế nào. Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu
mạnh là phải dựa vào pháp luật, có pháp luật được thi hành một cách phổ biến và
đúng đắn thì xã hội mới được ổn định, là một tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước
giàu mạnh cho dân chúng được yên bình hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng « Không có
nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi
hành pháp luật yếu thì nước yếu ». Vì những suy nghĩ như vậy ông đã đề xuất tư tưởng
« trị nước bằng pháp luật » với chủ trương « luật pháp không phân biệt sang hèn ».
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
7
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Ông hết sức coi trọng pháp luật và cố gắng xây dựng một lý luận hoàn chỉnh, trong đó
lấy « Pháp » làm hạt nhân, và kết hợp chặt chẽ với Pháp, Thế, Thuật.
1.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử:
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia:
Học thuyết Pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Người có công khởi xướng cho phái Pháp gia là phải kể đến Quản Trọng (?-645
TCN), sống vào thời Xuân Thu, ông là tướng quốc của nước Tề. Tư tưởng về pháp trị
của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 86 thiên (còn lại), với những
điểm chủ yếu:

1- Lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành.
2- Mục đích trị quốc là làm cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng đến sự phú
quốc vì "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục".
3- Để cho quốc phú, binh cường ông có chủ trương “ngụ binh ư nông” tức đem
việc binh vào nghề nông.
4- Chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để
định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng
trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải.
5- Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm trong
phép trị nước
Sang nửa đầu thời kì Chiến Quốc, tiếp nối Quản Trọng là Thân Bất Hại (401-337
TCN), là người gốc ở đất Kinh, nước Trịnh. Chuyên học về hình danh, ông được vua
nước Hàn dùng làm tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ"
và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Ông cho rằng "Thuật" là cái "bí hiểm" của
vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không,
biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề
phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua
Cũng trong thời kì này, khác hẳn các tư tưởng khác của Pháp gia, Thận Đáo
(370-290 TCN) thuần túy là một tư tưởng gia. Ông người nước Triệu và chịu ảnh
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
8
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề
xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách
quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm
quyền. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế".
Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp:
kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao”.
Một đại biểu khác của Pháp gia là Thương Ưởng (390-338 TCN). Ông người nước
Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho

nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "Pháp" theo
nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của
ông là pháp luật phải nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, và từ trên
xuống dưới ai cũng phải thi hành, không phân biệt giai cấp; Pháp đã định rồi thì không
ai được bàn ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”.
Và cuối thời Chiến quốc, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước
của pháp gia đã kể trên là Hàn Phi (280-233 TCN). Ông người nước Hàn, chủ trương
đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước
không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho, "Kiêm ái" của Mặc, "Vô vi nhi trị" của
Đạo gia như trước, mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về
lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ
lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Vì thế, không có một phương
pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ
thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng
Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc
bấy giờ.
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử:
Ba cơ sở của thuyết Pháp trị của Hàn Phi:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những lực lượng khách quan
trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên xã hội. Ông yêu cầu con người
phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biên hóa mà hành động phù hợp.
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội nào
bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông người thống
trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
9
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Ông cho rằng
không có thứ pháp luật nào là luôn luôn đúng trong mọi thời đại mà nó luôn có sự thay
đổi.

Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: do bản tính con người là ác và trong xã
hội người tốt thì ít, với nhiều kẻ xấu như vậy để xây dựng được một xã hội bình yên
không nên trong chờ vào số ít mong họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông
ngăn chặn không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị)
Nội dung cơ bản trong của thuyết Pháp trị:
Nếu như trong phép trị nước Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao
“Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì học thuyết Pháp trị của Hàn Phi lại coi trọng
cả ba yếu tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không
thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung
trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạn; còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách
cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Đầu tiên ta sẽ tìm hiểu về Pháp, Pháp được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp"
là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những
điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát
triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến
lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng
người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính
cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng
trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy,
khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính như:
1- Pháp luật phải hợp thời.
2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành.
3- Pháp luật phải công bằng.
4- Pháp luật có tính cách phổ biến.
Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận,
phải trái, tốt, xấu, thiện, ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
10
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội

lấy pháp làm chuẩn, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, "Pháp" trở
thành cái gốc của thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp luật,
như vậy là nước trị.
Tiếp đến sau đó là Thế, Thế là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi
hành thì nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ
trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung.
3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu
nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ
không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa theo
nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu, phạt thì
phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải nắm
hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc
hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy
"Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất
nước, của vận nước. Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là
nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ
kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
Và cuối cùng là Thuật, thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu
lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai
dùng họ như thế nào. Nhiệm vụ chính của thuật cai trị là phân biệt quan lại trung
thành, tận tâm và những quan lại ma giáo, thử năng lực của họ kiểm tra công trạng và
những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật

pháp và chế độ chuyên chế.
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
11
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Theo Hàn Phi “Thuật” có hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật: là phương
án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại. Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần
thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Tâm thuật: có rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào
ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh và
ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói ngược
lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình
không cảm hóa được.
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian
và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân thích
của vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm của
vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương, vua phải:
Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không cho họ biết mưu tính của mình;
Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải hỏi mình
trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp luật trong
việc thưởng phạt họ; Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không… Tìm
kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì xét xem ai là kẻ
có lợi. Muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì:
1- Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin;
2- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ;
3- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt. Nếu dùng
những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ, bằng cách mượn tay kẻ
thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh tiếng. Nhưng cách tốt nhất
là không dùng những người không nên dùng để khỏi phải đề phòng họ. Hàn Phi cho
biết một số hạng người không nên dùng: Hạng người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ
chức vụ mà đi nơi khác; Hạng đặt lời giả dối trái pháp luật; Hạng người lánh đời, ở ẩn,

chê bai vua; Hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu; Hạng vì người thân quen mà làm
việc riêng tư. Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian thần, nếu
vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật dùng
người theo Pháp gia là thuyết Hình danh và Chính Danh, Thực Danh. Thuyết này là
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
12
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Pháp gia kế thừa từ Khổng Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không
bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào
việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ở đây danh là lời nói và
hình là việc thực hiện. Chẳng hạn như một người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là
"Danh" và hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực
thì chứng tỏ danh và hình (hay danh và thực) hợp nhau gọi là chính danh, ngược lại
danh và thực nếu không hợp nhau, tức là chỉ có danh mà không có hình hay không có
thực nghĩa là không chính danh, từ đó sẽ căn cứ thưởng phạt một cách nghiêm minh.
Nếu pháp luật là danh thì sự việc là hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp
nhau. Nếu quan vị là danh thì chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị thì danh
và hình không hợp nhau. Thuật phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh
chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi.Vua nắm lấy danh còn bề tôi làm ra hình.
Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan lại,
nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó
thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được.
Ngoài các yếu tố "Pháp", "Thế", "Thuật", tư tưởng Pháp gia còn coi trọng việc xây
dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất
chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của
xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ
đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về

"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong
một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư
tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và
nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì
vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy
Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được
đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
13
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA
HÀN PHI TỬ LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Tư tưởng của Hàn Phi Tử phân tích rất sắc bén. Chẳng hạn như khi phân tích về
những điều mà nhà nước có thể diệt vong, ông đã nêu ra tới 47 điều, quả là điều hiếm
có. Còn hai chương có tiêu đề “Nan ngôn” “thuyết nan”, ông đã phân tích một cách
cặn kẽ tâm lý con người cũng như né trách những điều gây phật ý. Hàn Phi Tử còn vận
dụng rất nhiều câu chuyện Ngụ ngôn và kiến thức lịch sử phong phú để làm tư liệu
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
14
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
luận chứng, nói lên đạo lý trìu tượng, thể hiện một cách hình tượng tư tưởng luật học
và những nhận biết sâu sắc của ông đối với xã hội. Trong các bài viết của ông có rất
nhiều mẩu chuyện ngụ ngôn, do nội hàm phong phú, sinh động đã trở thành những
điển tích truyền miệng của mọi người, đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi.
2.1. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Trung Hoa cổ đại, thời Chiến Quốc:
Lịch sử phong kiến Trung Quốc (thời kỳ trung đại) được xác định từ năm 221
TCN đến năm 1840, mở đầu là mốc lịch sử Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc
và kết thúc bằng sự kiện chiến tranh thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh, Trung
Quốc trở thành một nước nửa phong kiến thuộc địa. Đây là thời kỳ thống trị của các
vương triều phong kiến lớn, Trung Quốc cường thịnh và phát triển về mọi mặt. Xuyên

suốt hơn hai ngàn năm, tư duy chính trị- pháp lý Trung Quốc không ngừng được bổ
sung, phát triển để định hình nên hệ thống pháp luật đặc sắc Trung Hoa.
Thời kỳ Chiến quốc-Tần Hán (từ thế kỷ thứ V tr.cn đến đầu thế kỷ thứ III sau.cn):
Giai đoạn hình thành và bước đầu phát triển của chế độ phong kiến chuyên chế. Nhà
Tần thống nhất được toàn lãnh thổ Trung Quốc đã triệt để thi hành chủ trương pháp trị,
lấy pháp chế của Hàn Phi Tử làm cơ sở để thống nhất pháp chế trong cả nước. Tư
tưởng chỉ đạo dùng pháp trị quốc và tội nhẹ phạt nặng được Tần Thủy Hoàng phát huy
hết mức. Những chủ trương biện pháp đó đã phát huy tác dụng lịch sử đối với việc
thống nhất Trung Quốc, là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của lịch sử lúc
bấy giờ. Nhưng vì sau thắng lợi, giai cấp thống trị nhà Tần đã không biết căn cứ vào
tình hình mới mà tiến hành những điều chỉnh cần thiết về pháp luật, một mực quán
triệt ý đồ của mình bằng hình phạt cứng rắn, đến mức đốt sách chôn nho, sưu cao thuế
nặng, lấy hình phạt giết chóc để đàn áp, khiến cho pháp chế vốn có của nhà Tần bị phá
hoại. Trong khi thực hiện các chính sách thống trị cũng như trong cuộc sống, Tần
Thủy Hoàng tỏ ra rất tàn bạo và xa xỉ, trở thành bạo chúa nổi tiếng trong lịch sử Trung
Quốc. Sau khi Thuỷ Hoàng chết, Tần Nhị Thế càng đặt ra nhiều pháp luật làm mâu
thuẫn giai cấp gay gắt thêm nên vương triều Tần xây dựng chỉ được hơn mười năm đã
hoàn toàn sụp đổ.
Giai cấp thống trị nhà Hán rút bài học chính trị tàn bạo chóng bị tiêu vong của nhà
Tần và hiểu rằng “có thể ngồi trên lưng ngựa mà lấy được thiên hạ nhưng không thể
ngồi trên lưng ngựa mà trị được thiên hạ”, đã thấy tất yếu phải điều chỉnh cách thức
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
15
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
cai trị để không dẫm lại vết xe đổ của kẻ đi trước. Nhằm kiến lập nền thống trị ổn định
lâu dài, nhà Hán đã quyết tâm điều chỉnh chính sách cai trị theo phương châm: đưa
nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống đồng thời tiếp tục đề cao phái pháp trị.
Thực hiện chủ trương đó, nhà Hán đã cải cách pháp chế của nhà Tần thuộc chính
thống pháp gia để khắc phục những tệ lậu căn bản của nó: một là phế bỏ pháp luật hà
khắc và hình phạt tàn khốc. Lưu Bang cho rằng muốn củng cố được triều đại của mình

thì phải nhượng bộ nhân dân, giảm bớt sự áp bức bóc lột đối với họ. Vì vậy, lúc đầu
triều Tây Hán đã thủ tiêu những pháp luật hà khắc của nhà Tần, tuyên bố phế bỏ nhục
hình, đình chỉ việc xây dựng những công trình lớn và giảm nhẹ sưu dịch để lấy lòng
dân nhưng sau đó pháp luật và hình phạt khắc nghiệt của thời Tần như “di tam tộc”,
“cụ ngũ hình” lại được khôi phục để bảo vệ sự thống trị; hai là chăm sóc người già
trẻ con và người tàn phế, người có tật; ba là thi hành chế độ bình nghị định tội xét hình
(nghiễn ngục) đảm bảo thận trọng trong xử lý; bốn là lấy Xuân thu để quyết án. Tức là
dẫn sáu bộ sách kinh điển nho gia là Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc và Xuân thu làm chuẩn
mực để xử án; năm là giải thích pháp luật bằng giáo lí nho gia. Nhà Hán đã thực hiện
cải cách pháp luật trên nền tảng Pháp trị của nhà Tần kết hợp với lễ chế của nho gia.
Cải cách pháp luật đời Hán là quá trình giai cấp thống trị không ngừng tổng kết
kinh nghiệm để sửa đổi pháp luật đời Tần và cũng là quá trình tư tưởng nho gia từng
bước ảnh hưởng đến pháp chế phong kiến. Suốt đời Hán, tuy chưa xuất hiện một bộ
pháp điển nào lấy nho gia làm tư tưởng chỉ đạo, nhưng công cuộc cải cách pháp luật
nói trên có ý nghĩa rất quan trọng: nó đánh dấu sự hình thành và xác lập pháp chế
phong kiến trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời cũng là bước ngoặt của tư tưởng pháp
trị từ chính thống sang giai đoạn phát triển dưới ảnh hưởng của nho giáo. “Đến đời
Tần thống nhất, mới bắt đầu bước vào xã hội phong kiến lấy nông thôn làm điểm xuất
phát, và đến “pháp độ” của Hán Vũ đế mới dùng hình thức pháp luật để cố định chế độ
phong kiến ”. Từ đây, xu hướng kết hợp lễ trị và pháp trị trở thành đường lối cai trị
chủ yếu của nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự phát
triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất nước
Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội Trung Hoa
cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử
có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
16
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp

quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Việt Nam xã hội phong kiến:
Tư tưởng về đường lối trị nước là sự phản ánh ý chí, chủ trương của các triều đại
phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn vong của mỗi triều đại. Trong
lịch sử Việt Nam gắn với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, tư tưởng về
đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện của bộ máy
nhà nước phong kiến.
Nhà Trần đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc về lĩnh vực đấu tranh
bảo vệ đất nước, làm nên hào khí “Đông A” vẻ vang. Hào khí ấy thấm đậm tinh thần
Nho giáo được khởi nguồn từ “ý trời, lòng dân” trong Chiếu dời đô và “chủ quyền
quốc gia” trong Nam quốc sơn hà thời Lý, lại được tiếp sức bởi đường lối đoàn kết
toàn dân, xây dựng đội quân cha con hùng mạnh, tư tưởng tôn trọng những giá trị
thiêng liêng của con người và đặt ra những vấn đề vinh nhục trong cuộc sống của nó
dưới thời Trần.
Đường lối trị nước ở thời Trần so với thời Lý là một bước phát triển mạnh mẽ. Đó
không còn đơn thuần là đường lối “đức trị” với tinh thần “từ bi bác ái” của nhà Phật
như thời Lý, mà là đường lối kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trên tinh thần “đức chủ,
pháp bổ”, đường lối “đức trị” giữ vị trí chủ đạo trong cách cai trị của nhà Trần. Chỉ
mấy năm sau khi lên ngôi, năm 1230 Lê Thái Tông đã lập tức cho “khảo xét các luật lệ
của triều trước soạn thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20
quyển”. Đến đời Trần Dụ Tông, vua lại sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn
biên định bộ Hình thư. Đồng thời với việc biên soạn luật pháp, nhà Trần còn quan tâm
đến việc hoàn chỉnh các cơ quan chuyên trách về tư pháp và thể lệ xét xử. So với thời
Lý thì thời Trần có bước phát triển hơn cả về việc biên soạn luật lẫn việc kiện toàn bộ
máy pháp luật. Ở trung ương, nhà Trần có cơ quan chuyên xét việc kiện tụng gọi là
viện Thẩm hình, ngoài ra còn có viện Đăng văn Kiểm pháp làm nhiệm vụ xét hỏi của
các cơ quan xét xử. Cùng với việc làm đó là sự tuyển chọn và bổ nhiệm những quan
lại thanh liêm vào các cơ quan pháp luật. Những người được lựa chọn vào làm việc ở
các cơ quan luật pháp phải thông qua thi cử, trong đó có thi về hình luật (thi thủ phân,
hỏi về phép đối án).

SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
17
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Đường lối kết hợp đức trị với pháp trị từ nhà Trần đến nhà Lê sơ là một bước phát
triển mới trong lĩnh vực chính trị - xã hội so với các thời kỳ trước đó. Nếu ở nhà Trần
đường lối “đức trị” là chủ đạo có sự hỗ trợ của pháp luật thì đến thời Lê sơ, vai trò của
pháp luật đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố đức trị. Nói cách khác, đó là đường
lối trị nước đức trị kết hợp với pháp trị theo đúng nghĩa của nó. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào điều kiện thực tiễn cụ thể, có khi tư tưởng pháp trị đã vượt lên và được đề cao hơn
cả đức trị. Chẳng hạn, vua Lê Thái Tổ khẳng định: “Từ xưa đến nay trị nước phải có
pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật, để
dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ, biết thế nào là thiện ác, điều
thiện thì làm, chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp”. Chính vì vậy, ngay từ
những ngày đầu lên ngôi, việc lập pháp đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng.
Năm 1428, ông đã “hạ lệnh cho các quan… bàn định pháp lệnh cai trị quân dân, để
người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn quân dân
biết có pháp luật”.
Nổi bật trong đường lối pháp trị của Lê Thái Tổ là việc đề cao pháp luật mà trọng
tâm là việc thưởng phạt nghiêm minh. Hình phạt dưới thời Lê Thái Tổ mặc dù chưa
chặt chẽ, song, có thể nói là rất nghiêm khắc, bởi tình hình đất nước khi đó hết sức
phức tạp, chưa ổn định sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc.
Bộ Quốc triều hình luật nổi tiếng được hoàn thành dưới triều đại của ông và được
sử dụng, kế thừa trong nhiều triều đại sau này với nội dung chủ yếu là bảo vệ vương
quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp và gia đình phụ hệ gia trưởng thông qua cơ
chế pháp luật. So với Hình thư của nhà Trần thì bộ Quốc triều hình luật - Bộ luật
Hồng Đức có sự phát triển cả về qui mô, nội dung, tính nghiêm khắc lẫn tính thực tiễn
của nó. Tuy nhiên, dù bộ Quốc triều hình luật là bộ luật nghiêm khắc, song nó vẫn
chứa đựng những yếu tố đạo đức như những nguyên tắc nhân đạo, được vận dụng khi
xử lý một số đối tượng, như phụ nữ, người già, trẻ em, người tàn tật (các điều 1, 16,
17, 18, 19… của bộ luật).

Đường lối trị nước kết hợp giữa đức trị với pháp trị dưới thời Lê sơ được các triều
đại sau kế thừa. Nhà Mạc đã kế thừa gần như trọn vẹn các chủ trương, đường lối của
thời Lê Thánh Tông về tổ chức bộ máy nhà nước quan liêu cũng như hệ thống giáo
dục khoa cử của nó.
(15)
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
18
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ngay từ khi
nắm quyền cai trị đất nước, đã thực hiện sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai, thể hiện sự
tiếp tục phát triển đường lối trị nước của nhà Lê sơ, bởi khi đó nhà Nguyễn, đứng đầu
là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây Sơn, nhưng không vì thế
mà học tập và xây dựng mô hình nhà nước phương Tây. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho
các quần thần biên soạn bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long) trên cơ sở kế thừa Luật
Hồng Đức và tham khảo luật lệ nhà Thanh cho thấy ảnh hưởng của đường lối trị nước
thời Lê sơ đối với triều Nguyễn đến mức nào. Những thay đổi ở một số điều khoản của
Luật Gia Long so với Luật Hồng Đức cũng là điều dễ hiểu, bởi ý chí và chủ trương về
đường lối trị nước của bất kỳ triều đại nào cũng đều bị qui định bởi sự tồn tại của xã
hội và của chính triều đại đó.
Từ những điều trên, ta có thể thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng các tư tưởng từ
Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo, Pháp trị của Hàn Phi Tử.
Từ xa xưa, các vị vua đã thấy được ưu điểm của Pháp trị, biết lấy Đức trị để khắc phục
nhược điểm của Pháp trị, và đã sử dụng chúng một cách tài tình trong việc xây dựng
và bảo vệ đất nước. Từ những điều này, đã tạo ra những bước tiền đề tốt đẹp cho xã
hội Việt Nam ngày nay.
2.3. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - xã hội ngày nay:
2.3.1. Bối cảnh xã hội ngày nay:
Trải qua hàng ngàn năm vận động và phát triển, xã hội loài người có nhiều bước
biến chuyển đáng kinh ngạc. Từ khi khai thiên lập địa, con người từ thời kỳ đồ đá,
chuyển sang thời kỳ phong kiến, phong kiến suy vong rồi chủ nghĩa tư bản ra đời,

thống trị thế giới, và cuối cùng lại đến với xã hội chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ xã hội, mỗi
quá trình có những thành tựu và khó khăn nhất định, cái mới đi lên thay thế cho cái cũ
không phù hợp, tuy nhiên, những chân lý luôn luôn tồn tại và được học hỏi không
ngừng. Và Pháp gia của Hàn Phi Tử là một trong những chân lý đó, mặc dù nó có
những điểm không tích cực, nhưng nó luôn được vận dụng trong mọi xã hội, đặc biệt
là ngày hôm nay, trong thời đại kinh tế thị trường. Pháp quyền không thể đặt bên cạnh
các giá trị về tinh thần như chân lý khoa học, sự tận thiện về đạo đứa hay kinh bổn của
tôn giáp. Nó chỉ có ý nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết
định bởi những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Tuy nhiên, nó lại có ý
nghĩa to lớn trong việc ổn định xã hội. Khác với bối cảnh xã hội thời Hàn Phi Tử - thời
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
19
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Xuân Thu – Chiến quốc, xã hội loạn lạc, việc phát hiện sắt đã tạo ra một bước phát
triển mới của loài người, đem đến sự phồn vinh về mặt kinh tế, tuy nhiên điều đó tạo
ra sự giao tranh giữa các vương triều lúc bấy giờ. Thời đại ngày nay thì khác, không
còn có sự thống trị của chế độ phong kiến, theo kinh nghiệm của nhiều nước phát triển
cho thấy nền kinh tế thị trường có ba trụ cột: Nhà nước pháp quyền, thị trường và xã
hội dân sự; đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc phải dựa trên sự phát triển đồng
bộ, hài hòa của cả ba trụ cột ấy. Điều này cho thấy pháp luật rất quan trọng trong mọi
thời đại.
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối
cảnh toàn cầu hóa, sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý
có tính quốc tế đang đòi hỏi mỗi quốc gia phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập
pháp. Bên cạnh đó, xã hội phát triển theo hướng tự do, dân chủ, pháp luật càng đóng
một vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ của xã hội, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, của xã hội và mỗi cá nhân.
Điều này cho thấy, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử không chỉ có ích cho Trung
Quốc trong khoảng thời gian đó, mà còn đem lại nhiều giá trị tư tưởng bổ ích đến tận
ngày hôm nay.

2.3.1. Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay:
Qua thời gian, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử đã cho thấy được những điều tích
cực cũng như những hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, những tư tưởng ấy của ông đã góp
phần đặt nên nền móng để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, một thể chế nhà
nước mà các nước đang hướng tới. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên nền tảng
của chế độ pháp trị.
Nhưng cũng phải nhận thấy rằng, chế độ pháp trị gắn liền với nhà nước pháp quyền
hiện nay có những khác biệt so với chế độ pháp trị theo tư tưởng của Hàn Phi Tử.
Theo tư tưởng Pháp trị của vị triết gia Trung Quốc cổ đại, pháp luật chỉ là công cụ của
Nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật, có quyền ban hành mọi thứ luật mà nhà
nước đó muốn và cần để cai trị. Còn pháp trị gắn với nhà nước pháp quyền thể hiện
quan điểm là pháp luật cai trị chứ không phải con người cai trị. Trong trường hợp này,
không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả Nhà nước.
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
20
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Việc cai trị, điều hành đất nước theo tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử, thông qua
nhà nước pháp quyền hiện nay và thông qua hệ thống pháp luật, luôn luôn chứa đựng
cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực lên đời sống kinh tế, xã hội hiện đại mà
chúng ta sẽ xem xét sau đây.
2.3.2.1. Những ảnh hưởng tích cực:
Thứ nhất, Pháp trị giúp củng cố quyền lực đồng thời hạn chế sự độc đoán của nhà
nước.
Nhà nước và pháp luật, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý, luôn có
mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, những quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu
lực trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm
quyền; và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở
sức mạnh của quyền lực Nhà nước.

Nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô
toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của xã hội và của từng người dân. Một hệ
thống pháp luật tốt (thể hiện qua tính toàn diện, tính thống nhất và tính phù hợp) sẽ
giúp Nhà nước quản lý tốt những vấn đề nảy sinh trong tất cả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, bắt kịp được với trình độ phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với
các quan hệ xã hội. Một khi xã hội vận hành tốt trong khuôn khổ hệ thống pháp luật
ấy, vai trò, quyền lực của nhà nước sẽ được tăng cường và củng cố. Ngoài ra, trong bối
cảnh nước ta khi mà nhiều thế lực thù địch tăng cường việc chống phá chế độ, phá
hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa như hiện nay thì phải cần đến sự nghiêm
minh của pháp luật để ngăn chặn và ngăn ngừa những hành động phá hoại đó.
Bên cạnh đó, pháp trị ngày nay gắn liền với nhà nước pháp quyền mà theo đó,
không có một ai kể cả Nhà nước, được đứng trên pháp luật. Hoạt động của Nhà nước
cũng phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật mà nó ban hành. Điều này giúp
kiểm soát những hoạt động của nhà nước.
Thứ hai, pháp luật hỗ trợ việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức và định
hướng ứng xử.
Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa đời sống xã hội
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
21
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc tăng
cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không
chỉ nhằm để xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến
bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức và hành vi ứng
xử.
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn
nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực
khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng
chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao,

khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một
cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người và con
người, giữa con người với xã hội.
Nền kinh tế thị trường đang lao đi với tốc độ chóng mặt, ngoài những điều tích cực
mang lại cho kinh tế - xã hội, thì nó còn kéo theo sự băng hoại, xuống cấp về mặt đạo
đức, hành vi ứng xử của một bộ phận không nhỏ người dân. Trong một xã hội mà,
ngoài những giá trị truyền thống, đồng tiền và lối sống thực dụng đang được đề cao,
thì sự suy đồi về mặt đạo đức là không thể tránh khỏi. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng
làm tất cả mọi thứ, bất chấp tất cả để có được nó. Vì đồng tiền, tình cảm cha-con, anh-
em, chồng-vợ, bạn bè, … bị đặt xuống hàng thứ yếu, anh em dắt tranh giành đất đai
phải dắt nhau ra tòa, bạn bè vì tranh cãi vấn đề tiền bạc mà không nhìn mặt nhau nữa,
…Quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội cũng bị hạ thấp đến mức báo động.
Văn hóa ứng xử nơi công cộng cũng bị lãng quên, người trẻ bất kính với người lớn
đáng tuổi cha tuổi chú mình; người ta sẵn sàng lao vào đấu đá nhau chỉ vì một mâu
thuẫn nhỏ ở trên đường, …Thậm chí còn nguy hại hơn, người ta ngày càng dửng dưng
trước nguy hiểm, trước sự an nguy tính mạng của đồng loại. Mới đây, đất nước Trung
Hoa đã phải chứng kiến hình ảnh một em bé gái hai tuổi gặp tai nạn nguy hiểm đến
tính mạng trước ánh mắt thờ ơ của nhiều người qua đường. Và cũng chẳng cần phải
nói đâu xa, ngay ở xã hội ta cũng đầy rẫy những chuyện như vậy. Đó là, câu chuyện
một người đàn ông trong lúc giằng co với tên cướp làm túi tiền của mình quăng ra
đường và ngay lập tức nhiều người đi đường thay nhau “hôi của”; đó là câu chuyện
một “hiệp sĩ” bắt cướp, sau khi quần nhau, tóm gọn tên cướp, quay ra thì mới biết
chiếc xe máy của mình đã “không cánh mà bay”, …
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
22
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
Hành vi, ứng xử của con người là những vấn đề thuộc về phạm trù đạo đức, thuộc
về lương tri của mỗi người. Nhưng một khi đạo đức xuống cấp, lương tri không còn sẽ
dẫn đến một lối sống lệch lạc và vô cùng nguy hiểm. Thế nên những hành vi, ứng xử
này cần phải được luật hóa và quy định rõ ràng, kèm theo những chế tài thích hợp để

mang tính răn đe, buộc con người phải tuân theo những quy tắc ứng xử đã được đề ra,
dần dần góp phần củng cố những giá trị đạo đức. Xin được dẫn chứng ra đây một ví dụ
để thấy điều này là cần thiết, là đòi hỏi của thực tế những năm qua; Điều 102 Bộ Luật
Hình sự quy định “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
Thứ ba, chế độ pháp trị là nền tảng của hòa bình, trật tự và công bằng trong xã
hội hiện đại.
- Xét trong phạm vi một quốc gia:
Các mối quan hệ xã hội rất đa dạng và vô cùng phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh
vực của cuộc sống. Trong nhịp sống hối hả ấy, con người cứ tất bật lao đi và vì vậy sẽ
vô tình hoặc cố ý giẫm đạp lên lợi ích của nhau, vượt qua những chuẩn mực, những
giới hạn mà xã hội đã đặt ra và gây ra tình trạng rối loạn trong xã hội. Pháp luật sẽ quy
định người ta được làm và không được làm những gì, và đâu là giới hạn. Trong một xã
hội mà hệ thống pháp luật vận hành tốt, con người sẽ được đối xử bình đẳng với nhau,
có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật.
- Xét trên bình diện quốc tế:
Sự xuất hiện của một hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp đã tạo nên thế cân bằng
quan trọng trong các vấn đề toàn cầu. Việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế đã
giúp giữ gìn hòa bình và giải quyết xung đột. Luật pháp quốc tế đã cho các quốc gia,
không phân biệt địa vị chính trị, kinh tế hay quân sự, có tiếng nói bình đẳng, loại bỏ
việc sử dụng một cách bất hợp pháp vũ lực.
Mặc dù không thể phủ nhận rằng, với tiềm lực hùng mạnh về kinh tế, tài chính,
quân sự cũng như ảnh hưởng chính trị to lớn của mình, các cường quốc như Hoa Kỳ,
Trung Quốc,… đang cố gắng áp đặt, lèo lái cộng đồng quốc tế theo đường lối của
mình, và mặc dù ở một mức độ nhất định nào đó các nước này đã thành công; nhưng
cộng đồng quốc tế, thông qua các diễn đàn quốc tế đã góp phần ngăn cản sự bành
trướng, áp đặt của các quốc gia này. Chẳng hạn Trung Quốc, vì những mưu lợi kinh
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
23

Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
tế-chính trị, muốn biến Biển Đông trở thành “sân sau” của mình, liên tục gây bất ổn
trong khu vực bất chấp những quy tắc ứng xử về Biển Đông đã được cộng đồng quốc
tế thừa nhận. Rồi đến Hoa Kỳ, với sự hậu thuẫn của NATO, đã liên tục gây ra chiến
tranh ở khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm các lợi ích kinh tế…
Việc tăng cường ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế thông qua các diễn đàn quốc
tế, đảm bảo cho những nguyên tắc, luật lệ quốc tế được tôn trọng và thực thi đầy đủ sẽ
giúp tạo ra quy tắc ứng xử chung cho các nước, ngăn cản tham vọng bá quyến, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của các cường quốc, tạo ra môi trường bình đẳng cho tất cả các
nước trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì hòa bình và ổn định chính trị, xã hội trên
thế giới.
Đó là trên phương diện chính trị, còn trong lĩnh vực thương mại, việc gia nhập vào
Tổ chức thương mại thế giới hay các liên kết kinh tế khu vực đã tạo ra môi trường
cạnh tranh bình đẳng giữa các nền kinh tế, giữa các doanh nghiệp của các quốc gia
thành viên.
Thứ tư, xét trong lĩnh vực kinh tế, hệ thống pháp luật giúp xây dựng và bảo vệ các
hoạt động, các mối quan hệ kinh tế.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, pháp luật quy định tất cả các doanh nghiệp được
quyền hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, được quyền tiến hành những
hoạt động mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, để bảo vệ các doanh nghiệp, luật pháp
cũng quy định ngăn cấm các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng
đến doanh nghiệp khác. Từ đó, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích
các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động của mình.
Đứng trên góc độ người tiêu dùng, pháp luật có những quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi của họ. Ở các nước phát triển, cùng với sự ra đời các Hiệp hội bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng, Pháp luật có những quy định đầy đủ và chi tiết về vấn đề này.
Còn ở nước ta, chúng ta cũng dần dần cố gắng tiếp cận theo hướng đi này.
2.3.2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực:
Thứ nhất, tình trạng lạm quyền, lợi dụng pháp luật:
Trong hình thức nhà nước pháp quyền mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đang

hướng tới, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và không có bất cứ một ai được đứng
trên nó, kể cả Nhà nước. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho Pháp luật một sự tôn
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
24
Đề tài: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội
trọng cao nhất và để tránh tình trạng lạm dụng pháp luật của một bộ phận cán bộ, cơ
quan nhà nước.
Tuy nhiên trong thực tế, do nhận thức sai về điều này, cộng với sự thiếu hiểu biết, e
ngại pháp luật của một bộ phận người dân, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ, cơ quan
nhà nước hành xử vượt quá phạm vi quyền hạn của mình, dùng pháp luật như một
công cụ phục vụ cho những mục đích không chính đáng. Đây là thực trạng mà hầu hết
các nước gặp phải, từ các nước chậm và đang phát triển cho tới các nước phát triển.
Và điều này cũng chính một trong những vấn đề nhức nhối của nước ta trong
những năm qua. Cùng với sự suy đồi về đạo đức, một số cán bộ đã lợi dụng pháp luật
như một công cụ để đe dọa nhân dân hay dùng vào mục đích mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ hai, pháp luật đôi khi mang tính áp đặt.
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, và trong nhiều trường hợp giai cấp
cầm quyền không đại diện cho tất cả người dân. Ở nhiều nước trên thế giới với sự tồn
tại đồng thời của nhiều đảng phái chính trị, sự lên ngôi của một đảng nào đó thường sẽ
dẫn đến những thay đổi trong đường lối hoạt động và ngay cả trong các chính sách
pháp luật, phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận cầm quyền và những người
ủng hộ và do đó cũng “bỏ rơi” một bộ phận còn lại. Ngay cả ở Việt Nam chúng ta,
mặc dù chỉ có một Đảng duy nhất được thừa nhận nhưng không phải lúc nào những
chính sách, văn bản pháp luật mà nó ban hành cũng nhận được sự đồng tình từ tất cả
người dân. Sự áp đặt của pháp luật là tất yếu vì nó không thể phản ánh được nguyện
vọng của tất cả người dân.
Thứ ba, cai trị đất nước đơn thuần bằng pháp luật, trong nhiều trường hợp dẫn
đến sự cứng nhắc và đôi khi không thể hiện tính nhân văn.
Trong một xã hội đề cao nguyên tắc sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật thì
tất cả mọi người phải hành xử dựa vào những quy định đã được đặt ra. Những quy

định này áp dụng cho tất cả mọi người, trong mọi trường hợp, và như vậy nhiều khi sẽ
dẫn đến những vận dụng cức nhắc, thiếu linh hoạt trong những tình huống cụ thể.
Cùng là những tình huống và sự kiện giống nhau, nhưng chịu tác động của những yếu
tố khác nhau thì phải được xem xét riêng, theo những cách thức không hoàn toàn
giống nhau.Việc vận dụng pháp luật trong thực tế mà không xem xét đến những yếu tố
đó sẽ khó có thể tạo ra sự thuyết phục và đồng tình từ dư luận.
SVTH: Nhóm 5 – Đêm 9 – K21 GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
25

×